zondag 21 januari 2018

ASEAN sinh nhật 50 tuổi : Bài học cũ để vượt qua thách thức mới + Trung Quốc : Động lực chia rẽ ASEAN ?

ASEAN sinh nhật 50 tuổi : Bài học cũ để vượt qua thách thức mới

mediaCác quốc gia thành viên ASEAN.Ảnh : Hiệp Hội các Quốc Gia Đông Nam Á.
Cách đây đúng 50 năm, Hiệp Hội các Quốc Gia Đông Nam Á (ASEAN) ra đời (1). Khối ASEAN - bao gồm một nửa số quốc gia Đông Nam Á lúc đó - hình thành trong bối cảnh chiến tranh dữ dội trên phần đông bán đảo Đông Dương. Hiện nay, toàn bộ các nước Đông Nam Á đã trở thành thành viên của ASEAN (2), và khối này từng bước trở thành một trụ cột trong kiến trúc an ninh khu vực Châu Á -Thái Bình Dương. Tuy nhiên, những thách thức trong hiện tại đối với ASEAN là hết sức lớn. Ôn lại các bài học trong quá khứ để hướng về tương lai là quan điểm của nhà chính trị học Thái Lan Thitinan Pongsudhirak, được đăng tải trên báo mạng Nhật Bản Nikkei, hôm 04/08/2017, nhân dịp ASEAN kỷ niệm sinh nhật vàng tròn 50 tuổi. RFI xin giới thiệu.
Duy trì hòa bình giữa các nước thành viên
Trong bài « To survive another 50 years, ASEAN must learn from its past/Để tiếp tục tồn tại thêm 50 năm nữa, ASEAN phải học hỏi từ quá khứ », nhà chính trị học Thái Lan nhấn mạnh trước hết đến khả năng duy trì hòa bình giữa các quốc gia thành viên, một phẩm chất quan trọng của khối : « Bất chấp những tranh chấp lãnh thổ thỉnh thoảng bùng lên, hay những tranh cãi ngoại giao, có một thành tựu hết sức quan trọng của ASEAN, nhưng thường ít được chú ý. Đó là khả năng tránh được chiến tranh giữa các quốc gia thành viên, từng là những kẻ thù không đội trời chung ».
Đại diện 5 quốc gia sáng lập khối ASEAN, trong cuộc gặp tại Bangkok, ngày 07/08/1967. Từ trái qua phải, các ngoại trưởng Philippines (Narciso Ramos), Indonesia (Adam Malik), Thái Lan (Thanat Khoman), Malaysia (Abdul Razak) và Singapore (Sinnathamby Rajar)Ảnh chụp màn hình : print.kompas.com

Ông Thitinan Pongsudhirak nhắc lại giai đoạn phôi thai của khối, sau nhiều nỗ lực thành lập một tổ chức khu vực thất bại, lý tưởng về ASEAN đã trở lại khi Thái Lan đứng ra đóng vai trò hòa giải, nhằm dập tắt cuộc chiến giữa Indonesia và Malaysia (3). Theo nhà chính trị học Thái Lan, chính hai quốc gia sáng lập ASEAN, là Thái Lan có dân cư chủ yếu theo đạo Phật và Philippines chủ yếu theo đạo Thiên Chúa, « đã mang lại một sự cân bằng cho khu vực, về phương diện tôn giáo, ngôn ngữ và sắc tộc, cân bằng lại với tiềm năng thống trị của khối dân cư chủ yếu theo Hồi giáo tại Indonesia và Malaysia, hai quốc gia vốn cùng chia sẻ một ngôn ngữ (tiếng Mã Lai) ».
Trong hơn một nửa thời gian tồn tại đầu tiên, ASEAN hoạt động trong một Đông Nam Á chia rẽ. Miến Điện trở nên cô lập sau cú đảo chính quân sự 1962, trong lúc Đông Dương bị tàn phá vì chiến tranh. Các thành viên sáng lập ASEAN, bao gồm bốn quốc gia ra đời vào thời kỳ « hậu thực dân », gồm Indonesia, Philippines, Malaysia, Singapore, và vương quốc Thái Lan có truyền thống độc lập lâu đời, đã thành công trong việc tạo dựng được một « sức mạnh tập thể khu vực », nhằm hỗ trợ cho nỗ lực xây dựng quốc gia ở mỗi nước, trong bối cảnh Chiến tranh Lạnh giữa Hoa Kỳ và Liên Xô.
Sức bật hậu Chiến tranh Lạnh
Phải đến thập niên 1990, sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, Hiệp Hội các Quốc Gia Đông Nam Á mới bao gồm toàn bộ 10 thành viên của khu vực (không kể tiểu quốc Brunei gia nhập trước đó năm 1984). Việt Nam gia nhập ASEAN năm 1995, Miến Điện, Lào 1997, Cam Bốt 1999.
Nhà chính trị học Thái Lan nhấn mạnh đến hai cơ chế hợp tác quốc tế, ra đời vào thời điểm khối cộng sản giải thế, là Diễn Đàn Hợp Tác Châu Á Thái Bình Dương APEC, thành lập năm 1989 (với trụ sở đặt tại Singapore), và Không Gian Mậu Dịch Tự Do ASEAN (ASEAN Free Trad Area), khai sinh năm 1992. Đây là hai cơ chế giúp cho khối ASEAN non trẻ có điều kiện trở thành một trung tâm nối kết của châu Á, với tiềm năng hợp tác rộng lớn hơn. Trên đà này, trong những năm sau, ASEAN đã có một loạt sáng kiến quan trọng mở rộng hợp tác quốc tế.
Cụ thể là Diễn Đàn Khu Vực ASEAN ARF, ra đời năm 1994 (hiện tại gồm hơn 50 thành viên, trong đó có Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nga, Nhật Bản, Ấn Độ, Liên Hiệp Châu Âu…). Cơ chế ASEAN + 3, tức hợp tác giữa Hiệp Hội các Quốc Gia Đông Nam Á với ba nước Đông Bắc Á (Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc), khởi sự từ năm 1997. Hội nghị cấp cao Đông Á (East Asia Summit), với hạt nhân là khối ASEAN, với sự tham gia của ba nước Đông Bắc Á, cùng Hoa Kỳ, Nga, Ấn Độ, Úc và New Zealand, bắt đầu tổ chức từ năm 2005. Hội nghị bộ trưởng Quốc Phòng ASEAN mở rộng (ADMM-plus), gồm các thành viên ASEAN và đại diện 8 cường quốc, trong đó có Mỹ, Nga, Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ. Hội nghị khởi sự từ năm 2006.
Năm 2007, Hiệp Hội các Quốc Gia Đông Nam Á thông qua Hiến Chương ASEAN, khẳng định tính thống nhất cao của khối, tạo lập nền tảng pháp lý cho việc xây dựng cộng đồng ASEAN về chính trị, cũng như an ninh, kinh tế và xã hội văn hóa. Nhiều người nuôi hy vọng ASEAN trong tương lai sẽ trở thành một cộng đồng gắn bó như kiểu Liên Hiệp Châu Âu.
Trung Quốc : Chính sách chia để trị
Tuy nhiên, điều mà nhà chính trị học Thái Lan muốn lưu ý là, sau nửa thế kỷ tồn tại, khối ASEAN hiện nay lại tiếp tục phải đương đầu với các thách thức mới, tương tự với những thách thức ở giai đoạn đầu tiên. Ông Thitinan Pongsudhirak nhấn mạnh đến thế đối đầu giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ tại Biển Đông, và ở một mức độ nhỏ hơn, giữa Trung Quốc và Nhật Bản tại khu vực Đông Nam Á lục địa.
Sự trỗi dậy đầy tham vọng của Trung Quốc được coi là mối đe dọa chính. Dưới ngọn cờ sứ mạng khai hóa và mở mang, chiến lược Con Đường Tơ Lụa Mới của Bắc Kinh đưa các ảnh hưởng của Trung Quốc vươn xa khỏi châu Á.
Theo tác giả, trong thế kỷ 21 này, « lịch sử » và « địa lý » là các sức mạnh dẫn đường nhiều hơn là các ý thức hệ, dù là « toàn trị » hay « dân chủ », quan điểm « cộng sản » hay « tư bản ». Riêng tại châu Á, Bắc Kinh đang sử dụng « các quyền lịch sử » để biện minh cho việc xây dựng đảo nhân tạo tại Biển Đông, ở một khu vực « không xa với các vùng biển của các thành viên ASEAN, nhất là Philippines và Việt Nam ». Trên vùng Đông Nam Á lục địa, Bắc Kinh xây hàng loạt đập thủy điện trên thượng nguồn sông Mêkông, bất chấp các thiệt hại đối với các cộng đồng hạ lưu, ở Cam Bốt và Việt Nam (xem thêm : « Trung Quốc muốn độc chiếm Mêkông »).
Nhà chính trị học Thái Lan nhấn mạnh đến thực tế phân hóa cao độ của khối ASEAN, giữa khu vực đất liền và khu vực hải đảo. Thực tế này đã được Bắc Kinh khai thác để áp dụng chính sách « chia để trị ». Trong khi Cam Bốt, Lào, Miến Điện và Thái Lan thờ ơ với việc Trung Quốc quân sự hóa Biển Đông, thì các con đập Trung Quốc xây trên dòng Mêkông cũng không thu hút sự chú ý của Philippines hay Indonesia (xem thêm bài : « Chuyên gia Nhật : Các nước ASEAN bên Biển Đông hãy đoàn kết lại ! »).
Tác giả ghi nhận việc năm 2016 Philippines giành thắng lợi lớn trong vụ kiện Trung Quốc về Biển Đông lên một tòa án quốc tế (4), tuy nhiên mọi nỗ lực đưa phán quyết lịch sử này vào các tuyên bố chung của ASEAN đều thất bại, do vai trò của Cam Bốt. Bắc Kinh cũng tranh thủ được sự ủng hộ của Thái Lan cũng như Miến Điện.
Đoàn kết trước Trung Quốc và vị thế quốc tế của ASEAN
Trong phần kết của bài viết, nhà chính trị học Thitinan Pongsudhirak nêu lại một bài học cổ điển từng giúp nhiều nước nhỏ đứng vững, đã được ASEAN thực thi trước đây, đó là dùng cường quốc chế lại cường quốc. Cụ thể là việc nhờ đến sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ và Nhật Bản để đối trọng lại với Trung Quốc. Việc chính quyền Trump tiếp thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc và những lời mời tương tự của Washington gửi đến các đồng nhiệm Philippines, Singapore và Thái Lan được đánh giá là những bước đi đúng hướng, để « phục hồi thế cân bằng địa chính trị của ASEAN ».
Tuy nhiên, tác giả lưu ý rằng là nếu không xây dựng được « sự thống nhất » của khối đối diện với Trung Quốc, ASEAN sẽ không thể đảm nhận được vai trò « môi giới » và « tạo lập các định chế » của châu Á. Mà một ASEAN không thống nhất sẽ không chỉ tổn hại cho chính các thành viên ASEAN, mà còn cho cả các cường quốc, vốn cần đến một « vùng đệm », một « thế lực môi giới mang tính khu vực ».
Đoàn kết, xây dựng hòa bình, cân bằng các cường quốc, đặc biệt là tìm được tiếng nói thống nhất trước Trung Quốc - cường quốc đang là mối đe dọa lớn nhất -, theo tác giả, các thách thức đối với ASEAN trong hiện tại cho thấy quá khứ 50 năm qua chắc chắn vẫn còn nhiều bài học cần được « đào sâu ».
----
(1) Ngày 08/08/1967, tại Bangkok, thủ đô Thái Lan, năm quốc gia Đông Nam Á, gồm Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Philippines và Singapore ra một tuyên bố chung (còn gọi là Tuyên Bố Bangkok), khai sinh ra Hiệp Hội các Quốc Gia Đông Nam Á (tên tiếng Anh là Association of South East Asian Nations, gọi tắt là ASEAN).
(2) Không kể Đông Timor, độc lập năm 2002.
(3) Việc thành lập Liên Bang Malaysia, bao gồm phần lãnh thổ Malaysia lục địa hiện nay, Singapore và miền bắc đảo Borneo, bị Indonesia chống lại. Cuộc chiến giữa hai láng giềng kéo dài từ năm 1963 đến 1966. Singapore tuyên bố độc lập năm 1965.
(4) Xem thêm bài « Biển Đông : Năm kết luận quan trọng của phán quyết PCA » (RFI).

http://vi.rfi.fr/viet-nam/20170808-asean-sinh-nhat-50-tuoi

Trung Quốc : Động lực chia rẽ ASEAN ?

mediaHội nghị thượng đỉnh ASEAN -Trung Quốc ngày 29/10/2010. Ảnh tư liệuREUTERS/Na Son Nguyen/Pool
Dù phương châm của mình là "Một Tầm nhìn, Một Bản sắc, Một Cộng đồng", nhưng do ảnh hưởng của Trung Quốc ngày càng mạnh tại Đông Nam Á, ASEAN hoàn toàn có thể bị phân đôi thành hai khối “lục địa” và “hải đảo”.
Đây chính là phân tích của sử gia Geoff Wade trong bài “ASEAN có thể phân đôi hay không ?” (Could ASEAN Drift Apart ?) đăng trên trang mạng YaleGlobal của Trung tâm Nghiên cứu Toàn cầu hóa của Đại học Yale (Hoa Kỳ) ngày 25/02/2011.
Năm ngoái (2010), Hiệp hội các nước Đông Nam Á tổ chức kỷ niệm 43 năm ngày thành lập một cách hoành tráng, nhưng lại để lộ nhiều vết nứt. Do sự phát triển thiếu cân xứng của Tiểu vùng sông Mêkông, được Trung Quốc thúc đẩy với sự giúp đỡ của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), khu vực dọc theo biên giới với Trung Quốc đã biến thành một vùng riêng biệt - một xu hướng có thể vĩnh viễn chia cắt ASEAN.
Tiểu vùng Mêkông, hoặc GMS, bao gồm Cam Bốt, Lào, Miến Điện, Thái Lan và Việt Nam, cũng như hai tỉnh Vân Nam và Quảng Tây của Trung Quốc. Tuy nhiên, trong thực tế, chính Trung Quốc mới là thành viên , với các chuyên viên cấp quốc gia tham gia vào mọi sáng kiến do GMS đề ra, và thông qua hệ thống thành viên mất cân xứng nghiêm trọng đó, đất nước 1,3 tỷ dân đã lấn át các chính thể và nền kinh tế của các nước trên lục địa Đông Nam Á.
Khoảng 11 tỷ đô la đã được đầu tư vào cơ sở hạ tầng trong khu vực GMS trong thập kỷ qua, với một phần ba đến từ Ngân hàng Phát triển châu Á. Khoản tài trợ này đã được chuyển thành ba cái gọi là hành lang kinh tế - các trục giao thông đa quốc gia hiện đang được xây dựng trên lục địa Đông Nam Á.
Hành lang kinh tế Bắc-Nam nối liền Côn Minh với Bangkok, trong khi hành lang Đông-Tây nối bờ biển Ấn Độ Dương của Miến Điện với các hải cảng của Việt Nam trổ ra biển Đông. Hành lang kinh tế phía Nam thì gắn liền Bangkok với Phnom Penh, Thành phố Hồ Chí Minh và Vũng Tàu. Trung Quốc công khai tuyên bố rằng GMS là cơ chế kinh tế hiệu quả nhất trong khu vực.
Bản thân sông Mêkông – vốn đã được nhóm này lấy làm tên – lại là một đầu mối gây tranh chấp. Trung Quốc đã xây bốn con đập trên vùng thượng nguồn của con sông, và hiện đang đầu tư vào ba dự án đập thủy điện tại Lào và một tại Cam Bốt, và có kế hoạch làm thêm 12 con đập khác ở vùng hạ nguồn.
Theo một sáng kiến mới do Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào đưa ra vào tháng 07/2009, tỉnh Vân Nam đã được chỉ định là đầu cầu nối Trung Quốc với khu vực Đông Nam Á, thông qua các tuyến đường giao thông vận tải, hầm mỏ, cơ sở hạ tầng năng lượng và cơ sở thương mại xuất khẩu tại Đông Nam Á.
50% thương mại giữa ASEAN với Vân Nam dùng đồng yuan để thanh toán
Hiệp định tự do thương mại Trung Quốc-ASEAN, có hiệu lực từ ngày 01/01/2010, đã giúp Trung Quốc gia tăng mạnh mẽ trao đổi thương mại và đầu tư vào các quốc gia Đông Nam Á. Trong bối cảnh giao thương ngày càng tăng, một trong các mục tiêu mà Trung Quốc nhắm tới là phát huy việc dùng đồng nhân dân tệ trong các giao dịch thương mại giữa các đối tác GMS.
Hồi nửa đầu năm 2010, Ngân hàng Nông nghiệp Trung Quốc bắt đầu một chương trình dùng đồng nhân dân tệ làm đơn vị thanh toán cho các giao dịch thương mại xuyên biên giới với vùng Vân Nam. Đây là một phần trong kế hoạch của Trung Quốc muốn quốc tế hóa đồng tiền của mình. Hiện nay, khoảng 50% thương mại xuyên biên giới với Vân Nam được thanh toán bằng đồng nhân dân tệ.
Kinh phí để phát triển kinh tế các nước Đông Nam Á lục địa xuất phát từ cả ngân quỹ của ADB lẫn các khoản tín dụng và đầu tư của Trung Quốc, vốn thường khó phân biệt. Trung Quốc đã thiết lập quỹ Hợp tác đầu tư Trung Quốc-ASEAN trị giá 10 tỷ đô la để hỗ trợ việc phát triển cơ sở hạ tầng của khu vực. Các biện pháp kết nối bao hàm lãnh vực thông tin liên lạc và cơ sở hạ tầng giao thông.
Một mạng lưới đường sắt hòa nhập, sẽ nối kết tất cả các nước thuộc Tiểu vùng Sông Meekoong GMS vào khoảng năm 2020, với Trung Quốc đóng vai trò thiết yếu trong việc cung cấp kỹ năng và kinh phí. Hệ thống đường sắt cao tốc và đường bộ do Trung Quốc tài trợ sẽ kết nối Côn Minh với Yangon, Bangkok, Vientiane và Phnom Penh, trong khi một hệ thống đập thủy điện, mạng lưới truyền tải điện và đường ống dẫn năng lượng cũng sẽ gắn các quốc gia lục địa Đông Nam Á vào Trung Quốc. Khi được hoàn thành vào năm 2013, đường ống dẫn dầu khi Kyaukphyu-Côn Minh, chạy từ bờ biển Miến Điện đến Vân Nam, sẽ giảm sự lệ thuộc của Trung Quốc vào eo biển Malacca để nhập khẩu các loại nhiên liệu mà họ rất cần.
Các khoản đầu tư cũng đã từ Trung Quốc chảy vào các nước Đông Nam Á với khối lượng lớn hơn nhiều. Hơn 8 tỷ đô la đã được Trung Quốc đầu tư vào Miến Điện kể từ tháng Ba năm 2010 trong các ngành thủy điện, dầu khí, và khai thác mỏ. Tính đến tháng Bảy 2010, Cam Bốt đã có 360 dự án đầu tư Trung Quốc, tổng trị giá cam kết khoảng 80 tỷ đô la. Vào tháng Mười một năm 2010, Chủ tịch Quốc hội Trung Quốc Ngô Bang Quốc đã đến thăm Cam Bốt và ký kết 16 thỏa thuận với tổng giá trị hơn 6,4 tỷ đô la.
90% hợp đồng tổng thầu EPC tại Việt Nam về tay các công ty Trung Quốc
Quy mô quyền lợi mà Trung Quốc đang giành được trên hầu hết đầu vào của các ngành công nghiệp tại Việt Nam, được thể hiện rõ qua những ước tính chính thức, theo đó có khoảng 90% Hợp đồng tổng thầu EPC (thiết kế, mua sắm, trang bị kỹ thuật và xây dựng) về tay các công ty Trung Quốc.
Số lượng người Trung Quốc di chuyển qua các nước Đông Nam Á đang gia tăng. Tại Lào, một quốc gia 7 triệu dân, ước tính có đến 400.000 người Trung Quốc nhập cư bất hợp pháp. Trong lĩnh vực văn hóa, các quốc gia trong khu vực ghi nhận hiện tượng giáo dục bằng tiếng Hoa gia tăng, với Cam Bốt hiện tự nhận là nước có chương trình giảng dạy tiếng Trung tốt nhất Đông Nam Á với hàng trăm giáo viên đến từ Trung Quốc.
Các cường quốc trong khu vực cũng đã nhận thấy đà phát triển ồ ạt dọc theo biên giới Trung Quốc và sự can dự ngày càng tăng của nước này vào các quốc gia Đông Nam Á – với hệ quả là chia rẽ ASEAN. Nhật Bản đã gặp riêng các quốc gia vùng lưu vực sông Mekong là Cam Bốt, Lào, Miến Điện, Thái Lan và Việt Nam, mà không mời Trung Quốc tham gia, để bảo đảm là sẽ trợ giúp các nước này. Viện trợ phát triển chính thức ODA của Nhật Bản cam kết cho khu vực sông Mekong trong ba năm tới lên đến 5,9 tỷ đô la, và các khoản đầu tư tư nhân của Nhật Bản vào khu vực GMS được khuyến khích.
Hàn Quốc cũng đã tuyên bố ý định tham gia phát triển vùng GMS, đặc biệt là trong việc chuyển đổi các hành lang vận tải thành hành lang kinh tế và giải quyết các vấn đề môi trường.
Trong một bài phát biểu vào tháng 07/2010 tại Hà Nội, Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đã nói về lợi ích của Mỹ trong vùng biển Đông và ghi nhận rằng Hoa Kỳ đã thấy rằng quan hệ với Việt Nam "không chỉ quan trọng về giá trị tự thân, mà còn quan trọng với tư cách là một phần của chiến lược nhằm tăng cường sự dấn thân của Mỹ vào châu Á-Thái Bình Dương và đặc biệt là vào Đông Nam Á." Sự kiện Mỹ gần đây gia nhập Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á một phần cũng nhằm mục đích chống lại điều được xem là quyền bá chủ của Trung Quốc ở khu vực lục địa Đông Nam Á.
Ý tưởng về “tính chất trung tâm của ASEAN" trong cấu trúc khu vực, đang được phương Tây thúc đẩy, dựa trên hai điều kiện: ASEAN phải đủ sức để tạo thành một khối, và các thành viên sẽ có lập trường chung trên các vấn đề quan trọng.
Trong một tương lai gần, không một điều kiện nào có thể được thực hiện, thậm chí chưa chắc đã được duy trì. Các quốc gia ASEAN hiện cho thấy là họ không muốn chuyển giao bất cứ chủ quyền nào cho một chính quyền trung ương. Họ cũng chứng tỏ sự bất lực trong việc thống nhất quan điểm về các vấn đề quốc tế.
Quan hệ chính trị và quân sự mật thiết với Trung Quốc : một yếu tố chia rẽ ASEAN lục địa với hải đảo
Ngược lại, việc được kết nối chặt chẽ với nhau về mặt hạ tầng cơ sở vật lý, quan hệ tương tác với nhau về mặt kinh tế, và quan hệ mật thiết về mặt chính trị và quân sự với Trung Quốc, các nhân tố này ngày càng tách biệt các nước Đông Nam Á lục địa ra khỏi các quốc gia ASEAN hải đảo.
Miến Điện, Cam Bốt và Lào đã mặc nhiên trở thành các quốc gia khách hàng của Trung Quốc, trong khi Việt Nam và Thái Lan cũng đang chịu ơn chàng khổng lồ Trung Quốc về mặt kinh tế.
Phản ứng gần đây nhất của ASEAN đối với mối đe dọa chia rẽ là một lời kêu gọi "kết nối" nhiều hơn giữa các thành viên. Một kế hoạch tổng thể - công bố tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần thứ 17 ở Hà Nội vào tháng 10 năm 2010, kêu gọi thiết lập sự kết nối về mặt địa lý, định chế và con người – đã công khai thừa nhận hiện tượng chia rẽ đang manh nha : "Hành trình không hẳn là suôn sẻ, nhất là kể từ khi hai chương trình [ASEAN và GMS] đã theo đuổi các nỗ lực song song và đã đánh chìm nhiều khoản đầu tư đáng kể trong một số lĩnh vực hợp tác."
Với khoảng cách ngày càng tăng giữa các quốc gia lục địa và các nước hải đảo, khả năng của một Cộng đồng ASEAN ra đời vào năm 2015 ngày càng mong manh.
Cùng với Trung Quốc, các nước Đông Nam Á lục địa đang hình thành một khu vực Đại Mêkông, và các mối liên kết đang được phát triển sẽ lấn át những gì hiện có và đang được dự kiến giữa các nước ASEAN. Trong thực tế, ASEAN đang chia rẽ. Những thay đổi này có thể chỉ đơn thuần phản ánh sự gần gũi về địa lý giữa các nước Đông Nam Á với Trung Quốc, hoặc có thể là một biểu hiện của một truyền thống lâu đời của Trung Quốc là chia rẽ chính thể của các lân bang hoặc kết hợp chúng vào chính thể của Trung Quốc.
Trong cả hai trường hợp, một hệ thống phân cấp thứ bậc đang hồi sinh trong vùng Châu Á lục địa, một hiện tượng mà một số người cảm nhận như là một dấu hiệu cho thấy là châu Á không thích hợp với hệ thống tổ chức nhà nước theo mô hình Westphalia.

http://vi.rfi.fr/viet-nam/20110304-trung-quoc-dong-luc-chia-re-asean

Geen opmerkingen:

Een reactie posten