woensdag 6 december 2017

Cuộc chiến ít biết của quân Anh ở Việt Nam + Bộ trưởng Anh từng thả... Hồ Chí Minh

Cuộc chiến ít biết của quân Anh ở Việt Nam

  • 1 tháng 12 2017
Tại Anh ngày nay, ít người biết quân đội nước này từng được ủy nhiệm chiếm đóng Nam Việt Nam gần tám tháng liền, từ tháng 9/1945 đến tháng 5/1946.
Máy của bạn không hỗ trợ nghe xem

Nguyễn Giang nói về giai đoạn quân Anh vào Sài Gòn và câu chuyện Lê Văn Tám

Bối cảnh quân Anh vào Nam Bộ tháng 9/1945 và những gì tiếp theo

Cuộc chiến nhỏ nhưng đã quốc tế hóa

Sách báo Việt Nam hiện nay cũng nói về đến cuộc kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ chứ không nhắc nhiều về vai trò của Anh.
Nhưng trên thực tế, Nam Bộ không chỉ là nơi duy nhất ở châu Á quân Anh còn độc lập tác chiến sau Thế Chiến 2, mà còn là cuộc chiến mang tính quốc tế vào giai đoạn bước ngoặt cho ba nước Đông Dương.
Voi VN lên tàu Ba Lan ra Bắc rồi đi đâu?
Một số bản đồ của Rigobert Bonne
'Chính phủ Việt Nam và tình thế trong nước' 1945-46
Hồ sơ JFK: KGB, Johnson và Ngô Đình Diệm
Hơn hai vạn quân Anh gồm cả lính Punjab, Gurkha đã giúp hàng nghìn quân Pháp, vài trăm lính Nhật giành lại Sài Gòn và Nam Kỳ cho Pháp.
Trong các binh đoàn Pháp tái chiếm Đông Dương đã có không ít cựu binh Waffen SS khét tiếng của phát-xít, nay khoác áo lê-dương.
Phía Việt Minh cũng có vài trăm quân nhân Nhật bỏ sang trợ giúp, mà con số đông nhất là ở phía Nam.
Các tài liệu Anh cũng nói về vụ bắt được một "cố vấn Liên Xô" ở gần Sài Gòn ngày 25/10/1945.
Douglas GraceyBản quyền hình ảnh Keystone/Hulton Archive/Getty Images
Image caption Ngày 27/12/1945 tại Sài Gòn, tướng Douglas Gracey (1894 - 1964) trao thanh kiếm danh dự cho nữ công dân Pháp Suzi Pinel, thành viên của Lực lượng Pháp tự do hoạt động bí mật chống Nhật ở Đông Dương trong Thế Chiến 2. Các Pháp kiều sau đó đã được hỗ trợ để đánh lại Việt Minh.
Người này đến từ Liên Xô đến hay là một người cộng sản nói tiếng Nga từ hàng ngũ Pháp chạy sang phía Việt Minh? Câu chuyện này hẳn còn cần kiểm chứng.
Các tài liệu tiếng Anh chỉ nói sau khi tra khảo người này, quân Anh đã chuyển ông ta cho An ninh (Sûreté) của Pháp.

Vì sao chọn quân Anh?

Theo một tài liệu của T.O. Smith công bố ở Đại học East Anglia thì sau Hội nghị Potsdam tháng 7/1945, Tổng Tư lệnh Quân đội Hoa Kỳ, Tướng George C. Marshall đã yêu cầu Tư lệnh người Anh của Quân Đồng minh tại Đông Nam Á, Đô đốc Louis Mountbatten, tiếp quản khu vực phía Nam đường vĩ tuyến 16 chia đôi Đông Dương.
Lực lượng Anh nhân danh Đồng Minh sẽ chỉ làm nhiệm vụ giải phóng (liberation duties) để bàn giao lại cho Pháp Tự do của Tướng Charles de Gaulle.
Quân Anh không muốn dính líu sâu vào Đông Dương dù quan điểm chung của Bộ Ngoại giao là "một nước Pháp mạnh tại châu Âu sẽ giúp cho an ninh của Anh".
Bộ Tổng tham mưu (Joint Planning Staff) chỉ thị cho Tướng Douglas Gracey chỉ bảo vệ Sài Gòn và để các vùng xung quanh cho người Pháp tự lo và trợ giúp khi cần
Các tài liệu khác, như của sử gia David Marr ghi rõ các sỹ quan Anh và OSS của Mỹ đều không ưa thái độ của người Pháp.
Lực lượng Mỹ tại Trùng Khánh bên cạnh bộ tư lệnh của Trung Hoa Quốc Dân Đảng còn từ chối chuyển vũ khí cho quân Pháp - thực tế là các nhóm tàn quân chạy khỏi Đông Dương sau khi Nhật đảo chính sang miền Nam Trung Quốc - để họ quay lại tái chiếm Đông Dương.
LeclercBản quyền hình ảnh Getty Images
Image caption Tướng Jean-Philippe Leclerc đã nêu quan điểm không thể thắng cuộc chiến với chủ nghĩa dân tộc tại Đông Dương. Ông tử nạn năm 1947 ở Bắc Phi

Chiến dịch Masterdom và Tướng Gracey

Xin nói một chút về binh nghiệp của Tướng Douglas Gracey, tư lệnh quân Anh tại Nam Bộ.
Sinh năm 1894 tại Ấn Độ trong gia đình quan chức thuộc địa, ông tốt nghiệp Trường võ bị Sandhurst.
Sau khi phục vụ tại Pháp trong Thế Chiến 1, ông về Ấn Độ làm tiểu đoàn trưởng gồm toàn xạ thủ sắc tộc Gurkha, người miền núi Himalayas.
Tham chiến ở Iraq và Syria, ông lên hàm đại tá và đến Thế Chiến 2 thì được điều sang Miến Điện để chặn quân Nhật đánh từ Đông Dương sang Ấn Độ thuộc Anh.
Khi nhận lệnh sang Đông Dương năm 1945, tướng Gracey đem vào binh đoàn Anh - Ấn và cả các đơn vị Gurkha quen thuộc dưới quyền.
Lệnh rút khỏi Huế của Tổng thống Thiệu
Ngoại giao Pháp và những cơ hội bị bỏ lỡ của VN
Sa Hoàng Nga bị ‘đày’ tới VN như thế nào?
Quân Anh - Ấn đến Sài Gòn ngày 13/9/1945 nhưng chiến dịch Masterdom hóa ra không hề đơn giản.
Lính PhápBản quyền hình ảnh Keystone-France
Image caption Ngay sau khi quân Anh quay lại, kiều dân Pháp đã vũ trang và bắt các thanh niên Việt Nam trong lực lượng kháng chiến ở Nam Bộ
Đầu tiên là không ai công nhận ngay quân Anh ở vai trò 'ông chủ' mới.
Việt Minh và các nhóm vũ trang khác người Việt đã hoạt động mạnh, và quân Nhật từ chối không trao nộp vũ khí như thỏa thuận đầu hàng với Đồng Minh.
Các kiều dân Pháp thì tái vũ trang để cố thủ trong nhà, dinh thự của họ để chống lại các vụ tấn công nhỏ lẻ của Việt Minh và phe dân tộc chủ nghĩa người Việt.
Việc đầu tiên Tướng Gracey làm là ban bố thiết quân luật ở Sài Gòn và đưa quân ra phố, đẩy Việt Minh ra ngoại ô để người Pháp giành quyền quản trị đô thị.
Tướng Gracey cũng quyết định không tịch thu vũ khí của quân Nhật mà còn ra lệnh cho họ giúp quân Anh vãn hồi trật tự.

Nam Bộ Kháng chiến

Báo chí Việt Nam, như tạp chí Quốc phòng Toàn dân cũng mô tả ít nhiều tình trạng quan hệ giữa quân Anh và Việt Minh như sau:
"Ngày 23/9/1945, thực dân Pháp núp dưới bóng quân Anh đã quay lại gây hấn ở Sài Gòn, bắt đầu cuộc xâm lược nước ta lần thứ hai. Trước tình hình đó, Xứ ủy, Ủy ban nhân dân và Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ triệu tập cuộc họp...thông qua "Lời kêu gọi của Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ".
"Tiêu biểu cho tinh thần 'độc lập hay là chết' là tiểu đội bảo vệ Cột cờ Thủ Ngữ. Sáng 23 tháng 9 năm 1945, khi một đại đội quân Anh định hạ lá cờ đỏ sao vàng xuống để kéo lá cờ tam tài lên, vì danh dự lá cờ Tổ quốc, chỉ với vũ khí thô sơ nhưng các chiến sĩ cảm tử của ta kiên quyết ngăn cản dù phải hy sinh đến người cuối cùng. Cảm phục trước khí tiết đó, viên chỉ huy người Anh đã cho đại đội xếp hàng, bồng súng chào hương hồn những người anh hùng của đối phương đã ngã xuống dưới chân cột cờ..."
Các tài liệu của Anh công nhận rằng người Việt Nam khi đó "không muốn đổi ách chiếm đóng của Nhật Bản để nhận lại ách đế quốc của người châu Âu".
Ấn Độ thuộc AnhBản quyền hình ảnh Keystone/Getty Images
Image caption Quan chức và sỹ quan Anh duyệt binh tại Delhi năm 1946. Nam Bộ là chiến trường cuối cùng Anh tham gia tại châu Á sau Thế Chiến 2 và đến 1947, London trả lại độc lập cho Ấn Độ
"Họ cũng không ủng hộ chủ nghĩa cộng sản mà chỉ muốn có độc lập dân tộc."
Việc Anh lưu dung quân Nhật đến nay vẫn gây tranh cãi.
Tương tự như ở Đông Dương, Anh đã dùng quân cảnh Nhật đàn áp nhóm kháng chiến Indonesia ở Bandung và Semarang, giết chết hàng nghìn người.

Liên tiếp giao tranh

Trước khi tướng Pháp Jacques-Philippe Leclerc, người hùng giải phóng Paris, dẫn đầu một đơn vị tới Sài Gòn nhưng phải nhờ quân Anh về phương tiện, vũ khí vào ngày 5/10/1945 thì quân Anh - Ấn đã có một số trận giao tranh với Việt Minh.
Có bốn đợt giao tranh đáng kể Anh - Việt trong năm 1945.
Đợt đầu tiên vào tháng 9 quân Việt Minh đánh vào sân bay Tân Sơn Nhứt do Anh quản trị, giết chết một lính Gurkha, phía Việt Minh có sáu người bị thiệt mạng.
Đợt thứ hai vào ngày 10/10/1945, toàn bộ một trung đội Ấn Độ do Anh chỉ huy bị giết khi tuần tra ở ngoại ô.
Toàn quốc Kháng chiếnBản quyền hình ảnh HOANG DINH NAM
Image caption Biểu tượng Toàn quốc Kháng chiến 1946 trong tranh tuyên truyền ở Việt Nam hiện nay
Trận thứ ba nổ ra ngày 13/10/1945, khi quân Việt Minh tấn công ồ ạt vào các điểm do lính Ấn Độ (Punjab), một số quân Pháp và Nhật bảo vệ, cũng ở ngoại ô Sài Gòn.
Thành phố lịch sử Saint Petersburg
Ông bà Trịnh Văn Bô và căn nhà niềm tin
Hiệp định Paris: 'Nam Bắc VN cùng vi phạm'?
Trong trận này, các nguồn của Anh nói có 500 quân Việt Minh bị giết.
Trong tháng 10/1945, các tài liệu Anh có ghi nhận những trận phản công của Việt Minh "đánh vào các cơ sở như nhà máy điện, nước, cầu cảng, sân bay trên toàn khu vực Sài Gòn - Gia Định trong đợt thứ ba bằng vũ khí nhỏ, lựu đạn, súng cối".
Các sử liệu Anh cũng viết "Việt Minh chuyển sang chiến thuật bao vây nhỏ" nhưng không nói rõ vây gì và ở đâu.
Đặc biệt, trong cuộc giao tranh lần ba này, "các nhóm quân Pháp mới đến đã được trao nhiệm vụ giải cứu cho các cuộc bao vây trong lúc quân Anh dùng cách tuần tra hung bạo (aggressive patrolling) để gây bất ngờ cho Việt Minh".
Quân Anh - Ấn có tới 20 nghìn quân, cộng thêm trên 2500 quân Pháp và một số tiểu đoàn của Nhật nên phe chiếm đóng đã áp đảo cả về số lượng và vũ khí.

Câu chuyện Lê Văn Tám

Các tài liệu Việt Nam nói đến các trận đánh ở cầu Mống và cầu Thị Nghè, và chuyện Lê Văn Tám xảy ra vào khoảng này, trong các ngày 17-18/10/1945.
Các nguồn nước ngoài và Việt Nam hiện vẫn viết khác nhau về sự kiện tạm coi là một vụ cháy, nổ ở kho xăng hoặc kho đạn do phía Việt Minh gây ra.
David Marr trong cuốn 'Vietnam: State, War, and Revolution (1945-1946)' xác nhận đúng là có một vụ phá được "các bể chứa dầu ở nhà máy xi măng Simon Pietri".
Về cây 'đuốc sống', David Marr viết nguyên văn 'A boy was said to have soaked himself in petrol and become a human torch", nhưng cho rằng đây là chuyện do sử gia Trần Huy Liệu tạo ra.
Quân Anh - ẤnBản quyền hình ảnh M. McNeill/Getty Images
Image caption Anh Quốc sử dụng nhiều binh đoàn Ấn Độ trong Thế Chiến 2 - hình minh họa
Một số lời kể với báo chí cách mạng Việt Nam thì vẫn chưa xác định rõ được đây là vụ cháy "kho đạn", hay "kho xăng của Pháp", một số khác nói về "trạm xăng của công ty Shell".
Nhưng theo sử liệu Anh và sách của David Marr thì trận đánh sân bay Tân Sơn Nhứt xảy ra trong đợt tấn công đầu tiên của Việt Minh vào cuối tháng 9, chứ không phải ngày 17-18 tháng 10.
Điều chắc chắn là giao tranh giảm đi trong tháng 11 và 12 và các nhóm kháng chiến đã bị đẩy ra ngoài Sài Gòn trong năm 1945.
Vì thế, đến ngày Giáng Sinh năm đó, trung đoàn bộ binh 32 của Anh có thể bàn giao lại cho Sư đoàn Bộ binh 9 của Tướng Pháp Jean-Etienne Valluy để rời Đông Dương sang Borneo.
Nhưng sang đầu năm mới đã xảy ra trận đánh lớn cuối cùng của Việt Minh, và cũng giao tranh đáng kể nhất của quân Anh tại Việt Nam.
Ngày 3/01/1946, chừng 1000 du kích Việt Minh đã tấn công vào căn cứ ở Biên Hòa và 100 người bị đạn súng máy của quân Anh bắn chết.

Cuộc chiến bất đắc dĩ?

Cuộc chiếm đóng của quân Anh tại Sài Gòn dù mang danh Đồng Minh cũng khiến nước này phải tính toán đến mức độ dính líu thực tế vào một chiến trường không liên quan gì đến quyền lợi của London ở châu Á.
Đô đốc Georges Thierry D'Argenlieu và Cao ủy Pháp tại Đông Dương Leon Pignon duyệt binh năm 1946Bản quyền hình ảnh AFP
Image caption Sau khi tái chiếm Đông Dương, quân Pháp đã xây dựng cả các nhóm vũ trang sắc tộc thiểu số để chống cộng sản: Đô đốc Georges Thierry D'Argenlieu và Cao ủy Pháp tại Đông Dương Leon Pignon duyệt binh năm 1946
Trong chính phủ Anh cũng có hai phái có ý kiến khác nhau về vai trò của Anh tại Đông Dương.
Tổng tư lệnh Lord Alanbrooke, trả lời câu hỏi từ Thủ tướng Clement Attlee về tình hình quân đoàn Anh ở Sài Gòn đã gợi ý rằng chỉ nên duy trì sự dính líu vừa đủ, chờ quân Pháp quay lại rồi trao trả cho họ.
Nước Anh khi đó, theo T.O. Smith, đã quá kiệt quệ vì chiến tranh ở châu Âu nên không có sức đâu mà lo thêm một chiến trường ở Việt Nam.
Lord Alanbrooke giữ quan điểm rằng Anh không nên chi phí gì thêm cho sự dính líu vào Đông Dương.
Nhưng Bộ Ngoại giao, qua lời Trợ lý Thứ trưởng Oliver Harvey lại tin rằng Anh nên giúp Pháp tối đa ở Đông Dương để đổi lại sự ủng hộ của Pháp ở châu Âu.
Bộ Ngoại giao Anh muốn chuyển cả một số các đơn vị lính Anh từ chiến trường Đông Nam Á đang trên đường hồi hương sang Đông Dương.
Tuy thế, chính phủ Anh không muốn rắc rối với Hoa Kỳ nên chỉ giúp rất hạn chế khi Pháp đề nghị Anh giúp cho tàu chiến, xe vận tải để tái chiến Đông Dương.
Lý do là bản thân Anh cũng phải "vay mượn" xe cộ, tàu chiến, trọng pháo, phi cơ của Hoa Kỳ trong chương trình nổi tiếng "Lend-Lease".
Anh đã yêu cầu Pháp hỏi thẳng người Mỹ để xin phương tiện và có lúc chỉ cho Pháp "mượn" hai chiếc phi cơ Spitfire.
Một quyết định của Thủ tướng Attlee thể hiện rõ nhất cách suy nghĩ nước đôi của Anh về vai trò của Pháp tại Đông Dương.
Ông không chấp nhận để quân Anh chuyển đạn dược từ Singapore sang Đông Dương cho Pháp nhưng đồng ý cung cấp đạn cho Pháp tại châu Âu.
Sau đó, việc Paris tự đưa đạn tới chiến trường ở Việt Nam không còn là chuyện của Anh.
Việt Minh đã thắng trong cuộc chiến chống lại quân Pháp 1946-1954Bản quyền hình ảnh Getty Images
Image caption Việt Minh đã thắng trong cuộc chiến chống lại quân Pháp 1946-1954
'The Vietnam War’ và khi Đồng Minh tháo chạy
Lịch sử có nợ gì Tướng Dương Văn Minh?
‘Thiên sứ’, ‘bùa hộ mệnh’ của Hitler
Kết cục quốc gia hỗ trợ chính cho Pháp vẫn là Hoa Kỳ với cả các khoản chiến phí, tín dụng, quân trang, quân dụng.
Đây là sự thay đổi từ chính sách ủng hộ quyền tự quyết của các dân tộc bị trị Woodrow Wilson nêu ra sang hỗ trợ các cường quốc là đồng minh.
Đến tháng 5/1946, các đơn vị tác chiến Ấn Độ và Anh cuối cùng rút khỏi Đông Dương.
Chiến dịch Masterdom chấm dứt.

Tinh thần dân tộc trên toàn châu Á

Trong số 20 nghìn quân Anh Ấn vào Nam Việt Nam, chỉ có 40 người bị giết.
Số quân Nhật và Pháp mỗi bên cũng bị giết từng đó.
Phía Việt Minh dù có tinh thần cao nhưng vì trang bị quá lạc hậu và thiếu kinh nghiệm chiến đấu nên đã hy sinh chừng 2500 quân, theo các tài liệu tiếng Anh.
Ngày nay tìm ra một Lê Văn Tám cụ thể chắc là khó nhưng con số người trẻ hy sinh tại Nam Bộ với tinh thần quyết tử chống Pháp thì phải lên tới hàng trăm.
Tinh thần cảm tử vì độc lập của người Việt Nam hiện rõ trong báo cáo của các sỹ quan Anh gửi về nước.
Trong bài 'Resurrecting the French Empire: British Military Aid to Vietnam September 1945 - June 1947', T. O. Smith viết rằng cùng thời gian, chính phủ Anh biết rõ cả Ấn Độ, Ceylon, Malaya và Singapore đều có thiện chí với cuộc chiến vì độc lập ở Việt Nam nên đã lo sợ công nhân cảng Ấn Độ đình công để chống lại việc đưa hàng quân dụng sang Đông Dương.
Có phải vì chứng kiến tinh thần dân tộc của người Việt Nam sẵn sàng hy sinh bất chấp súng đạn tối tân hơn mà Anh Quốc thay đổi chính sách ở Ấn Độ?
Đây là điều chúng ta sẽ không bao giờ biết được nhưng sự thực là chỉ hơn một năm sau, Anh phải trả độc lập cho Ấn Độ.
Hai vị tướng cuối thời thực dân
Cuộc chiến Nam Bộ cũng ảnh hưởng sâu sắc đến suy nghĩ của hai vị tướng 'cuối thời thực dân', Leclerc và Gracey.
Ngay từ khi đặt chân tới Sài Gòn, tướng Leclerc đã đề nghị phải đàm phán để tìm giải pháp chính trị, thay vì giao tranh.
Nhìn trước các vấn đề quốc tế, ông nói câu nổi tiếng: "Cuộc chiến chống cộng sản sẽ chỉ là vô dụng nếu không giải quyết được chủ nghĩa dân tộc".
Hồ Chí Minh và LeclercBản quyền hình ảnh Getty Images
Image caption Các ông Hồ Chí Minh (quay lưng), Leclerc (thứ nhì từ trái sang) và Jean Sainteny, ngày 24/03/1946 ở Vịnh Hạ Long. Đàm phán Pháp - Việt cuối cùng đã đổ vỡ và Việt Minh tuyên bố Tổng khởi nghĩa vào tháng 12 năm đó.
Quan điểm của Tướng Leclerc không được chính giới ở Paris ủng hộ và ông đã từ chức.
Ông chết vì tai nạn phi cơ khi đi thị sát ở Bắc Phi năm 1947 và được truy phong hàm nguyên soái.
Còn tướng Douglas Gracey sau khi rời Sài Gòn đã quay về Ấn Độ và lên hàm Trung tướng.
Sau khi Ấn Độ và Pakistan tuyên bố độc lập khỏi Anh, ông vẫn ở lại và giữ chức Phó Tổng tư lệnh, rồi Tổng tư lệnh quân đội Pakistan.
Ở chức vụ này, ông bất tuân lệnh của Tổng thống Mohammad Ali Jinnah điều quân vào vùng tranh chấp Kashmir.
Năm 1951, ông nghỉ hưu và là người Âu cuối cùng làm chỉ huy quân lực một nước Hồi giáo vùng Nam Á.
Ông qua đời ở Surrey, phía Nam London năm 1964, khi chế độ thuộc địa của Anh tại châu Á chấm dứt.
Một năm trước, Malaya và Singapore tuyên bố tách khỏi Anh và đến 1965 thì Singapore cũng độc lập.
Vẫn T.O. Smith viết rằng cuộc chiến 'bất đắc dĩ' của Anh tại Nam Bộ cũng thể hiện sự xuống dốc của nước Anh về thực lực quân sự và nỗ lực vớt vát giành lại thuộc địa của Pháp khi cả hai nước này đều phải trông cậy vào Hoa Kỳ.
Với học thuyết Chiến tranh Lạnh của Tổng thống Truman đưa ra năm 1947, mọi vấn đề Đông Á chuyển hướng để Hoa Kỳ đóng vai trò chủ chốt, dần thay chân cho hai "cựu cường quốc Tây Âu" đã về chiều.
Xem thêm về Lịch sử Việt Nam:
Bộ trưởng Anh từng thả Hồ Chí Minh
"Năm năm vàng son" của Việt Nam Cộng Hòa
Đảng CS dựng tượng Hồ Chí Minh ở nước ngoài
30/04: Những xui xẻo định mệnh của VNCH

Chủ đề liên quan

Tin liên quan

http://www.bbc.com/vietnamese/vietnam-41400643

Bộ trưởng Anh từng thả Hồ Chí Minh

  • 10 tháng 3 2017
Sir Stafford CrippsBản quyền hình ảnh Getty Images
Image caption Sir (Ngài) Stafford Cripps, được biết đến nhiều nhất bởi sự ủng hộ của ông cho nền độc lập của Ấn Độ.
Trong các cuộc tranh luận về bầu cử Anh vào tháng 5 năm 2015, tôi thấy có một cái tên được nhắc đến là Sir Stafford Cripps. Ông là người trước cuộc bầu cử năm 1950 nêu ra vấn đề làm sao để chính phủ không bị tỏ ra là 'mua chuộc cử tri'.
Nhưng ở Việt Nam có lẽ không có nhiều người biết đây là vị luật sư cao cấp nhất của Anh, thành viên Viện Cơ Mật, hàm bộ trưởng, cũng chính là người đã quyết định thả Nguyễn Ái Quốc khỏi nhà tù ở Hong Kong.
Các tài liệu ở Việt Nam chủ yếu nhắc đến luật sư Anh Francis Loseby (1883-1967), người giúp Nguyễn Ái Quốc thoát khỏi thuộc địa Anh khi đó mà không rơi vào tay Pháp.
Vợ và con gái ông Loseby năm 1960 có sang Hà Nội thăm Hồ Chí Minh.
Trong các tài liệu đã đăng ở Việt Nam, gồm bài của Lady Borton, người ta còn nhắc đến có một trạng sư Anh nữa, Francis Jenkin (1883 - 1936), đại diện cho bị cáo trong vụ Tống Văn Sơ - một tên gọi của Hồ Chí Minh. Vụ án này tên là Sung Man Cho Vs. The Superintendent of Prisons, được xử trước tòa Hong Kong.
Theo luật Anh, ông Loseby là 'solicitor' tức luật sư đại diện cho thân chủ, còn ông Jenkins là 'barrister', trạng sư đại diện cho vụ việc trước tòa.
Nhưng người quan trọng nhất chính là Sir Stafford Cripps, quan chức Anh đã quyết định thả người bắt ở Hong Kong năm 1931 khi mang tấm hộ chiếu cấp tại Singapore ghi tên Tống Văn Sơ, quốc tịch Trung Hoa.
Nghĩ về Di chúc của Cụ Hồ
Đoạn nào di chúc Hồ Chí Minh bị cắt?
Hai ông luật sư Anh lập luận rằng các hoạt động của Tống Văn Sơ tại Hong Kong không có gì phương hại cho quyền lợi của Anh Quốc, và đề nghị toà bác bỏ đề nghị của Pháp muốn Anh trao nộp đối tượng 'hoạt động lật đổ' cho họ.
Bản thân bị cáo cũng gây ấn tượng tốt trước các quan tòa Anh vì nói tiếng Anh lưu loát và nhấn mạnh ông là một nhà hoạt động dân tộc và vì thế mà bị đã bị chính quyền Pháp kết án ở An Nam.
Năm 1929, tòa án ở Vinh đã kết án tử hình vắng mặt Nguyễn Ái Quốc và nếu bị giao cho Pháp, khả năng ông bị án chém là gần như chắc chắn.
Điều cần hỏi ngày nay là vì sao, khi vụ việc được chuyển lên đến Viện Cơ Mật tại Anh, Sir Richard Stafford Cripps (1889 -1952) ở cương vị quan chức pháp lý cao nhất của Đế quốc Anh khi đó đã có quyết định thuận lợi cho Tống Văn Sơ?

Tư tưởng thiên tả

Sun Yat-sen
Image caption Trung Hoa Dân quốc thời Tôn Trung Sơn là địa bàn hoạt động của nhiều nhà cách mạng châu Á
Ở đây, tôi phải nói thêm về sự đa dạng và phức tạp của sinh hoạt chính trị, xã hội và tôn giáo của giới trí thức quý phái Anh Quốc để các bạn thấy động cơ của Sir Stafford Cripps trong quyết định cho thả Nguyễn Ái Quốc.
Sinh ra trong gia đình giàu có, ông Stafford Cripps học trường UCL (nay có khá nhiều sinh viên Việt Nam), ra làm trạng sư năm 1912 và tham gia bảo vệ nhiều vụ kiện cho Hội Hồng thập tự hồi Thế chiến 1, chủ yếu đại diện cho các bệnh nhân.
Nhưng ông cũng là luật sư được trả tiền cao nhất London và là một nhân vật sùng đạo.
Vừa tin theo các ý tưởng cải tạo xã hội kiểu Marxist, vừa vận động cho liên minh quốc tế các giáo hội Phúc Âm và Tin Lành nhằm cải tạo thế giới, ông cũng vào đảng Lao Động và là thành viên Hội Fabian, một nhóm cánh tả có ảnh hưởng trong giới trí thức Anh.
Khi được chính phủ phong vào chức 'Solicitor-General' tương đương với Trưởng Công tố Quốc gia ở các nước có thể chế cộng hòa như Hoa Kỳ, Pháp, ông cũng nhận tước hiệp sỹ và trở thành thành viên Viện Cơ Mật (Privy Council).
Đây là cơ quan tư vấn cho Hoàng gia mà ngày nay vẫn tồn tại, lo các việc liên quan đến hiến pháp như thay mặt Nữ Hoàng Anh phê chuẩn bản Hiến chương về đài BBC sau mỗi lần thông qua 10 năm một.
Nhưng vào thời còn Đế Chế Anh, Viện Cơ Mật còn là cấp tư pháp cao nhất xử các vụ phúc thẩm từ thuộc địa.
'Bảo vệ thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh'
Hồ Chí Minh nghĩ gì về Khổng Tử?
Ở cương vị đó, Sir Stafford Cripps đã nhận hồ sơ vụ Tống Văn Sơ từ Hong Kong và ra quyết định thả người này, hẳn vì các cảm tình với hoạt động của phe chống thuộc địa bên châu Á.
Hiện ta chưa rõ việc tiền bạc trả cho luật sư trong vụ Tống Văn Sơ ra sao nhưng theo tác giả Sophie Quinn-Judge, Cứu Tế Đỏ (International Red Aid) một tổ chức thiên tả đã bố trí để luật sư Anh, Frank Loseby đại diện cho thân chủ này.
Sau khi Viện Cơ Mật Anh đồng ý thả tự do cho Tống Văn Sơ, vấn đề của phe thiên tả quốc tế và luật sư Anh ở Hong Kong là làm sao cho thân chủ thoát hiểm khỏi Hong Kong.
Họ không muốn ông chịu số phận của Hồ Tùng Mậu và một số nhân vật cách mạng Việt Nam trước đó, bị trục xuất khỏi Hong Kong đến Thượng Hải và bị người Pháp cũng có tô giới nên bắt lại và tống về nhà tù ở Đông Dương.
Chiến lược bào chữa của họ là dùng một luật Anh, Deportation Ordinance, để lập luận tìm giải pháp cho Tống Văn Sơ được tùy chọn điểm đến khi rời Hong Kong.
Một mặt, chính quyền Hong Kong muốn trao nộp nhanh chóng người họ cho là 'kẻ xách động nguy hiểm' cho chính quyền Pháp.
Mặt khác, hồ sơ của Anh tại Hong Kong coi vụ việc này 'không quan trọng' và quan chức Bộ Thuộc địa Anh còn ghi chú ủng hộ quan điểm bảo vệ các quyền dân sự của bị cáo.
Theo tác giả Sophie Quinn-Judge, một quan chức Anh là Walter Wallis còn lập luận rằng trao Tống Văn Sơ cho Pháp thì chẳng khác nào 'tống cổ một người ủng hộ Nga hoàng về Liên Xô'.
Trong vụ việc kéo dài tới tận năm 1933, cuối cùng, Nguyễn Ái Quốc được luật sư Loseby giúp cải trang thành một thương nhân Trung Hoa và rời khỏi Hong Kong an toàn.

Người Anh với châu Á

Trong lần sang Hong Kong tháng Ba năm nay tôi có vào thăm Bảo tàng Tôn Trung Sơn và đọc thêm về giai đoạn các nhà cách mạng châu Á, gồm cả Hồ Chí Minh, được chính phủ Quốc dân Đảng hỗ trợ tại Nam Trung Quốc trong những năm 1920-1930.
Ở Trung Hoa hồi đó, ngoài các luật sư thiên tả ở Hong Kong, còn có những nhân vật người Anh khác có thể đã đóng vai trò ít ra là gián tiếp trong vụ Nguyễn Ái Quốc.
Ho Chi MinhBản quyền hình ảnh Getty Images/BBC World Service
Image caption Hồ Chí Minh sang Pháp cứu vãn hội đàm với chính phủ Georges Bidault năm 1946 nhưng không thành
Ví dụ như đảng viên đảng Cộng sản Anh, George Hardy, người phụ trách Profintern tức cánh nghiệp đoàn của Quốc tế Cộng sản (Comintern).
Chính Văn phòng Viễn Đông tại Thượng Hải của Comintern và Profintern đã cung cấp ngân quỹ hàng năm cho các đảng phái, tổ chức của cộng sản Trung Quốc và Đông Dương hoạt động tại Nam Trung Hoa.
Nguyễn Ái Quốc đã 'thoát hiểm' trong bối cảnh đó nhưng ảnh hưởng của phe tả châu Âu vào chính trị toàn cầu còn kéo dài về sau.
Trong Thế Chiến 2, Thủ tướng Winston Churchill, lãnh đạo của Đảng Bảo thủ đã quyết định bổ nhiệm Sir Stafford Cripps làm đại sứ Vương Quốc Anh tại Moscow.
Quốc tang Fidel Castro 'đáp lễ' quốc tang Hồ Chí Minh?
Điều thú vị về cách dụng nhân của Churchill là dù biết rõ Stafford Cripps 'thân cộng', ông coi đó lại càng hay vì đại sứ có thể nói chuyện dễ dàng với Stalin và duy trì mối quan hệ Đồng Minh chống Đức.
Năm 1942 ông Stafford Cripps về nước làm Chủ tịch khối nghị sỹ Hạ viện, được phong Bộ trưởng Quân khí chuyên lo chương trình đóng máy bay để gấp rút tăng cường cho không quân Hoàng gia Anh bị Luftwaffe tấn công.
Sau Thế Chiến, Stafford Cripps vẫn đóng vai trò quan trọng trong chính trường Anh và giữ chức Bộ trưởng Tài chính năm 1950.
Hôm 18/3/2015 nhắc lại câu nói của ông khi Bộ trưởng Tài chính đương nhiệm George Osborne tuyên bố trong luật ngân sách mới, những ai thu nhập dưới 11 nghìn bảng Anh một năm sẽ không phải đóng thuế thu nhập.
Phe đối lập coi đây là động tác 'mua phiếu' cho đảng Bảo thủ và nhắc lại phát biểu năm 1950 của Bộ trưởng Stafford Cripps yêu cầu Thủ tướng Clement Atlee không tuyên bố mở cuộc tổng tuyển cử trước khi ông công bố ngân sách quốc gia.
Ông Cripps muốn ngăn chặn tình trạng đảng của ông bị phê phán lợi dụng ngân sách có điều khoản tăng trợ cấp hoặc giảm thuế cho dân để mua chuộc cử tri.
Điều này cho thấy dù là người thiên tả, Sir Stafford Cripps có quan điểm ủng hộ quốc gia kháng chiến rõ ràng và cũng phân biệt việc đảng của ông với việc nước.
Ở Anh ngày nay, vụ án về Nguyễn Ái Quốc ở Hong Kong không phải là điều được được nói đến nhiều trong cuộc đời của Sir Stafford Cripps.
Mahatma GandhiBản quyền hình ảnh Getty Images
Image caption Anh Quốc cho ra mắt tượng Mahatma Gandhi tháng 3/2015 tại London
Nổi tiếng hơn cả là sự ủng hộ của ông cho nền độc lập của Ấn Độ.
Gần đây, nhân lễ khai trương bức tượng Mahatma Gandhi ở London báo Anh (14/03) lại nhắc đến phát biểu đầy ngưỡng mộ của ông về Gandhi, người đòi thực dân Anh phải cuốn cờ về nước.
Sir Stafford Cripps nói:
"Không có người nào trong thời đại chúng ta cho thấy mạnh mẽ và thuyết phục hơn Gandhi về sức mạnh của tinh thần vượt lên trên các giá trị vật chất."
Nguyễn Ái Quốc đã không may mắn có được các đối thủ như vậy.
Vào giai đoạn Việt Nam đấu tranh đòi độc lập 1945-1946, tính cố chấp của chính giới Pháp gồm cả phái de Gaulle và phe Xã hội mà ông từng là đảng viên đã góp phần đẩy Hồ Chí Minh và Việt Minh về phía Mao với các hệ luỵ cho quốc gia nhiều thập niên về sau.
Dù sao đi nữa, giai đoạn ngắn ngủi có liên quan đến các hoạt động của Nguyễn Ái Quốc với nước Anh cũng là điều đáng nhắc lại để ta biết rõ thêm về các nhân vật của một thời phức tạp về quyền lợi và tư tưởng ở đây mà Sir Stafford Cripps là một trong số đó.
Bài đã đăng lần đầu trên trang BBC Tiếng Việt tháng 3/2015, trên giao diện cũ.

Chủ đề liên quan

http://www.bbc.com/vietnamese/forum-39230496

Geen opmerkingen:

Een reactie posten