woensdag 24 augustus 2016

Biển Đông : Bảo vệ sinh thái, chìa khóa giải quyết tranh chấp + Tòa Án Trọng Tài bác bỏ bản đồ “đường lưỡi bò” của Trung Quốc

Biển Đông : Bảo vệ sinh thái, chìa khóa giải quyết tranh chấp

mediaMột góc "khu bảo tồn sinh quyển" Abb Atoll, Ấn Độ Dương (thuộc quần đảo Maldives), được UNESCO xếp hạng năm 2011.Ảnh : Wikipedia
Trong các tranh chấp tại Biển Đông giữa Trung Quốc và nhiều quốc gia Đông Nam Á, cá và san hô là các nạn nhân tương đối ít được chú ý. Tuy nhiên, phán quyết của Tòa Trọng tài thường trực La Haye ngày 12/07/2016 về vụ Philippines kiện các tham vọng chủ quyền của Trung Quốc tại Biển Đông đặc biệt nhấn mạnh đến khía cạnh môi trường của các tranh chấp. Trong bối cảnh nguy cơ khủng hoảng sinh thái tại Biển Đông bị coi rất nhẹ, nhiều nhà khoa học khuyến nghị : Bảo vệ sinh thái cần phải coi là một chìa khóa để giải quyết tranh chấp.
Tòa án La Haye nhận định các hoạt động bồi đắp và xây dựng nhân tạo « trên 7 cấu trúc của Quần đảo Trường Sa gần đây của Trung Quốc đã gây hại nghiêm trọng với môi trường của các rặng san hô và vi phạm nghĩa vụ bảo tồn và bảo vệ các hệ sinh thái dễ bị tổn thương và môi trường sống của các loài đang suy yếu, bị đe doạ và bị huỷ diệt ». Khía cạnh môi trường được nêu bật trong phán quyết của Tòa án quốc tế khơi dậy niềm tin trong giới bảo vệ sinh thái, là môi trường có thể là « một chìa khóa » góp phần giải quyết cuộc xung đột tại Biển Đông.
Cho đến nay, dường như công luận chú ý nhiều hơn vào vấn đề tự do và an toàn hàng hải trên con đường huyết mạch của giao thông đường biển toàn cầu, với hơn 5.000 tỉ đô la hàng hóa qua lại hàng năm và tiềm năng dầu mỏ tại Biển Đông, ước tính hơn 7,5 tỉ baril, tuy nhiên giá trị của Biển Đông về thực phẩm và sinh thái cũng hết sức lớn. Trong thời gian gần đây, các nhà khoa học ngày càng chú ý đến các tổn hại về môi trường hết sức nghiêm trọng, không chỉ do việc bồi đắp các đảo nhân tạo, mà còn do việc khai thác hải sản bừa bãi. « Biển Đông bên bờ thảm họa sinh thái » là cảnh báo của The Asia Maritime Transparency Initiative (AMTI).
San hô bị thảm sát
Trong một khu vực tương đối nhỏ so với tổng diện tích biển toàn cầu, với khoảng 3 triệu km² ở vùng khí hậu cận nhiệt đới, nhưng Biển Đông là nơi cư trú của 37% giống cá của toàn thế giới và đến 76% loài san hô.
Giáo sư Edgardo Gomez, nhà sinh học Philippines, thuộc Viện khoa học hải dương, University of the Philippines (được trang mạng Quartz.com dẫn lời), nhận định : Biển Đông là « một thiên đường dưới nước ».
Chỉ riêng hệ sinh thái san hô được các nhà khoa học ước tính giá trị khoảng 350.000 đô la đối với một hecta trong một năm. Theo các chuyên gia, sinh thái san hô mang lại giá trị hơn bất cứ loại sinh thái nào khác, như sinh thái rừng rậm nhiệt đới, hay sinh thái rừng ngập nước...
Tuy nhiên, san hô đã bị tàn phá kinh hoàng trong những năm gần đây. Theo giáo sư John McManus, chuyên gia về sinh vật biển đại học Miami, các hoạt động khai thác hải sản của con người đã hủy hoại đến 16.200 hecta (tương đương 162 km²) san hô, mà trong đó 98% là do người Trung Quốc. Thiệt hại ước tính 6 tỷ đô la/năm. Diện tích san hô tại Biển Đông cứ một thập niên lại giảm 16%.
Theo các hình ảnh vệ tinh mới đây, diện tích san hô bị phá hủy do người Trung Quốc khai thác (đặc biệt để phục vụ trang trí nhà cửa) là tương đương 104 km² (Bài "Giant Clam Poaching Wipes Out Reefs in South China Sea"). Việc ngư dân tăng cường khai thác hải sản bằng việc sử dụng thuốc nổ hay xyanua cũng tham gia vào quá trình san hô bị phá hủy với tốc độ rất nhanh chóng này. Bên cạnh đó, 58 km² san hô bị hủy diệt trong quá trình Trung Quốc bồi đắp các đảo nhân tạo.
Cá chỉ còn bằng 1/10 so với giữa thế kỷ trước
Bên cạnh các tổn hại nghiêm trọng về san hô, sự vắng mặt của một quy định bảo vệ môi trường và sinh thái tại Biển Đông cũng khiến tôm cá của khu vực này đang trên được bị đánh bắt đến mức cạn kiệt. Biển Đông vốn là nơi khai thác hải sản chiếm 12% sản lượng toàn cầu, với tổng trị giá 21,8 tỷ đô la (năm). Nghề cá sử dụng khoảng 4 triệu nhân công, và là nguồn thực phẩm cho hàng trăm triệu cư dân ven bờ.
Trang mạng thông tin độc lập Theconversation.com dẫn lại một nghiên cứu hồi năm ngoái, theo đó, 55% tàu cá trên toàn thế giới hoạt động tại Biển Đông (Bài « Cá, chứ không phải dầu lửa, là trung tâm của tranh chấp Biển Đông »). Trữ lượng cá tại Biển Đông hiện nay giảm từ 70 đến 95% so với những năm 1950. Theo ước tính của nhiều chuyên gia, tới năm 2045, đối với mỗi loài cá được nghiên cứu, trữ lượng sẽ còn giảm thêm từ 9% đến 59%.
Ước tính trong 30 năm vừa qua, lượng cá đánh bắt được mỗi giờ chỉ còn bằng một phần ba so với trước. Điều đó có nghĩa là phải nỗ lực gấp bội để có thể đánh bắt được cùng một lượng cá so với trước đây.
Trong số các quốc gia ven bờ Biển Đông, Trung Quốc cũng là nước đang triển khai một chính sách khai thác quy mô lớn, vừa vì mục tiêu kinh tế, vừa nhằm khẳng định các yêu sách chủ quyền đối với gần như toàn bộ vùng biển này. Trước khi phán quyết La Haye được đưa ra, tương lai sinh thái Biển Đông là vô cùng u ám.
Bên cạnh việc khai thác bừa bãi, bồi lấp đảo quy mô lớn, thì tình trạng giao thông hàng hải gia tăng, và sự phát triển nhiều khu công nghiệp ven bờ biển, với hệ quả là vô số rác thải, độc chất, cũng là các nhân tố đe dọa nghiêm trọng môi trường Biển Đông (xem bài "Cá biển chết ở Việt Nam: Hệ lụy có thể kéo dài 50 năm").
Vẫn theo giáo sư John McManus, đại học Miami, cộng đồng quốc tế đang chứng kiến « sự sụp đổ của nghề ngư nghiệp tại Biển Đông, và hàng trăm thảm họa về môi trường tại khu vực này, đe dọa cuộc sống hàng trăm triệu cư dân ven bờ ».
ASEAN phải đạt thỏa thuận về « an ninh sinh thái »
Tuy nhiên tình hình đã thay đổi với phán quyết La Haye. Ông James Borton - nhà nghiên cứu tại học viện Mỹ-Châu Á ở Washington - DC, tác giả cuốn « South China Sea: Challenges and Promises/Biển Đông, các thách thách thức và hứa hẹn » - ví phán quyết của tòa án La Haye như « một siêu bão » đối với lập trường đầy tham vọng bất chấp láng giềng của Trung Quốc, cho dù Bắc Kinh tuyên bố không thừa nhận phán quyết nói trên.
Trong bài viết « Hậu La Haye… », chuyên gia về Biển Đông James Borton nhấn mạnh đến sứ mạng hàng đầu của ASEAN trong tranh chấp Biển Đông là tìm ra « một thỏa thuận về an ninh sinh thái ».
Trong bối cảnh môi trường và sinh thái Biển Đông lâm nguy, các nhà khoa học khuyến cáo Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á gia tăng hợp tác khoa học về biển, đặc biệt là mở cửa cho việc nghiên cứu tại các đảo và rạn san hô tranh chấp, dẹp qua một bên mọi bất đồng về chủ quyền, đổi mới phương thức hoạt động của Viện ASEAN vì Hòa Bình và Hòa Giải (APIR), lập ra một ủy ban khoa học để xem xét kinh nghiệm của Hiệp Ước Nam Cực trong việc quản lý Biển Đông, xúc tiến đối thoại để thành lập một công viên biển hòa bình, tại khu vực Trường Sa….
Dự án công viên hòa bình, hoặc ít nhất là một công viên biển được bảo vệ tại Trường sa, Biển Đông, "có thể là bước đi đầu tiên để cải thiện sự tin cậy lẫn nhau giữa các nước láng giềng".
Theo nhà sinh vật biển John McManus, một thỏa thuận về khai thác hải sản tại Biển Đông là một điều cần thiết, một giải pháp duy nhất để tránh cho nghề cá Biển Đông rơi vào sụp đổ, và đây cũng là con đường đi đúng để tránh nguy cơ xung đột quân sự gia tăng. Giáo sư McManus lạc quan cho rằng hiện nay triển vọng cho một thỏa thuận sinh thái như vậy tăng lên rất nhiều, sau phán quyết La Haye (ông đưa ra hình ảnh : xác xuất 1/10 so với 1/100 trước đây).

http://vi.rfi.fr/chau-a/20160822-bien-dong-bao-ve-sinh-thai-chia-khoa-giai-quyet-tranh-chap

Ý nghĩa 5 thất bại của Trung Quốc tại Tòa án La Haye

mediaTrụ sở Tòa Án Trọng Tài Thường Trực ở La Haye, Hà Lan.Ảnh : Wikipedia
Trong phán quyết ngày 12/07/2016, Tòa án Trọng tài Thường trực đã nêu lên 5 điểm cho thấy Trung Quốc thua Manila tại La Haye. Giới phân tích đánh giá thế nào về 5 điểm cụ thể đó ? Đâu là bước kế tiếp cho Biển Đông ? Phân tích của hai nhà báo David Tweed và Jason Koutsoukis thuộc hãng tin Bloomberg.
Trước hết trở lại với phán quyết rất được mong đợi của Tòa án La Haye về vụ kiện Biển Đông. Liên quan đến 5 điểm được chú ý gồm : thứ nhất, các đòi hỏi của Trung Quốc về các vùng trong bản đồ "đường 9 đoạn" không có cơ sở pháp lý. Thứ hai là không một thực thể nào trong quần đảo Trường Sa có thể tạo ra vùng biển mở rộng.
Thứ ba là một số vùng biển mà Trung Quốc đòi hỏi nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines và điểm thứ tư là Bắc Kinh đã vi phạm các quyền chủ quyền của Philippines trong vùng đặc quyền kinh tế. Sau cùng, việc bồi đắp xây 7 thực thể của Trung Quốc đã gây tổn hại nghiêm trọng cho môi trường sinh thái biển.
Về điểm thứ nhất là bản đồ « đường lưỡi bò », Tòa án La Haye cho rằng Trung Quốc không thể viện chứng cớ lịch sử để đòi hỏi quyền làm chủ các nguồn tài nguyên ở bên trong bản đồ đường 9 đoạn.
Liên quan đến điểm thứ nhì, hai tác giả bài báo chỉ chú ý đến Ba Bình (Itu Aba), thực thể quan trọng nhất trong khu vực Trường Sa, và nhấn mạnh là Tòa khẳng định đây chỉ là một « bãi đá » và do vậy không thể thiết lập vùng đặc quyền kinh tế chung quanh Ba Bình. Philippines, Trung Quốc và các bên tranh chấp khác cần đàm phán để tìm một thỏa thuận chung. Tòa muốn nói đến Đài Loan, vì Đài Loan cũng căn cứ trên bản đồ năm 1947 để khẳng định chủ quyền tại Ba Bình.
Nhìn đến quyền đánh bắt hải sản, Tòa án La Haye trong phán quyết ngày 12/07/2016 cho rằng Bắc Kinh vi phạm luật pháp khi để cho các tàu cá xâm nhập vào vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Philippines. Bloomberg nhắc lại, vào tháng 6/2016 đã xảy ra nhiều vụ tàu cá Trung Quốc đối đầu với lực lượng tuần duyên Indonesia và Jakarta đã phải thông qua ngân sách bổ sung cho bộ Quốc Phòng để nâng cấp căn cứ quân sự trên quần đảo Natuna, phía nam Biển Đông.
Điểm thứ tư cho thấy Trung Quốc thua Philippines trước Tòa án Trọng tài Thường trực được hai nhà báo của Bloomberg chú ý đó là Tòa đã dùng những lời lẽ rất cứng rắn với Bắc Kinh khi cho rằng : khi xây dựng, bồi đắp đảo nhân tạo, Trung Quốc « vĩnh viễn phá hủy » tính chất tự nhiên của bãi đá hay bãi bãi cạn ; Trung Quốc bị cho là « vi phạm » Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, khiến các « tranh chấp thêm nghiêm trọng ».
Theo như đánh giá của Felix Chang, một chuyên gia thuộc Viện Nghiên cứu về Chính sách đối Ngoại tại thành phố Philadelphia, Hoa Kỳ được Bloomberg trích dẫn, Tòa án La Haye gần như cho là Trung Quốc đã « cố ý vi phạm luật pháp ».
Sau cùng, hai đồng tác giả David Tweed và Jason Koutsoukis cùng cho là, quyết định vừa được đưa ra tại La Haye làm sứt mẻ uy tín của Bắc Kinh. Trung Quốc luôn tự nhận là một siêu cường có trách nhiệm với an ninh và ổn định trong khu vực, là một quốc gia tôn trọng luật pháp quốc tế.
Đến nay, Trung Quốc một mực khẳng định các công trình xây dựng đảo nhân tạo là nhằm « bảo vệ » hệ sinh thái trong vùng, nhưng theo phán quyết của Tòa Án Trọng Tài Thường Trực, các công trình đó đã làm tổn hại cho môi trường, cho các rạn san hô, và Bắc Kinh thừa biết là ngư dân Trung Quốc đánh bắt loài rùa biển bị đe dọa tuyệt chủng, làm hư hại các rạn san hô với những phương tiện đánh bắt tai hại.
Vậy thì câu hỏi đặt ra là sắp tới tình hình Biển Đông sẽ ra sao. Về điểm này, có nhiều quan điểm trái ngược nhau : một số nhà phân tích cho rằng, với phán quyết của Tòa án La Haye, các nước tranh chấp chủ quyền biển đảo sẽ thảo luận với nhau để cùng khai thác tài nguyên, có lợi cho cả các bên. The Diplomat, trụ sở tại Tokyo, đánh giá : Phản ứng của Bắc Kinh còn là một ẩn số. Tạp chí Mỹ Time không loại trừ xung đột nổ ra trong vùng biển này.

 http://vi.rfi.fr/phan-tich/20160713-y-nghia-5-that-bai-cua-trung-quoc-tai-toa-an-la-haye

Biển Đông: Tòa Án Trọng Tài bác bỏ bản đồ “đường lưỡi bò” của Trung Quốc

mediaBiểu hiệu của Tòa Án Trọng Tài Thường Trực La Haye
Hôm nay, 12/07/2016, Tòa Án Trọng Tài Thường Trực ở La Haye đã ra phán quyết về vụ kiện Biển Đông giữa Philippines với Trung Quốc và tuyên bố rằng “không có cơ sở pháp lý” cho việc Trung Quốc đòi hỏi quyền lịch sử trên những tài nguyên tại các vùng nằm trong bản đồ đường chín đoạn, còn được gọi là bản đồ “đường lưỡi bò”.
Trong phán quyết, Tòa ghi rõ “ mặc dù các ngư dân và nhà hàng hải của Trung Quốc, cũng như của những nước khác, trong lịch sử đã từng sử dụng các "đảo" ở Biển Đông, nhưng không có bằng chứng nào cho thấy Trung Quốc trong lịch sử đã từng độc quyền kiểm soát các vùng biển và các nguồn tài nguyên tại đây.”
Về quy chế của các thực thể, Tòa cũng phán quyết rằng không một thực thể nào của quần đảo Trường Sa “có thể tạo các vùng biển mở rộng”, không một thực thể mà Trung Quốc đòi chủ quyền “có thể tạo ra một vùng đặc quyền kinh tế”. Do vậy, Tòa tuyên bố - tuy không xác định ranh giới - rằng một số khu vực nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines vì những khu vực này không chồng lấn với bất cứ khu vực nào của Trung Quốc.
Liên quan đến các hoạt động bất hợp pháp của Trung Quốc tại Biển Đông, phán quyết của Tòa Án Trọng Tài Thường Trực cho rằng Trung Quốc đã vi phạm chủ quyền của Philippines ở vùng đặc quyền kinh tế của nước này, vì đã cản trở việc thăm dò dầu khí và đánh cá của Philippines, xây dựng các đảo nhân tạo, cũng như đã không ngăn cản ngư dân Trung Quốc đến đánh cá trái phép ở vùng này.
Tòa còn phán quyết rằng các ngư dân Philippines ( cũng như ngư dân Trung Quốc ) có quyền đánh cá truyền thống ở vùng bãi cạn Scarborough và Bắc Kinh đã cản trở việc thực thi các quyền đó khi hạn chế việc đi vào vùng này. Cũng theo Tòa án Trọng tài Thường trực các tàu chấp pháp của Trung Quốc đã hành xử trái phép khi họ dùng tàu cản đường các tàu Philippines gây nguy cơ đụng tàu nghiêm trọng.
Về môi truờng biển, Tòa nhận định là các hoạt động bồi đắp, xây đảo nhân tạo của Trung Quốc trong thời gian gần đây đã làm tổn hại nghiêm trọng đến môi trường bãi san hô và vi phạm nghĩa vụ bảo về môi trường sinh thái biển.
Cuối cùng, Tòa Án Trọng Tài Thường Trực còn cho rằng các hành động bồi đắp, xây đảo nhân tạo của Trung Quốc không phù hợp với nghĩa vụ của một Nhà nước trong tiến trình giải quyết tranh chấp, gây ra những tổn hại không thể khắc phục được đối với môi trường biển, xây dựng các đảo nhân tạo trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines, tàn phá môi trường tự nhiên của các thực thể ở Biển Đông. 
Xin nhắc lại là phán quyết của Tòa Án Trọng Tài Thường Trực không phán quyết về chủ quyền biển đảo, mà chỉ xác định là những thực thể nào trên biển có thể tạo ra chủ quyền lãnh thổ trên các vùng biển xung quanh chiếu theo luật quốc tế.
Trung Quốc đã nhiều lần tuyên bố là không chấp nhận và cũng không tham gia vào vụ kiện “đơn phương” của Philippines. Tuy nhiên, Tòa Án Trọng Tài Thường Trực cho rằng, việc Bắc Kinh từ chối tham gia không ảnh hưởng gì đến thẩm quyền xét xử của tòa và việc Philipines đơn phương kiện không phải là một hành động vi phạm các thủ tục giải quyết tranh chấp theo Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển.

Biển Đông : Các dữ liệu cơ bản
Từ hàng thập kỉ nay, những đòi hỏi chủ quyền trái ngược nhau trên Biển Đông, hay còn gọi là biển Hoa Nam, vẫn luôn là nguồn gốc của các căng thẳng. Dưới đây là đôi nét chính của « kho thuốc súng » này.
Địa lý
Vốn được quốc tế biết đến nhiều hơn với tên « Biển Hoa Nam », Biển Đông – cách gọi quen thuộc của Việt Nam - có diện tích hơn 3 triệu km2, giáp với Trung Quốc (phía nam), Đài Loan, Philippines, đảo Bornéo và Đông Nam Á.
Lúc sơ khai ban đầu, phần lớn trong số hàng trăm đảo lớn, nhỏ và bãi đá trong khu vực đều không có người ở. Các đảo lớn nhất đều nằm ở quần đảo Hoàng Sa (tên nước ngoài là Paracels, bao gồm khoảng 130 đảo nhỏ) và Trường Sa (tên nước ngoài là Spratley, gồm hơn 700 đảo nhỏ).
Các lợi ích
Với vị trí được coi như con đường huyết mạch nối Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, khu vực này có giá trị vô cùng to lớn cả về kinh tế và quân sự.
Các tuyến đường vận tải hàng hải tại đây cho phép nối Đông Á với châu Âu và Trung Đông. Hàng năm, hơn 4500 tỷ euro hàng hoá được vận chuyển qua khu vực này.
Khu vực biển này được cho là có các mỏ nhiên liệu lớn.
Biển Đông còn có nhiều bãi san hô ngầm, thuộc loại lớn nhất thế giới. Do các nguồn đánh bắt hải sản đang dần cạn kiệt dọc bờ biển, khu vực biển này cũng là một nguồn đánh bắt cá lớn đối với số dân cư ngày càng gia tăng.
Các yêu sách
Trung Quốc và Đài Loan đòi hỏi gần như toàn bộ vùng Biển Đông. Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei cũng có yêu sách, nhưng đôi khi các yêu sách đó chồng lấn lên nhau.
Trung Quốc chủ yếu dựa vào vùng giới hạn bởi « đường chín đoạn », được thể hiện trên các bản đồ của nước này vào những năm 1940. Phần « đường chín đoạn » này áp sát bờ biển của các quốc gia lân cận.
Tên gọi
Bắc Kinh cũng như phần lớn các quốc gia khác đều biết đến khu vực biển này với tên gọi « Biển Hoa Nam ». Đối với Hà Nội, đó là « Biển Đông », còn đối với Manila thì là « Biển Tây Philippines ».
Chiếm giữ
Trung Quốc đã nắm quyền kiểm soát quần đảo Hoàng Sa vào năm 1974, vào thời điểm đó, quần đảo này do chế độ miền Nam Việt Nam quản lý, trong lúc Mỹ rút khỏi Việt Nam.
Từ 2012, Trung Quốc kiểm soát bãi cạn nhiều hải sản Scarborough, cách hòn đảo chính Luzon của Philippines 230 km.
Tính ra Trung Quốc chiếm ít nhất 7 thực thể trong quần đảo Trường Sa. Việt Nam dường như chiếm hoặc kiểm soát 21, trong khi đó Brunei, Malaysia, Philippines và Đài Loan kiểm soát các thực thể còn lại.
Các xung đột
Có hai xung đột trên biển giữa Trung Quốc và Việt Nam.
Năm 1974, khoảng 50 quân nhân Việt Nam đã chết trong các cuộc chạm trán giữa quân lực Trung Quốc và hải quân miền Nam Việt Nam.
Vào năm 1988, một trận hải chiến trên bãi cạn Johnson, tức Gạc Ma, thuộc quần đảo Trường Sa khiến khoảng 70 người thiệt mạng về phía Việt Nam.
Thỉnh thoảng, các tàu chiến của Trung Quốc bắn các tàu cá của Việt Nam qua lại trong khu vực.
Bành trướng của Trung Quốc
Trong những năm gần đây, Trung Quốc tìm cách củng cố sự hiện diện của mình, làm tăng thêm căng thẳng giữa nước này và các nước láng giềng, và cả các quốc gia khác nữa.
Vào năm 2012, Bắc Kinh đã thiết lập một thành phố mới - có tên là Tam Sa - trên đảo Phú Lâm, quần đảo Hoàng Sa, trực thuộc tỉnh Hải Nam về hành chính. Tam Sa là đầu cầu nối với tất cả các vùng biển mà Bắc kinh đang đòi chủ quyền trên Biển Hoa Nam (Biển Đông). Trong khi đó, Trung Quốc cũng dự tính phát triển đảo Phú Lâm thành một địa điểm du lịch.
Trong quần đảo Trường Sa, Trung Quốc đã tiến hành rất nhiều công trình nạo vét và bồi đắp để tạo các đảo nhân tạo, trên quy mô rất lớn so với những hoạt động tương tự mà các nước khác đã làm.
Theo Lầu Năm Góc, Trung Quốc đã tạo ra thêm 1.295 hecta và đã xây dựng trên đó nhiều cơ sở hạ tầng như hệ thống radar và các đường băng hạ cánh, có thể tiếp nhận các máy bay quân sự cũng như dân dụng cỡ lớn.
Các tàu tuần tra của lực lượng tuần duyên Trung Quốc tăng cường hiện diện tại các vùng biển chiến lược.
Thất bại về ngoại giao
10 thành viên của Hiệp hội Đông Nam Á – viết tắt là ASEAN - và Trung Quốc, năm 2002, đã thông qua một bản « tuyên bố chung về cách ứng xử » không mang tính ràng buộc, trong đó các bên cam kết không dùng vũ lực, cũng như đe dọa để áp đặt các đòi hỏi của mình.
Từ đó đến nay, Bắc Kinh từ chối biến đổi tuyên bố chung này thành một văn bản mang tính ràng buộc và vấn đề này làm cho ASEAN chia rẽ sâu sắc. Manila đấu tranh để ASEAN thể hiện sức mạnh của mình, nhưng các đồng minh của Trung Quốc là Lào và Cam Bốt thì chống lại điều này.
Dùng phương tiện pháp lý
Vào năm 2013, Philippines đã kiện lên Tòa Án Trọng Tài Thường Trực (PCA), và là nước duy nhất dùng pháp lý để chống lại các đòi hỏi của Trung Quốc.
Việt Nam và Indonexia tuyên bố dự tính có hành động pháp lý.
Vào năm 2014, Hà Nội đã đệ trình lên PCA các tài liệu bác bỏ đường « chín đoạn ».
Trung Quốc bác bỏ tính chính đáng của PCA và tuyên bố không tuân thủ quyết định của định chế này.

http://vi.rfi.fr/chau-a/20160712-bien-dong-toa-an-trong-tai-bac-bo-ban-do-%E2%80%9Cduong-luoi-bo%E2%80%9D-cua-trung-quoc

Geen opmerkingen:

Een reactie posten