Mốc thời gian quan trọng: Sài Gòn 30 tháng 4 năm
1975
Khi tin ‘giải phóng miền Nam’ lan đến một vùng
quê Hà Tĩnh, một cậu bé còn chơi với bạn ở ngoài ruộng và bọn trẻ
đã ‘buông nhau ra thôi không đánh vật’ nữa, nhưng cuộc giằng co chọn lối
đúng và sai cho cả một dân tộc hóa ra mới chỉ bắt đầu và còn chưa
kết thúc.
Với cậu bé chăn trâu ngày đó mà nay thành danh với cái tên blogger
Osin, hành trình vào đời và nghiệp làm báo cũng bắt đầu từ tháng
4/1975 khi sự ‘nhận mặt nhau’ diễn ra có triệu người vui và triệu
người buồn của hai miền Nam Bắc Việt Nam sau cuộc nội chiến quốc tế
hóa.
Khi được đọc bản thảo ‘Bên Thắng Cuộc’ (cả hai tập), tôi băn khoăn
không hiểu vì sao Huy Đức không đặt tựa cho sách là ‘Bên Thắng Trận’
với cả sự oai hùng, hào khí cách mạng như truyền thông chính thống
vẫn nêu?
Có phải trận chiến quân sự và ý thức hệ dù lớn lao đến đâu cũng
chỉ là một cuộc cờ và trận chiến vì tâm hồn và tương lai Việt Nam
vẫn chưa dứt?
Những suy luận đến từ cuốn sách chắc sẽ còn nhiều, vì chỉ trong
vòng vài tuần qua, số bài bình luận về cuốn ‘Bên Thắng Cuộc’ đã
xuất hiện đông đảo với đầy đủ những lời khen nhưng cũng có một số ý
phê bình, đa số tôn trọng và không gay gắt.
Vì thế nên ở đây, tôi chỉ chia sẻ một số cảm quan riêng và tập
trung vào những gì tôi nghĩ rằng sách đã gợi mở ra và tạo đà cho
những người viết trong và ngoài nước đi tiếp.
Trước hết, cuốn sách mổ xẻ khá rành mạch, chi tiết và làm mới
lại nhiều giai đoạn lịch sử, biến cố, sự kiện quan trọng trong một
thời kỳ cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam từ 1975 đến Đổi
Mới.
Các đoạn có giá trị nhất, nhiều tư liệu mới nhất và tổng hợp
được cách nhìn của các bên nhất phải kể đến giai đoạn lực lượng
cộng sản Nam và Bắc tiến vào Sài Gòn, và thời kỳ quân quản rồi
thống nhất hai miền.
"Cuốn sách của tôi bắt đầu
từ ngày 30-4-1975, ngày nhiều người tin là miền Bắc đã giải phóng miền Nam.
Nhiều người thận trọng nhìn lại suốt hơn ba mươi năm, giật mình với cảm giác bên
được giải phóng hóa ra lại là miền Bắc"
Sau đó là các diễn biến của thời kỳ đánh tư sản, tiêu diệt văn
hóa, văn nghệ tự do, quy kết loại trừ tư bản Hoa kiều, cưỡng bức kinh
tế mới, cho tới cuộc chiến với Khmer Đỏ cùng thời gian các nỗ lực
duy chí ý nhằm áp đặt mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa bao cấp trên
cả nước, đưa đến các thảm họa nhân đạo và sự suy sụp kinh tế.
Ở các chương này, ngòi bút Huy Đức tỏa sáng trong giọng văn âm
thầm, cố gắng giữ vẻ bình thản nhưng bên trong sôi sục, thậm chí có
chỗ nghẹn đi vì các biến cố đau đớn cho hàng triệu người mà anh
chứng kiện cận cảnh, nhất là ở trong tâm thức một người đi bộ đội
về và từ Bắc vào sống trong Nam.
Qua các chương đó, người đọc dù thuộc các thế hệ sau có thể hình
dung ra được khá rành mạch vì sao sự mê tín với một mô hình độc tôn
đã khiến lãnh đạo Đảng cầm quyền ở Việt Nam liên tiếp sai lầm mà
các di chứng vẫn còn đang là chính sách hiện hành dù đã được bớt
liều nhờ tác động khách quan và sự tự ý thức.
Dòng đời trong lịch sử
Cách viết ‘sử ký’ di chuyển từ bối cảnh lịch sử chung đến hoạt
động của các nhân vật chính đã dựng lại nhiều hình ảnh sống động
nhờ số lượng phong phú các tư liệu nguồn mà tác giả ghi lại hoặc
phỏng vấn trực tiếp với nhiều nhân chứng, người trong cuộc ở cả các
cấp cao.
Cuộc đời riêng, hoạt động và suy nghĩ, tính toán cá nhân và chính
trị của các ông Lê Duẩn, Võ Nguyên Giáp, Võ Văn Kiệt, Trường Chinh,
Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ...được tái hiện rõ rệt.
Chuyện tình yêu, hôn nhân, gia đình vợ con họ được kể lại, ghi lại
vừa đủ để phụ thêm cho các hiểu tính cách, các bước ngoặt trong đời
những nhân vật này trong bối cảnh xã hội, lịch sử mà không sa đà vào
chuyện riêng tư.
Chẳng hạn cuộc tình và cuộc đời làm vợ thứ nhì của ông Lê Duẩn
mà bà Nguyễn Thụy Nga phải gánh chịu cho thấy một giai đoạn mà văn
hóa chính trị cộng sản rất hà khắc, thậm chí tàn khốc với việc
riêng của tất cả mọi người, kể cả những nhân vật cao cấp, ngược hẳn
với thời kỳ tung hê, thả cửa của quan chức hiện nay.
Một cách nhìn khác xuyên qua những tư liệu quý mà Huy Đức thu lượm
và tìm cách kiến giải là dòng ‘sinh hoạt quân sự’.
Ông Võ Văn Kiệt đến hội nghị sơ kết Thanh niên Xung phong
năm 1981 ở Đắc Nông
Lồng vào các chiến dịch tiến vào Sài Gòn năm 1975, chiến tranh biên
giới Tây Nam, xung đột Trung – Việt, hay đi ngược về thời kỳ kháng
Pháp, chiến tranh Mỹ – Việt là các chân dung sỹ quan, tướng lĩnh, nhân
chứng của nhiều phía.
Các trận đánh, các cuộc ra quân, những vụ thảm sát, tàn phá của
quân Pol Pot, quân Trung Quốc được mô tả bằng ngòi bút của người làm
báo, viết phóng sự nên sống động hơn nhiều so với các cuốn tiếng
Việt từ trước tới nay về cùng chủ đề mà tôi được đọc.
Các vụ ‘thâm cung bí sử’ trong chính trường Việt Nam, nhất là giới
tướng lĩnh như cái chết của các tướng Nguyễn Chí Thanh thời chiến
tranh, rồi những chuyện đột tử của các tướng Hoàng Văn Thái, Lê Trọng
Tấn, Đinh Đức Thiện sau này cùng một âm mưu bao vây, hạ thấp tướng Võ
Nguyên Giáp được mô tả thật sinh động.
Cuộc đời và các suy tư của ông Võ Văn Kiệt mà tác giả có thời
gian gặp gỡ nhiều cũng được trình bày lại khá đầy đủ, cho người đọc
cơ hội thấy được chân dung một nhân vật cộng sản miền Nam luôn trăn trở
để càng về cuối đời lại càng về gần với tinh thần dân tộc.
Nhân chứng và tư liệu
Đã có người khác đã bình luận về phương pháp viết của Huy Đức,
gồm cả phần được và phần thiếu sót nên ở đây, tôi chỉ muốn chú ý
đến cách sử dụng tư liệu của tác giả để tạo dựng bối cảnh quốc tế
hoặc khu vực cho phần nội dung Việt Nam của anh.
Giai đoạn viết về cuộc cách mạng dân chủ Đông Âu và Liên Xô sụp đổ
không phải là phần mạnh nhất của tác giả.
Nhà báo Huy Đức và TBT Lê Khả Phiêu: bản thân tác giả
là nhân chứng của nhiều sự kiện lịch sử
Huy Đức chủ yếu sử dụng lời kể của tiến sỹ Lê Đăng Doanh về
chuyến đi của Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh sang Đông Đức, cuộc gặp Erich
Honecker, Mikhail Gorbachev và Nicolai Ceaucescu và tư liệu của Bùi Tín
đã xuất bản khá lâu để dựng lại ‘cú sốc thể chế’ mà perestroika và
glasnost gây ra cho ban lãnh đạo Hà Nội.
Sang để 'chấn chỉnh' lãnh tụ phe cộng sản quốc tế Gorbachev về
đường lối xét lại, ông Linh đã cảm lạnh, sốt và ốm (theo cả nghĩa
đen và bóng?) khi gặp sự hắt hủi, coi thường của 'đồng chí đàn anh' -
dấu hiệu Hà Nội bị Đông Âu bỏ rơi nên dần tìm sang ngả Trung Quốc.
Nhưng cũng vì dựa trên các trích dẫn đó là chính, nhiều lý giải
về Đông Âu trong sách không theo kịp các tác phẩm xuất bản tại khu vực
này hoặc sách của các tác giả Phương Tây trong 10 năm qua.
"Khi được đọc bản thảo ‘Bên Thắng Cuộc’,
tôi băn khoăn không hiểu vì sao Huy Đức không đặt tựa cho sách là ‘Bên
Thắng Trận’ với cả sự oai hùng, hào khí cách mạng? "
Về sự dính líu và cuộc tháo chạy của người Mỹ khỏi Đông Dương,
quan hệ Mỹ – Trung về Campuchia cuốn sách cũng dùng quá nhiều luận
điểm của nhân vật nổi tiếng thiên kiến và thiên hữu, ông Henry Kissinger
trong cuốn ‘Ending the Vietnam War’ (2003), thiếu hẳn các cuốn mới hơn về
Trung Quốc như ‘Inside Ten Episodes of China’s Diplomacy’ (2006) của Tiền Kỳ
Tham.
Các đoạn về quan hệ Trung Xô hoặc Trung Mỹ hay vai trò chỉ đạo của
Moscow với Hà Nội trong nhiều thập niên cũng thiếu nhiều phần đối
chiếu từ các sách mới mà giới nghiên cứu Âu Mỹ liên tiếp đưa gia thời
gian qua như cuốn ‘Revolution 1989: The Fall of the Soviet Empire’ của Victor
Sebestyen (2009) hay ‘Russian’s Cold War’ của Jonathan Haslam (2012).
Nói như thế không phải là để phê phán cuốn sách đầy đủ nhất từ
trước tới nay về chính trị Việt Nam mà để bạn đọc Việt Nam tin tưởng
rằng chủ đề ‘hệ thống cộng sản’ vẫn được giới khoa bảng quốc tế
theo đuổi, cập nhật, và trong dòng sách này Bên Thắng Cuộc chắc chắn
là một hồ sơ quan trọng nếu được dịch ra ngoại ngữ.
Phần trong nước, tác giả cũng sử dụng khá nhiều các văn kiện của
Đảng Cộng sản Việt Nam để ghi nhận các bước tiến và lùi trong chính
sách.
Nhưng vì ở Việt Nam luôn có khoảng cách khá lớn giữa ngôn từ văn
bản với chính sách áp dụng thực và kết quả cuối cùng nên cách làm
này dù cần thiết cho giới cần tra cứu, lại dễ khiến bạn đọc bình
thường có cảm giác bội thực của một thời phải ăn độn bo bo.
Trái lại, khi đi xa văn kiện, ngòi bút báo chí tinh tế đã giúp tác
giả giải mã được chiến lược ‘pháo đài huyện’ mà các con đẻ của nó
vẫn đang lãnh đạo đất nước ngày hôm nay.
Xé rào: ông Trường Chinh thăm nhà máy bột giặt Viso năm
1983
Nào ai nghĩ chính phong trào ông Lê Duẩn tung ra nhằm gây dựng cán
bộ trẻ từ huyện để đẩy thẳng lên trung ương hồi đó, theo Huy Đức, đã
tạo đà cho ông Nguyễn Tấn Dũng từ huyện Cà Mau, tỉnh Minh Hải hay bà
Trương Mỹ Hoa từ huyện Gò Công, tỉnh Tiền Giang và một số nhân vật
khác lên cao.
Chính cách để các nhân vật thật tái hiện trong ánh sáng mới của
lịch sử và tư liệu khiến 'Bên Thắng Cuộc' không nằm vào dạng tác
phẩm nghiên cứu academic mà giống ký sự hay non-fiction biographic history
tựa như của Simon Sebag Montefiore trong ‘Stalin: The Court of the Red Tsa’
hay ‘Jerusalem: The Biography’.
‘Bên Thắng Cuộc’ còn nhiều phần phát hiện thú vị khác về ‘người
trong cuộc’ mà tôi tin là bạn đọc sẽ đánh giá cao, và nếu những gì
tác giả viết ra có gây dư luận khen chê hay tạo ra tranh luận thì cũng
là điều tốt vì đã lâu người đọc tiếng Việt chưa có trong tay một bộ
sách đầy đủ, chân thực và nhiều tính gợi mở như thế về đất nước
họ.
Và nếu vì đọc ‘Bên Thắng Cuộc’ mà có các tác giả khác nung nấu
muốn viết thêm, viết lại, viết tiếp về chủ đề Việt Nam thì hẳn cũng
là một thành công ‘ý tại ngôn ngoại’ cho tác giả.
Geen opmerkingen:
Een reactie posten