Nam Kỳ, cái nôi của nền báo chí Việt Nam (giai đoạn cuối thế kỷ XIX)
Trương Vĩnh Ký được đánh giá là người sáng lập ra nền báo chí quốc ngữ và Gia-định báo được coi là tờ báo quốc ngữ đầu tiên của Việt Nam. Tuy nhiên, trước những mốc lịch sử này, đã có nhiều tờ báo được viết bằng tiếng Pháp, được người Pháp sáng lập để phục vụ công cuộc chinh phục thuộc địa tại Nam Kỳ.
Ngay cuối năm 1861, nhà máy in đầu tiên, Nhà in Hoàng gia (l’Imprimerie Impériale), được thành lập để đáp ứng mọi công việc in ấn và đặc biệt là in các công báo của chính quyền. Trừ Nhà in Nhà chung (l’Imprimerie de la Mission, 1865-1945), chính phủ giữ độc quyền trong lĩnh vực này cho tới khi ban hành sắc lệnh 10/09/1870 về quyền tự do hoạt động trong lĩnh vực in ấn và nghề bán sách. Nhờ đó, một số nhà in tư nhân đầu tiên xuất hiện tại Sài Gòn ngay từ năm 1873.
Trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX, các ấn phẩm báo chí tại Nam Kỳ có thể được chia ra thành ba nhóm, gồm công báo được viết bằng tiếng Pháp, công báo được xuất bản bằng chữ viết địa phương và ấn phẩm khảo cứu. Tất cả đều nhằm phục vụ chính sách truyền bá của chính phủ thuộc địa.
Trong tạp chí này, chúng tôi xin chỉ đề cập tới các tờ báo đầu tiên được viết bằng chữ Pháp. Riêng tờ Gia-định báo, một tờ báo được viết bằng chữ quốc ngữ, đã được đề cập nhiều qua hai bài viết về sự nghiệp của Trương Vĩnh Ký và quá trình ông phổ biến loại ký tự la tinh này, nên chúng tôi không đề cập trong tạp chí này.
Những tờ công báo bằng tiếng Pháp
Ngay cuối năm 1861, tờ công báo đầu tiên tại Nam Kỳ, le Bulletin officiel de l’expédition française de la Cochinchine (tạm dịch, Bản tin chính thức của đoàn quân viễn chinh Pháp tại Nam Kỳ), được phát hành ngay sau khi chuẩn đô đốc Bonard đặt chân tới đây, lúc đó gồm ba tỉnh Biên Hoà, Gia Định, Định Tường nằm dưới sự quản lý của người Pháp. Trái với người tiền nhiệm, ông cố gắng tránh mọi thay đổi quá lớn hay quá đột ngột đối với người dân địa phương. Chính vì vậy, tờ công báo là công cụ giúp truyền đạt tới những “vị quan cai trị” mới người Pháp đường lối, chính sách của vị Thống đốc mới, được đánh giá là ôn hoà.
Tờ le Bulletin officiel de l’expédition française de la Cochinchine ra khổ tương tự các tờ công báo của Pháp thời kỳ đó và cũng bao gồm « các nghị định, quyết định và thông báo có thể liên quan tới nhân viên hành chính hay binh lính và người nước ngoài sống tại các tỉnh Nam Kỳ nằm dưới sự quản lý của chính quyền Pháp ». Văn bản của các năm 1861 và 1862 được đóng chung thành một tập. Còn những văn bản của tháng 11 và tháng 12 của năm trước được in chung vào năm sau cho tới năm 1866. Tuy nhiên, vì chỉ in bằng chữ Pháp nên công báo chỉ được phổ biến trong giới sĩ quan người Pháp và một cộng đồng nhỏ người bản xứ biết loại tiếng này. Trong một xứ mà đa số người dân sử dụng chữ Hán, tờ công báo trên không phải là một công cụ tuyên truyền hiệu quả.
Chính vì vậy, chỉ một năm sau đó, năm 1862, tờ le Bulletin des Communes (Cáo trình các Làng xã) ra đời vẫn theo lệnh của Bonard. Điều đáng tiếc là hiện nay, tờ công báo này bị thất lạc. Có cùng mục đích với tờ công báo tiếng Pháp, le Bulletin des Communes được giao tới tận tay quan lại địa phương « nhằm giúp dân chúng hiểu rõ quyền lợi, nghĩa vụ của họ, cũng như những biện pháp cai quản mà người đứng đầu xứ đưa ra nhằm ổn định và giúp đất nước phồn thịnh ». Có rất nhiều ý kiến cho rằng, tờ công báo viết bằng chữ Hán này có lẽ đã thực hiện chức vụ cung cấp thông tin cho quan lại địa phương tới khi tờ Gia-định báo được viết bằng chữ quốc ngữ ra đời (1865).
Hai năm sau khi tờ le Bulletin des Communes ra đời, ngày 01/01/1864, bán nguyệt san le Courrier de Saigon (Thư tín Sài Gòn), cũng được viết bằng tiếng Pháp, phát hành số đầu tiên dưới sự điều hành của Gaston Amelot. Tờ báo này cũng chỉ đơn thuần là một tờ công báo, trích đăng những thông tin từ tờ Bulletin officiel. Một năm sau, năm 1865, khi công cuộc bình định kết thúc, cùng với việc sáp nhập thêm ba tỉnh Châu Đốc, Hà Tiên, Vĩnh Long, chuẩn đô đốc de la Grandière quyết định đổi tên tờ le Bulletin officiel de l’expédition de la Cochinchine, thành tờ le Bulletin officiel de la Cochinchine française (Bản tin chính thức của Nam Kỳ thuộc Pháp, 1865-1888).
Thời gian sau đó, các ấn phẩm trên được đổi tên mỗi khi chính quyền thuộc địa mở rộng thêm lãnh thổ. Vì thế, trong khoảng thời gian từ 1889 đến 1901, khi Liên hiệp Đông Dương được thành lập, tờ le Bulletin officiel de la Cochinchine française trở thành « Phần Một » của tờ le Bulletin officiel de l’Indochine française (Bản tin chính thức Đông Dương). Còn « Phần Hai » giành cho Trung Kỳ và Bắc Kỳ, với các tên gọi le Bulletin officiel du Protectorat de l’Annam et du Tonkin (1883-1886), rồi le Moniteur du protectorat de l’Annam et du Tonkin (1886-1888) và cuối cùng, bắt đầu từ năm 1902, thành ba ấn bản độc lập giành cho ba miền : le Bulletin administratif de l’Annam (Công báo hành chính Trung Kỳ), le Bulletin administratif du Tonkin (Công báo hành chính Bắc Kỳ) và le Bulletin administratif de la Cochinchine (Công báo hành chính Nam Kỳ).
Tương tự, tờ le Courrier de Saigon (1864-1879) được đổi tên thành le Journal officiel de la Cochinchine française (Công báo Nam Kỳ, 1879-1889), trước khi mang tên le Journal officiel de l’Indochine française từ năm 1889 và cũng được chia thành hai phần : Phần một : Cam-Bốt và Nam Kỳ ; Phần hai : Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Tờ công báo được phát hành một tuần hai lần, đăng tải mọi văn bản chính thức của chính quyền, cũng như biểu giá hàng hóa, quy đổi tiền bạc… Dĩ nhiên, các tổng biên tập (tổng-tài) đều là công chức người Pháp và mãi sau này mới là người bản xứ được chính quyền tin tưởng, như Trương Vĩnh Ký hay Huỳnh Tịnh Của.
Ấn phẩm khảo cứu
Nhiều tập niên bạ cũng sớm được phát hành tại Sài Gòn ngay từ năm 1865, song tại Bắc Kỳ phải chờ tới năm 1887. Các kỷ yếu của các ban chuyên ngành được thành lập nhằm mục đích nghiên cứu mọi lĩnh vực và mọi mặt văn hóa-xã hội tại thuộc địa. Các ấn bản này nổi tiếng nhờ những khảo cứu, nghị luận mang tính khoa học và có hệ thống, thay vì các công báo với lời văn cụ thể và khô khan.
Ngay từ năm 1865, tập kỷ yếu của Ủy ban nông nghiệp và công nghiệp Nam Kỳ, (le Bulletin du Comité agricole et industriel de la Cochinchine française) đã xuất hiện và tồn tại tới năm 1881. Mục đích của ấn bản trên là để đăng tải biên bản những cuộc họp, báo cáo của Ủy ban, được thành lập ngày 28/10/1865, cùng với những bài nghiên cứu liên quan tới nông nghiệp và công nghiệp. Đồng thời, đây cũng là nơi để các tác giả, thường là sĩ quan hải quân, các nhà nghiên cứu và một số chủ đồn điền, phản ánh sự đa dạng của các bài nghiên cứu về mọi lĩnh vực : từ khai đồn điền tới các phương pháp canh tác, từ nghiên cứu đất đai của từng vùng tới đặc tính của cây trồng, hay từ nghiên cứu các nguồn khoáng sản tới các phương tiện giao thông vận tải…
Tập kỷ yếu không được ấn định ngày phát hành mà chỉ phát hành khi có đủ bài viết và được in tại Nhà in Hoàng gia (l’Imprimerie Impériale). Tới năm 1888, tập kỷ yếu này được tái bản khi Ủy ban trên được thành lập ở Bắc Kỳ vào năm 1885, nhằm giới thiệu những nguồn khoáng sản và sản vật của toàn cõi Đông Dương tới nước Pháp.
Trong khoảng thời gian 1879-1890, một tờ tạp chí khác, Excursions et Reconnaissances, ra đời và được đánh giá là một ấn bản đáng chú ý, với kỹ thuật in ấn và minh họa nổi bật. Nhu cầu khám phá và khai thác vùng thuộc địa mới đã thúc đẩy Thống đốc Le Myre de Vilers cho phát hành tạp chí này nhằm công bố những thông tin có ích để tìm hiểu đất nước và người dân địa phương. Tạp chí này chỉ ngừng phát hành khi vùng đất Nam Kỳ đã trở nên thân thuộc và được nhiều người biết tới.
Tuy nhiên, vào năm 1893, khi đã mở rộng lãnh thổ tới những vùng còn lại trên bán đảo Đông Dương, chính quyền thuộc địa lại nhận thấy cần quảng bá cho những vùng đất mới, đồng thời để thuyết phục chính phủ Pháp tiếp tục ủng hộ và chu cấp ngân sách cho công việc chinh phục và khai thác thuộc địa. Vì thế, tờ Revue indochinoise illustrée được ra đời tại Bắc Kỳ, tiếp tục mục tiêu của tạp chí Excursions et Reconnaissances.
Tóm lại, các tạp chí bằng tiếng Pháp xuất bản tại Nam Kỳ trong nửa cuối thế kỷ XIX chỉ được phổ biến trong một cộng đồng thiểu số người Pháp và biết tiếng Pháp. Những ấn bản này nhằm phục vụ hai ý đồ của chính phủ thuộc địa : một mặt, giới thiệu, quảng bá Đông Dương và vùng Viễn Đông tới công chúng Pháp, mặt khác, cung cấp thông tin cho các cộng đồng bị trị.
Sau thời kỳ độc tôn của báo chí bằng tiếng Pháp do chính phủ phát hành, lần lượt xuất hiện một số tờ báo tư nhân, dù thời gian tồn tại rất ngắn. Như, ngay từ năm 1868, đã xuất hiện tờ Phan Yên Báo của Diệp Văn Cương. Phát hành được 7 hay 8 số, tờ báo nhanh chóng bị đóng cửa sau loạt bài chỉ trích hệ thống khai thác thuộc địa của Pháp, dưới tựa đề : « Đòn cân Archimède » của tác giả Cuồng Sĩ. Ngoài ra, còn có thể kể thêm một vài tờ như Nam Kỳ nhựt trình (le Journal de Cochinchine, 1885) hay Miscellanées (Thông loại khoá trình, 1888) và tờ Nông-cổ mín-đàm (1900). Có thể nhận thấy, hầu hết các tờ báo đều xuất hiện sau năm 1881.
Thực vậy, đạo luật về tự do báo chí 29/07/1881 được áp dụng tại Pháp và tại các thuộc địa, trong đó có Cam Bốt và Nam Kỳ. Song, theo quy định, chỉ những người mang quốc tịch Pháp và báo chí được viết bằng tiếng Pháp mới được hưởng chế độ tự do này. Mọi ấn phẩm viết bằng bất kỳ ngôn ngữ nào khác chữ Pháp vẫn phải xin phép phát hành và chịu chế độ kiểm duyệt trước. Tuy nhiên, dù tôn trọng những quy định trên, như về quốc tịch chủ sở hữu tờ báo và ngôn ngữ được dùng trong tờ báo, rất nhiều tờ báo vẫn bị trừng phạt và buộc phải giải tán. Song điều này không ngăn cản được họ tái bản ấn phẩm của mình dưới một tên gọi khác để… tiếp tục chỉ trích chính quyền thuộc địa.
Cùng chủ đề
Các lưu trữ
- 1
- 2
- 3
- ...
- trang sau >
- trang cuối >
http://vi.rfi.fr/viet-nam/20150717-nam-ky-cai-noi-cua-nen-bao-chi-viet-nam-giai-doan-cuoi-the-ky-xix
100 năm tạp chí Nam Phong: Khát vọng giáo dục quốc dân của lớp trí thức
Năm 2017 đánh dấu tròn 100 năm tạp chí Nam Phong ra mắt quốc dân. Số báo đầu tiên của Nam Phong được phát hành vào ngày 01/07/1917 và số cuối cùng vào ngày 16/12/1934, chấm dứt 210 số báo tiếng Việt, 210 phụ trương tiếng Pháp và 210 phụ trương tiếng Hán sau hơn 18 năm tồn tại.
Trả lời RFI tiếng Việt, nhà nghiên cứu Thủy Chi tại Hà Nội, nhận xét : Ám chỉ một bà lão ở tuổi 18 của một tờ báo mang nhiều ý nghĩa. Trước hết, nó gắn với hiện tượng thường gặp trong làng báo chí đương thời: việc đình bản và tục bản của các tờ báo trong một thị trường báo chí thuộc địa rất hẹp và nhỏ. Thứ hai, báo chí Việt Nam cho tới những năm 1930 đã chứng kiến một sự lột xác ngoạn mục, mà ví dụ là việc Phong Hóa với khẩu hiệu trẻ trung đã thay thế « vị trí rất cao trong văn giới, chính giới » của Nam Phong.
Dĩ nhiên Nam Phong sống thọ như thế một phần quan trọng là nhờ ở vai trò ở hậu trường của người Pháp với một ý định chính trị thực dân cáo già rất rõ ràng. Đó là nhằm loại trừ ảnh hưởng nước Đức, vốn được truyền bá gián tiếp qua phong trào Tân Thư, qua tên tuổi Lương Khải Siêu. Nam Phong không chỉ nhận được khoản trợ cấp để có thể ra báo một cách đầy đặn, mà còn được chính quyền thực dân hỗ trợ « tạo nên công chúng ».
Hồi ký của Hồ Hữu Tường cho biết ông cậu bà con của mình làm Hội Đồng « bị nhà nước ép mua dài hạn tạp chí nầy ». Song mọi việc nhanh chóng vượt khỏi những điều mà Louis Marty dự tính ban đầu khiến ta phải thừa nhận rằng Nam Phong tồn tại thực sự trong làng báo chí Việt Nam với tư cách một tờ báo lớn không thể chỉ là nhờ ý định chủ quan của giới thực dân mà còn chính ở những người trực tiếp chèo lái nó. Một trong số những công trạng quan trọng nhất cần kể đến là khát vọng giáo dục quốc dân của lớp trí thức.
Đội ngũ sáng lập tạp chí Nam Phong, 1917.RFI / Tiếng Việt
Trong lời mở đầu cho số 1 Nam Phong, Phạm Quỳnh đã đặt ra một vấn đề quan trọng về vai trò học vấn: « Ông cha ta đã đề tạo ra cái tổ quốc ta, đã chung đúc thành cái quốc hồn ta, không ngờ rằng ngoài nước ta còn có nhiều nước khác, ngoài học vấn đạo đức của ta còn có nhiều học vấn đạo đức khác nữa mà có ngày ta không thể biết hết được. Ngày ấy nay đã đến. Người nước ta nay đã mở mắt tỉnh giấc mộng trăm năm, mở cái mắt mơ màng ra mà nhìn cái thế giới mới. Trông thấy những cảnh tượng lạ lùng mà kinh mà sợ [...] Sống trong thời đại này tất phải có một phần trong sự hoạt động ấy ».
Phạm Quỳnh như thế đã tóm tắt điểm chủ yếu nhất mà một trí thức Việt Nam đương thời phải đối mặt. Đó là tình thế « toàn cầu hóa » một cách bất đắc dĩ. Nhận thức của ông với tư cách một trí thức Tây học không chỉ bao gồm việc nhận ra « kẻ khác » mà còn hiểu rằng giờ đây ta phải sống cùng kẻ khác thì mới có cơ hội tồn tại trong thời mới.
Để tồn tại được cùng kẻ khác, giáo dục là một trong những cách mà thế hệ trí thức 1907 thực hiện nhằm gìn giữ những giá trị quá khứ. Thế mà chi phí giáo dục theo lối mới rất đáng kể đối với một gia đình thường thường bậc trung ở ngay Hà Nội khi đó. Vào thời điểm này, từng có Đông Kinh Nghĩa Thục tham gia giáo dục quốc dân rồi nhanh chóng bị chính quyền thuộc địa đàn áp và giải tán. Đồng hành cùng với họ là Đông Dương tạp chí do Nguyễn Văn Vĩnh làm chủ bút với những bài viết về học vấn Tây phương, nhưng cuối cùng bị đình bản.
Giáo dục quốc dân qua tạp chí
Với phụ đề « l’Information française » (Cơ quan thông tin của Pháp) trên măng séc, tạp chí Nam Phong lại có phụ đề khác bằng tiếng Việt Văn học Khoa học tạp chí. Các đề mục đặc biệt có liên quan tới giáo dục do các nhà tân nho như Phan Kế Bính và Nguyễn Đỗ Mục, hoặc các trí thức Tây học Phạm Quỳnh, Phạm Duy Tốn đảm trách và được duy trì suốt trong suốt thời kỳ ra báo: Luận thuyết, Văn học bình luận, triết học bình luận, Khoa học bình luận, Văn tuyển, Tạp trở, Thời đàm, tiểu thuyết.
Bằng việc thiết kế như vậy, Nam Phong tự nhiệm về giáo dục như Đông Dương tạp chí từng làm. Cũng trong số đầu tiên, bức ảnh Albert Sarraut được chú thích là người thành lập Đại học Đông Dương chứ không phải bằng chức danh quan toàn quyền. Rõ ràng, tạp chí Nam Phong là một cách thức giáo dục dành cho quốc dân mà Phạm Quỳnh muốn theo đuổi. Với cách học qua tạp chí như thế, học không chỉ là lên lớp để lấy bằng, mà còn học để lấy tri thức như ông viết: « đương buổi bây giờ không cần cấp bằng gây lấy một cái cao đẳng học thức để thay cái học thức cũ đã gần mất ».
Theo bà Phạm Thị Ngoạn, trong nghiên cứu của mình, hoàn toàn có lý khi gọi Phạm Quỳnh cùng các bạn đồng chí là những « giáo sư » trong một trường học mở theo lối mới để đáp ứng một nhu cầu học mới. Trong hoạt động của kiểu trường học không có trụ sở này, giáo sư không giao bài cho học sinh, không sửa bài, mà chỉ muốn « tâm tình với bạn đọc như với bạn cố tri », nhận những câu trả lời từ bạn đọc để từ đó có những bài viết thể hiện được.
Tính chất trường học góp phần tạo nên tính điển phạm ở cả khía cạnh kiến thức lẫn hành vi của cuộc đời. Điều ấy còn tương ứng với một kỳ vọng khác của Phạm Quỳnh khi ông viết: « Nước cốt ở dân, dân chủ ở một bọn người gọi là « thượng-lưu », hay bọn « thức giả xã hội », như nhà có nóc vậy. Nhà không có nóc thì ở sao. Nước không có một bọn thượng-lưu trí-thức để giữ-gìn cái cốt-cách trong nước, thì sao gọi là một nước được? Có nhà danh-sĩ Pháp đã nói rằngNước Pháp sở-dĩ là nước Pháp, cũng chỉ nhờ bởi bốn năm mươi người đại-trí. Nếu không có bọn ấy thì nước Pháp không còn là nước Pháp nữa ».
Chi tiết « bọn bốn mươi người đại trí » của Hàn Lâm Viện Pháp, mà Phạm Quỳnh thường xuyên cho in lại trên Nam Phong những bài viết của các thành viên hoặc của các giáo sư đại học Paris, hàm ý tham vọng xây dựng một lớp trí thức mới mẫu mực, tinh túy cho thời đại mới.
Vậy ai là những thành viên có thể tham gia vào nhóm bốn mươi người Việt đó? Hẳn nhiên trước hết chính là những ai từng bỉnh bút cho Nam Phong giai đoạn đầu như Nguyễn Bá Trác, Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Bá Học, Nguyễn Đôn Phục và Nguyễn Mạnh Bổng. Họ tất thảy đều có hai yếu tố rất quan trọng đối với giới trí thức Việt Nam đương thời: uy tín và tuổi tác.
Phạm Quỳnh cùng tờ báo của mình không chỉ hoàn thành một vai trò nhà báo đưa tin như cái măng-séc đã ghi ban đầu, mà còn có tham vọng giữ một tiếng nói chính thức về mặt học thuật đương thời trên trường trí thức mới đương thành lập. Dù tiếng nói đó đôi lúc trở nên học phiệt như Phan Khôi sau này từng lên tiếng, nhưng người ta không thể không ghi nhận một kỳ vọng lớn lao ấy của Phạm Quỳnh về lớp « thượng lưu trí thức để giữ gìn cốt cách trong nước, để bồi dưỡng cái quốc-túy ».
Phong Hóa vào những năm 1930 sẽ chấm hết sự tồn tại Nam Phong bằng giọng hài hước khi nhại lại câu « Thứ nhất sừ Uỳnh thứ nhì sừ Ĩnh ». Nhưng chắc chắn lớp trí thức tư sản như Nhất Linh, Khái Hưng đã được thừa hưởng rất nhiều từ cái khát vọng thượng lưu trí thức của Phạm Quỳnh như một nền tảng của trường trí thức thời hiện đại.
Cùng chủ đề
Các lưu trữ
- 1
- 2
- 3
- ...
- trang sau >
- trang cuối >
- http://vi.rfi.fr/viet-nam/20171218-100-nam-tap-chi-nam-phong-khat-vong-giao-duc-quoc-dan
Geen opmerkingen:
Een reactie posten