woensdag 30 december 2020

Nhà Thờ Lớn Hà Nội - Công trình kiến trúc lớn nhất Hà Nội cuối thế kỷ 19 + Nhà thờ Đức Bà, đặc trưng kiến trúc Pháp giữa lòng Sài Gòn

 

Nhà Thờ Lớn Hà Nội - Công trình kiến trúc lớn nhất Hà Nội cuối thế kỷ 19

Phần âm thanh 09:47
Nhà Thờ Lớn Hà Nội, Việt Nam. Ảnh chụp ngày 29/11/2009.
Nhà Thờ Lớn Hà Nội, Việt Nam. Ảnh chụp ngày 29/11/2009. © RFI/Tiếng Việt
Thu Hằng
22 phút

Thời gian phủ lớp rêu phong lên Nhà thờ Chính tòa Hà Nội, nổi tiếng với tên gọi Nhà Thờ Lớn, nơi người Hà Nội vẫn ghé qua chụp một kiểu ảnh kỉ niệm vào mỗi Giáng Sinh, dịp lễ tết quan trọng.

Dù đã nhiều lần được bảo trì, công trình theo kiến trúc gothic, được thánh hiến năm 1887, vẫn hằn vết thời gian với lớp vỏ tường bên ngoài bị bào mòn, nhiều chỗ dột nát trên mái khiến trần nhà thờ bị bong tróc do nước thấm. Kế hoạch trùng tu mới đây nhất được bắt đầu từ tháng 07/2020.

Vào cuối thế kỷ XIX, khi cả Hà Nội chỉ có những ngôi nhà gỗ thấp, những túp lều tranh đơn sơ và hồ ao rải rác, Nhà Thờ Lớn trở thành công trình kiến trúc ấn tượng, đồ sộ gần hồ Hoàn Kiếm, đánh dấu cho sự phát triển của khu Hội Thừa Sai, một trong những khu vực thay đổi nhanh chóng nhất, theo hồi tưởng của Raymond Bonnal, công sứ Pháp ở Hà Nội (1883-1884), trong cuốn Ở Bắc Kỳ (Au Tonkin, Hà Nội, 1925) :

« Vào năm 1873, chỉ có vài gia đình Công Giáo tập trung quanh một nhà nguyện nhỏ bằng gỗ, được dựng trên vị trí nhà nguyện Những Người tử vì đạo ở phố Hội Thừa Sai (rue de la Mission, phố Nhà Chung ngày nay). Đến năm 1883, giáo dân Hà Nội đã hình thành một khu vực lớn ngay đối diện Trường thi, cách không xa cửa ô Đông Nam thành Hà Nội. Một hàng rào tre dầy bao quanh khu vực Hội Thừa Sai. Đây như một ngôi làng thực sự, với vẻ rất đặc biệt, sống động nhờ có rất nhiều gia đình giáo dân địa phương, linh mục, thầy giảng, chủng sinh, trẻ em ở cô nhi viện ».

Xây Nhà Thờ Lớn từ đống tro tàn của nhà thờ cũ

Vào khoảng năm 1876, cha Landais cho xây một nhà nguyện nhỏ - khi đó giám mục Puginier đang ở Sài Gòn cầu viện đô đốc Dupré can thiệp giúp giáo dân Bắc Kỳ (1). Nhà nguyện được xây bằng gạch xen những ô cửa sổ có chóp cong hình chữ V, theo tư vấn của kĩ sư Dupommier lúc đó đang giám sát thi công trong Khu Nhượng Địa.

Nhưng cũng chính vào năm 1883, ngôi nhà nguyện đó bị khoảng 400 quân Cờ Đen phóng hỏa đốt vào đêm 15-16/05 sau khi tràn vào khu Hội Thừa Sai nhưng bị giáo dân chống trả quyết liệt. Không một vết tích nào còn sót lại. Kể cả bức tượng Đức Mẹ Đồng Trinh cũng bị quân Cờ Đen mang đi làm chiến lợi phẩm, theo André Masson, trong cuốn Hà Nội trong giai đoạn anh hùng 1873-1888 (Hanoi pendant la période héroique 1873-1888, Paris, 1929).

Tuy nhiên, theo những lời kể được cha Dronet thu thập và được trích trong cuốn Từ Paris đến Bắc Kỳ (De Paris au Tonkin, 1885) của Paul Bourde, « nhà nguyện cũ (bị cháy) được xây theo phong cách thường thấy ở những ngôi đền An Nam, có một gian lớn được gia cố nhờ xà gỗ lim. Có lẽ nhà nguyện còn có một tháp chuông theo phong cách gothic ».

Nhà thờ bằng gạch được cha Landais cho xây vào khoảng năm 1876 và bị quân Cờ Đen thiêu rụi năm 1883. Ảnh trích từ sách Hanoi pendant le période héroïque 1873-1888 của André Masson, xuất bản tại Paris (Pháp), năm 1929.
Nhà thờ bằng gạch được cha Landais cho xây vào khoảng năm 1876 và bị quân Cờ Đen thiêu rụi năm 1883. Ảnh trích từ sách Hanoi pendant le période héroïque 1873-1888 của André Masson, xuất bản tại Paris (Pháp), năm 1929. © RFI / Tiếng Việt

Ngay sau khi nhà nguyện bị quân Cờ Đen thiêu rụi, giám mục Puginier quyết định xây nhà thờ lớn. Vị trí được chọn chính là chùa Báo Thiên. Công sứ Pháp tại Hà Nội lúc đó là Raymond Bonnal cho biết là dùng thủ thuật để tránh mang tiếng « lạm quyền » mà vẫn thỏa mãn ý nguyện của giám mục.

« Phá ngôi chùa và chiếm mảnh đất, nhìn bề ngoài thì chẳng có gì dễ hơn vào thời kỳ “chinh phục” lúc đó, nhưng tôi lại ghê sợ phạm lỗi lạm quyền theo kiểu đó nên tôi hỏi ý kiến tổng đốc Nguyễn Hữu Độ. Tổng đốc có quan hệ tốt với giám mục và giống như tôi, tổng đốc cũng muốn giám mục thoải mái. Và đây là cách ông ấy đã xoay chuyển khó khăn.

Trước tiên, tổng đốc tìm xem còn hậu duệ nào của người lập chùa hay không và dĩ nhiên là không tìm thấy. Sau đó, tổng đốc ra lệnh cho thân hào trong khu vực, được giáo dân chọn ngẫu nhiên, kiểm tra độ vững chắc của chùa. Và những người này không chần chừ tuyên bố rằng chùa bị hư hỏng nghiêm trọng, khi đổ, có thể gây nguy hiểm cho người qua lại.

Giờ thì mọi chuyện đều theo đúng quy định. Cho phá chùa, trưng dụng mảnh đất vô chủ để xây công trình mới, theo tập quán An Nam, là những biện pháp được làm theo đúng luật nên không thể gây ra bất kỳ phản đối nào. Đó là cách tổng đốc đã làm. Tổng đốc còn chịu trách nhiệm nhượng miễn phí cho Hội Thừa Sai mảnh đất trưng dụng. Còn tôi thì hài lòng khi trao cho giám mục giấy chứng nhận sở hữu ».

Mở xổ số quyên góp xây nhà thờ

Xây nhà thờ lớn là một quyết định táo bạo vì lúc đó, phần lớn giáo dân khánh kiệt, còn ngân sách của Hội Thừa Sai cũng gần như đã rỗng. Nhưng cuối cùng công trường cũng được khởi công vào đầu năm 1884, nhờ mở sổ xố gây quỹ. Đợt đầu có 10.000 vé, mỗi vé trị giá một đồng bạc Đông Dương (piastre), theo nghị định ngày 28/01/1884 của đô đốc Courbet (Bulletin officiel du Protectorat du Tonkin, 1884). Đợt hai quyên được 6.000 đồng bạc Đông Dương theo quyết định của ngày 14/08/1886 của thống sứ Bắc Kỳ Paul Bert (Moniteur du Protectorat, 1886). Phần còn lại do tư nhân đóng góp và từ các nguồn tài trợ khác. Sách Từ điển Đường phố Hà Nội cho rằng tổng chi phí xây Nhà Thờ Lớn lên đến 200.000 franc.

Trong bốn năm thi công (1884-1887), một ngôi nhà nhỏ được dựng tạm để cử hành thánh lễ. Lễ Giáng Sinh năm 1884 được bác sĩ Challan de Belval, thuật lại trong cuốn Ở Bắc Kỳ, 1884-1885 : Ghi chép, kỉ niệm và cảm nhận (Au Tonkin, 1884-1885 : Notes, souvenir et impressions, Paris, 1904) :

« Buổi lễ được giám mục Puginier cử hành long trọng và có nhiều tướng lĩnh, sĩ quan và quân nhân đang đóng ở Hà Nội tham dự. Ngôi nhà tranh đơn sơ, được dựng tạm trong lúc chờ xây xong nhà thờ lớn vừa mới được khởi công, cho phép cử hành thánh lễ, gợi nhớ đến túp lều giản dị nơi chúa hài đồng chào đời. Rất giản dị ! Ở đây, tiếng trống, tiếng cồng thay cho tiếng chuông truyền thống, tiếng sáo Bắc Kỳ gợi nhớ đến những người chăn cừu ở Bethlehem và những vị tướng của chúng ta tưởng nhớ đến Ba Vua ».

Công trình lớn nhất Hà Nội đương thời

Năm 1888, nhà thờ được hoàn thiện với hai ngọn tháp sừng sững cao 31 mét và trở thành công trình lớn nhất Hà Nội. Nhưng buổi thánh lễ đầu tiên đã được tổ chức vào ngày 23/12/1887. Công trình nổi tiếng đến tận Paris, theo thông tin của báo Le Temps được Le Dimanche illustré : Semaine religieuse de Toulouse (Chúa nhật có hình minh họa : Tuần lễ tôn giáo Toulouse) trích dẫn :

« Ngôi nhà thờ đẹp được xây ở Hà Nội theo thiết kế và dưới sự giám sát thi công của giám mục Puginier, đã khánh thành ngày 23/12 (1887). Vì muốn khẳng định tình cảm gắn bó với nước Pháp, giám mục Puginier báo với chính quyền là ngài muốn buổi lễ đầu tiên dành tưởng niệm những người đã mất và bị thương cả phía Pháp lẫn người bản xứ trong cuộc chiến vì sự nghiệp của chúng ta (Pháp). Tướng Munier vắng mặt vì đi Hải Ninh. Bộ chỉ huy cùng với các sĩ quan có mặt ở Hà Nội và rất nhiều kiều dân Pháp đã tham dự buổi lễ.

Buổi lễ lúc nửa đêm đã thu hút rất đông người Pháp và Việt. Sau bài giảng bằng tiếng Việt của phó giám mục - cha Gendron - một nhà Hán học uyên bác và biết rõ tiếng Việt và tiếng Hoa, buổi lễ được tổ chức trong tiếng ca, tiếng đàn organ, violoncelle và tiếng vĩ cầm ».

Nhà Thờ Lớn Hà Nội đầu thế kỷ XX. Ảnh trích trong sách Notices sur l'Indo-Chine, Cochinchine, Cambodge, Annam, Tonkin, Laos, Kouang-Tchéou-Ouan của Nicolas Pierre xuất bản tại Paris năm 1900.
Nhà Thờ Lớn Hà Nội đầu thế kỷ XX. Ảnh trích trong sách Notices sur l'Indo-Chine, Cochinchine, Cambodge, Annam, Tonkin, Laos, Kouang-Tchéou-Ouan của Nicolas Pierre xuất bản tại Paris năm 1900. © RFI / Tiếng Việt / BNF

Được thiết kế theo phong cách gothic của Nhà Thờ Đức Bà Paris (Notre-Dame de Paris), Nhà Thờ Lớn Hà Nội gây ấn tượng về vẻ đồ sộ, trầm mặc ở bên ngoài và nét nguy nga ở bên trong dù những họa tiết đặc trưng của kiến trúc gothic đã bị tối giản và kết hợp với phong cách địa phương.

Cựu công sứ Pháp ở Hà Nội (1883-1884) Raymond Bonnal đánh giá : « Nhà thờ không phải là một kiệt tác về kiến trúc nhưng về mặt chính trị, đó là một trong những công trình đáng chú ý của thành phố và gợi lại cho chúng ta thời Trung Cổ, thời kỳ mà nhiều nhà thờ được xây từ những nguồn kinh phí nhỏ, từ đống tro tàn vì chiến tranh và hỏa hoạn ».

Những quả chuông trăm tuổi

Vào năm 1895, Nhà Thờ Lớn đặt mua 5 quả chuông và 1 đồng hồ lớn từ Pháp. Phủ thống sứ Bắc Kỳ ủng hộ 500 đồng bạc Đông Dương, thông qua bà Custine, theo nghị định ngày 30/09/1895 của toàn quyền Đông Dương (Bulletin officiel de l’Annam et du Tonkin, 1895). Gần một năm sau, báo Extrême-Orient (Viễn Đông) viết trong số ra ngày 05/04/1896 : 

« Sáng hôm qua (04/04/1896), lần đầu tiên, những quả chuông ở nhà thờ lớn đã ngân vang những tiếng đầu tiên. Chúng ta đã nghe thấy những tiếng chuông này vào ngày lễ “rửa tội” cho những quả chuông đó, sau đó, chúng được đưa qua 5 tầng tháp để đặt trên tháp.

Tối hôm qua, những tiếng chuông đã ngân vang. Tai của chúng ta vừa thấy vui vừa ngạc nhiên nhận ra tiếng vang thân quen, vì những quả chuông đó y chang với những quả chuông mà chúng ta vẫn nghe thấy ở Pháp. Vì thế hãy cùng nhân đôi niềm vui vì những của chuông này là một phần trong chúng ta. Và mỗi lần vang lên, tiếng chuông nhắc lại những việc mà chúng ta đã làm, trong khả năng của mỗi người, để có được những quả chuông này ».

Những quả chuông vẫn ngân vang ở Nhà Thờ Lớn nhưng được dùng động cơ để kéo. Linh mục Giuse Trần Mạnh Phong, khi trả lời đài truyền hình Hà Nội (07/2020), cho biết để kéo được quả chuông lớn nhất (thường chỉ dùng khi có đại lễ), cần có sức của 12 đến 16 người cùng một lúc. Những bộ khung gỗ vẫn còn đó, vững chắc để bảo vệ tháp khi chuông ngân lên và để tiếng chuông vẫn nguyên vẹn như ngày đầu.

1/4
Nhà Thờ Lớn Hà Nội chụp ngày 28/11/1941.
Trẻ con chơi ở sân trước Nhà Thờ Lớn Hà Nội, ngày 04/05/1975.
Nhà Thờ Lớn Hà Nội, ngày 23/07/2007.
Nhà Thờ Lớn trong thời gian Hà Nội bị phong tỏa để chống dịch Covid-19, ngày 22/04/2020.
Nhà Thờ Lớn Hà Nội chụp ngày 28/11/1941. © AP - MJH

(1) Hanoi chrétien 5 (Suite), Hanoi de 1868 à nos jours. I 1863-1892 Mgr Puginier, évêque de Mauricastre.

Nhà Thờ Lớn Hà Nội - Công trình kiến trúc lớn nhất Hà Nội cuối thế kỷ 19 - Tạp chí việt nam (rfi.fr)

Nhà thờ Đức Bà, đặc trưng kiến trúc Pháp giữa lòng Sài Gòn

Phần âm thanh 11:22
Nhà thờ chính tòa Đức Bà, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam.
Nhà thờ chính tòa Đức Bà, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. CC/Diego Delso
Thu Hằng
24 phút

Nằm ở trung tâm thành phố Hồ Chí Minh, nhà thờ chính tòa Đức Bà Sài Gòn là một địa điểm du lịch không thể bỏ qua, nổi bật với sắc đỏ tươi. Sau gần 140 năm chống chọi với nắng gió thời gian, mái ngói và một số hạng mục của công trình kiến trúc đặc sắc này bị xuống cấp một cách đáng ngại.

Theo dự án của Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hồ Chí Minh trình lên UBND thành phố vào đầu tháng 12/2016, công trình biểu tượng của Sài Gòn sẽ có một đợt trùng tu mái ngói kéo dài từ năm 2017 đến 2019. Cụ thể là sẽ “gia cố, thay thế hệ thống vì kèo bằng tổ hợp thép hình, sơn bảo quản chống gỉ ; gia cố, thay thế cầu phong, li tô bằng gỗ nhóm II, chống mối mọt, sơn bảo quản ; thay thế bổ sung mái ngói tây, ngói vảy cá, ngói âm dương theo nguyên trạng ; xây lại bờ mái bờ nóc, bờ chảy”. Nguồn vốn để sửa chữa do chủ đầu tư là Tòa tổng giám mục Sài Gòn vận động từ nguồn xã hội hóa.

Tuyệt tác kiến trúc gần 140 tuổi biểu tượng của Sài Gòn

Nhìn lại 137 năm lịch sử của nhà thờ Đức Bà Sài Gòn, có lẽ nên bắt đầu từ nguồn gốc nhà thờ đầu tiên được dựng lên ở Sài Gòn, trên nền một ngôi chùa bỏ hoang bên bờ Kinh Lớn (Grand Canal hay Canal Charner), nơi neo đậu của những con tầu gỗ lớn của người Hoa có mái bằng lá cọ và mũi tầu được sơn những cặp mắt dữ tợn. 

Tập san hành trình, địa lý, lịch sử và khảo cổ (1), phát hành năm 1869, miêu tả : “Nhà thờ đầu tiên, với một tháp chuông bằng gỗ sơn mầu, được dựng lên ở Sài Gòn vào năm 1861 nhờ sự đóng góp của các công chức và sĩ quan đội quân viễn chinh Pháp. Nhiều khu nhà tạm được dựng lên dọc bờ kênh trở thành ngôi làng của Giám mục và cũng chính tại đây, Đức ông Lefebvre - Giám mục hiệu toà Isauropolis và Khâm mạng tòa thánh Tây Nam Kỳ - đã trú ẩn trước khi quân Pháp chiếm được Sài Gòn”.

Năm 1863, chuẩn đô đốc Bonnard cho xây một nhà thờ vững chắc hơn ở phía trên thành phố, nơi sau này trở thành địa điểm của Toà Hòa Giải (Justice de paix, nơi ngày nay là cao ốc Sun Wah đường Nguyễn Huệ). Cách gọi “nhà thờ lớn” (cathédrale) có lẽ chỉ để nhấn mạnh đến chức năng của địa điểm thiêng liêng đó mà thôi, vì theo nhận xét của tác giả Raoul Postel trong cuốn Xứ Nam Kỳ thuộc Pháp (2), “công trình thảm thương và tồi tàn này thực ra chẳng xứng với cách gọi đó. Bề ngoài hiu quạnh của nhà thờ càng nâng vẻ lộng lẫy của nhà thờ tu viện Sainte-Enfance”.

Mười năm sau, thánh đường được làm gần như hoàn toàn bằng gỗ bị mối gặm nhấm nghiêm trọng đến mức phải đóng cửa vào năm 1874 và dùng tạm đại sảnh trong dinh thự của thống đốc Nam Kỳ để hành lễ.

Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn sau khi được hoàn thiện năm 1880 và chưa có hai mái chóp.
Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn sau khi được hoàn thiện năm 1880 và chưa có hai mái chóp. BNF/Fernand Blanchet

Nếu như trước năm 1869, nhà thờ Sài Gòn không có bất kỳ nguồn thu nhập nào trừ tiền quyên góp của giáo dân, thì trong khoảng thời gian giới quân sự nắm quyền và Giáo Hội chưa tách khỏi chính quyền, Giám mục Sài Gòn được trợ cấp khoảng 15.000 franc cùng với 5.000 franc công tác phí (Bulletin officiel de la Cochinchine, 16/05/1870) và giáo phận Nam Kỳ cũng nhận được một khoản trợ cấp cho đến năm 1880 khi chính quyền dân sự đầu tiên được hình thành tại Nam Kỳ.

Cũng trong giai đoạn chính quyền quân sự, chính phủ thuộc địa đã nhượng cho các giáo phận Nam Kỳ nhiều khu đất để xây dựng các công trình dành cho con lai, đặc biệt là nhà thờ lớn Sài Gòn. Quyết định được chuẩn đô đốc-thống đốc Duperré (1874-1877) ký ngày 27/09/1876 (Bulletin officiel de l’Annam et du Tonkin, 1877) khi hoàn toàn tin chắc rằng Nam Kỳ đã được bình định. Ông cũng nhận thấy đã đến lúc phải khẳng định đức tin của người Pháp và rộng rãi truyền đức tin đó ở đất nước xa xôi này.

Nhà thờ mới được chuyển về vị trí trung tâm, ở đầu phố Catinat (nay là Đồng Khởi). Cục công binh giao các khu đất (nay là quảng trường số 1 Công Xã Paris, quận 1, trước đây còn là quảng trường Pigneaux de Béhaine), lúc đó nằm dưới sự quản lý của quân đội, cho chính quyền địa phương. Đổi lại, cơ quan dân sự này hoàn toàn chịu trách nhiệm về nhà thờ mới, cũng như mọi việc bảo dưỡng trùng tu trong tương lai.

Ngày 07/10/1877, trước sự chứng kiến của thống đốc Nam Kỳ và toàn bộ chính quyền Pháp tại Sài Gòn, Đức ông Colombert, Giám mục hiệu tòa Samosate, đã ban phước cho viên đá đầu tiên của công trình mang tính thiêng liêng với giáo dân. Sau hai năm rưỡi xây dựng, với tổng chi phí 2.500.000 franc, thánh đường do kiến trúc sư Bourard thiết kế được hoàn thiện ngày 11/04/1880 và được cung hiến lên Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội và thánh François-Xavier.

Tập san của Hội Thừa Sai Paris số ra tháng 07-08/1918 (3) miêu tả nhà thờ Sài Gòn được xây theo kiến trúc Roman, dài 93 mét, rộng 35 mét, cao 57,3 mét. Hầu hết nguyên vật liệu, đặc biệt là gạch ngói đỏ, được chuyển từ Pháp sang. Hai tháp chuông có sáu quả chuông nặng tổng cộng 25.850 kg.

Dự án ban đầu chỉ có hai tòa tháp chuông cao 36,60 mét. Đến năm 1895, hai mái chóp với Thập tự giá biểu tượng cho sự cứu rỗi cao 21 mét được dựng thêm để che tháp chuông. Theo tuần san Le Génie civil số ra ngày 02/05/1896, hai mái chóp được làm bằng sắt, do kỹ sư André Michelin thiết kế, có hình kim tự tháp tám góc, lần lượt được gắn trực tiếp bằng phương pháp tính khung côngxon trên mỗi tháp chuông. Khung mái được lợp bằng loại thép gân và có một cầu thang sắt gắn vào thành tường dẫn lên nóc. Trên nóc là hai cây thập tự cao 3,10 mét được làm bằng tôn và đinh tán. Toàn bộ công trình được thợ thuyền địa phương thực hiện dưới sự giám sát của một đốc công châu Âu.

Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn, ảnh chụp năm 1895.
Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn, ảnh chụp năm 1895. BNF/André Salles

Bên trong công trình kiến trúc quy mô và đặc sắc được dát vàng rất thẩm mỹ. Phía trên hành lang gác trong nhà thờ là loạt cửa sổ bằng kính nhiều mầu ghép lại do xưởng Lorin de Chartres thực hiện. Mỗi tác phẩm trên cửa kính tái hiện đoàn rước các thánh từ Cựu Ước đến Tân Ước đến chào mừng Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, chủ nhân của nhà thờ.

Bàn thờ chính được làm bằng đá cẩm thạch quý hiếm và được trang trí thêm ba bức phù điêu tuyệt đẹp được sáu thiên thần nâng đỡ, trong tay cầm những dụng cụ khổ nạn trong Cuộc Thương Khó của Chúa Giê-su. Lối đi bên trong nhà thờ làm theo hình thập tự, được lát bằng gạch ghép mảnh nghệ thuật và ở mỗi đầu là một bàn thờ của các nhà nguyện. Xung quanh chính điện là các nhà nguyện Đức Mẹ Đồng Trinh (Sainte-Vierge), Thánh Tâm (Sacré-Coeur), thánh Joseph, thánh Paul và thánh François-Xavier. Tất cả đều được trang trí bằng những bức tranh kính nhiều mầu ghép lại tượng trưng cho mỗi vị thánh của nhà nguyện.

Ngoài ra còn phải kể đến 20 chiếc đèn chùm được gia công một cách tinh vi. Từ tháng 10/1913, cha Eugène Soullard cho lắp hàng nghìn bóng điện vào những chiếc đèn chùm và xung quanh các cột chính trong nhà thờ khiến các buổi lễ trở nên lung linh hơn trong ánh sáng hiện đại này. Đặc biệt là vào những buổi Thánh Lễ và lễ rửa tội cho trẻ nhỏ, giáo đường đẹp một cách huyền diệu với các sắc mầu và đồ trang trí.

Năm 1902, tượng Đức ông Pigneaux de Béhaine (tiếng Việt là Bá Đa Lộc), Giám mục hiệu tòa Adran, được dựng lên giữa khu vực trồng hoa tô điểm cho quảng trường trước cửa nhà thờ lớn. Tác phẩm của nhà điêu khắc Lormier thể hiện Cha Cả tay trái nâng bàn tay của hoàng tử Cảnh (con trưởng của vua Gia Long), còn tay phải giương bản Hiệp ước Versailles ký ngày 21/11/1787 với chính phủ Pháp. Đức ông Lucien Mossard, quản lý nhà thờ từ năm 1898, cùng với đông đảo tu sĩ đã tổ chức một buổi lễ long trọng để ban phép lành cho công trình trên trước sự chứng kiến của toàn quyền Đông Dương Paul Doumer, thống đốc Nam Kỳ Henri de Lamothe, các đô đốc Pottier và Bayle, cùng với toàn bộ công chức dân sự và quân sự cũng như giới thân hào Nam Kỳ.

Tan lễ ở Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn, ảnh chụp khoảng sau năm 1880.
Tan lễ ở Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn, ảnh chụp khoảng sau năm 1880.

Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn… người yêu kẻ ghét…

Trong vòng 10 năm, từ 1908 đến 1918, số lượng giáo dân ở Sài Gòn không thay đổi với khoảng 5.530 người, trong đó có 4.000 người châu Âu, 800 người Ấn Độ, 700 người An Nam và khoảng 30 người Hoa. Số lượng giáo dân châu Âu có xu hướng giảm do đợt tổng động viên năm 1914.

Giờ tan lễ sáng Chủ Nhật hay những dịp lễ trọng đại là cảnh tượng độc đáo khiến người qua đường phải tò mò chiêm ngưỡng, theo nhận xét của một cuốn hướng dẫn du lịch dành cho người mới đến thuộc địa xuất bản năm 1906 (4) : “Những bộ cánh quý phái tươi trẻ của các Quý bà, Quý cô phương Tây xen lẫn với những bộ cánh đầy mầu sắc của phụ nữ Ấn Độ cùng với những chiếc váy mầu sậm của phụ nữ An Nam hay những bộ vét trắng của cánh đàn ông”.

Vẫn theo cuốn hướng dẫn du lịch, nhà thờ Đức Bà Sài Gòn là niềm tự hào của người dân công giáo địa phương. Thế nhưng, tác giả Arthur Delteil, trong cuốn Một năm lưu lại Nam Kỳ : Hướng dẫn cho du khách ở Sài Gòn (5), lại tỏ ra không có chút thiện cảm nào với công trình kiến trúc này. Ông viết :

Nhà thờ hướng ra phố Catinat không có chút vẻ nào là một công trình xinh đẹp. Được xây bằng gạch, toàn bộ khối đồ sộ đó nằm trên nền móng bằng đá hoa cương khiến người ta liên tưởng đến những chiếc bánh ngọt béo ngậy được gọi một cách dân dã là “bánh pa-tê”. Công trình kiêu kỳ và xấu xí này đã tiêu tốn vài triệu franc của nhà nước. Nhìn từ bên ngoài, nhà thờ có hình chữ nhật dài, hai đầu là hai tháp chuông hình vuông và một chiếc cổng. Bên trong, gian giữa rộng và nóng, không khí không tuần hoàn được, cứ như đang xuyên qua một nốt phồng rộp trên da vậy.

Thay vì xây một giáo đường nhẹ nhàng, lịch lãm, có hành lang đúp để không khí có thể tràn vào thì người ta xây một khối to uỳnh, thiếu thẩm mỹ, không có phong cách và quá rộng so với số giáo dân ít ỏi thường đi lễ. Người ta muốn đánh vào trí tưởng tượng của người dân bản xứ bằng sự hoành tráng và áp đặt một công trình tôn giáo thờ Chúa trời. Tôi không biết liệu họ làm được như thế không, nhưng theo tôi, nhà thờ này là một thất bại”.

***

(1) V. A. Malte Brun (chủ biên), Annales des Voyages, de la géographie, de l’histoire et de l’archéologie, Paris : Challamel Aîné, 1869, T. 1.

(2) Raoul Postel, La Cochinchine française, Paris: A. Degorce-Cadot, 1883.

(3) Missions étrangères de Paris, Annales des Missions étrangères de Paris, 1918/07-1918/08.

(4) Saigon-Souvenir, petit guide saigonnais à l’usage des passagers des débutants dans la colonie, Saigon : Coudurier et Montégout, 1906.

(5) Arthur Delteil, Un an de séjour en Cochinchine : guide du voyageur à Saïgon, Paris : Challamel aîné, 1887.

Nhà thờ Đức Bà, đặc trưng kiến trúc Pháp giữa lòng Sài Gòn - Tạp chí văn hóa (rfi.fr)

Geen opmerkingen:

Een reactie posten