Cập nhật :08:59 GMT - Thứ Tư, 25 Tháng 2, 2009
Từ đồng chí thành kẻ thù
Vì sao cuộc chiến biên giới Việt - Trung 1979 xảy ra? Một số nhà phân tích nhấn mạnh vai trò của những tranh chấp trên bộ và trên biển giữa hai nước; xung đột Việt - Trung tại Campuchia; và vai trò của người Hoa trong quan hệ Việt - Trung.
Những người khác thừa nhận tầm quan trọng của những yếu tố này, nhưng đặt chúng trong bối cảnh xung đột lớn hơn giữa Liên Xô và Trung Quốc (TQ). Phân tích của tôi dựa trên cái nhìn sau để xem lại những sự kiện lớn xảy ra trước cuộc chiến 1979.Quan hệ Việt - Trung sau 1975
Những người cộng sản TQ xem quan hệ với cộng sản Việt Nam (VN) chủ yếu qua lăng kính của mâu thuẫn Xô - Trung gia tăng sau khi quan hệ đồng minh Xô - Trung sụp đổ đầu thập niên 1960.
Từ cái nhìn này, những diễn biến trong 10 năm trước 1975 thật làm họ lo ngại. Trong cuộc chiến Đông Dương lần Hai (1965-75), Liên Xô thay thế TQ, trở thành nhà cung cấp chính về quân sự và kinh tế.
Sau 1975, TQ không rõ về ý định chiến lược của Hà Nội đối với Moscow. Sự triệt thoái của Mỹ khỏi Đông Nam Á sau Hiệp định Paris 1973 giúp gỡ bỏ một đối trọng của Liên Xô trong vùng, và làm phức tạp cố gắng phản kích Liên Xô của Trung Quốc.
Tháng Tám 1975, trong chuyến đi quan trọng nhờ giúp đỡ kinh tế, Phó Thủ tướng và Chủ tịch Ủy ban Kế hoạch Nhà nước Lê Thanh Nghị đã thăm Bắc Kinh trước khi sang Moscow. Họ không thể đạt thỏa thuận về gói viện trợ của TQ cho VN.
Sang tháng Chín, VN lại thử tìm viện trợ. Mặc dù lần này có thỏa thuận về gói kinh tế, nhưng TQ không giúp về quân sự. Trong dấu hiệu chứng tỏ họ lo ngại về quan hệ Việt - Xô, một chủ đề quan trọng được thảo luận trong chuyến thăm là về mục tiêu của LX ở Biển Đông. Đáng chú ý, vào cuối chuyến thăm, hai bên không ra tuyên bố chung.
Có vị thế kinh tế tương đối mạnh hơn TQ, Liên Xô hào phóng hơn với VN. Trong chuyến thăm Moscow tháng Mười của Tổng Bí thư Lê Duẩn, Liên Xô đồng ý viện trợ 3 tỉ đôla từ 1976 đến 80.
TQ hẳn cũng để ý lời ngợi ca dạt dào dành cho Liên Xô trong tuyên bố chung cuối chuyến thăm của lãnh đạo VN. Đáng nói, tuyên bố chung ủng hộ chính sách hòa hoãn (detente) của Liên Xô, vốn bị TQ chống đối.
Một bước ngoặt quan trọng trong quan hệ Việt - Xô là Đại hội Đảng Lao động Việt Nam lần Bốn tháng 12.1976. Những nhân vật gắn bó với TQ bị cô lập. Hoàng Văn Hoan, Ủy viên Bộ Chính trị từ 1956 và Đại sứ ở TQ từ 1950-57, mất hết chức vụ trong đảng. Ba cựu đại sứ tại TQ cũng mất chức Ủy viên Dự khuyết Trung ương Đảng.
Ngày 7.6.1977, Thủ tướng Phạm Văn Đồng ghé Bắc Kinh trước lúc sang Moscow. Khi gặp Phó Thủ tướng Lý Tiên Niệm hôm 10.6, hai bên thẳng thắn bàn nhiều chủ đề, kể cả cáo buộc một số viên chức VN có tuyên bố chống Tàu, bất đồng về biên giới đất liền và biển, và sự ngược đãi người Hoa ở VN. TQ nói họ vẫn sẵn sang cho việc cải thiện quan hệ.
Hơn ba tuần sau, Lê Thanh Nghị thăm Moscow để ký nhiều thỏa thuận kinh tế. Trên đường về, ông ghé Bắc Kinh nhưng không tìm thêm được gói kinh tế nào.
Ngày 30.7.1977, hai tuần sau khi VN và Lào ký hiệp ước đồng minh, Ngoại trưởng TQ Hoàng Hoa có bài diễn văn nhắc nhiều tới sự nguy hiểm của "chủ nghĩa xét lại Sô Viết", và công khai cảnh cáo VN về hậu quả của một cuộc xâm lấn Campuchia.
Vấn đề Campuchia
Càng lúc Campuchia càng trở thành trường đấu cho xung đột Xô - Trung và Việt - Trung. TQ kiên quyết chính sách bảo đảm sự tồn tại của một Campuchia độc lập, cai trị bởi chính thể Khmer Đỏ thân cận với TQ.
Những người cộng sản TQ xem quan hệ với cộng sản Việt Nam chủ yếu qua lăng kính của mâu thuẫn Xô – Trung
Cuối tháng Chín 1977, xung đột nổ ra tại biên giới VN - Campuchia, cùng với nó là sự xấu đi trong quan hệ Việt - Trung. Lê Duẩn thăm Bắc Kinh tháng 11.1977, muốn có thêm viện trợ kinh tế.
Nhưng lấy cớ gặp khó khăn mấy năm qua, TQ cho hay họ không thể cấp viện trợ. VN cũng không làm bữa tiệc đãi chủ nhà như thông lệ. Ngày hôm sau, Tân Hoa xã đăng bài lên án COMECON, khối tương trợ kinh tế Sô Viết mà VN mới nộp đơn gia nhập.
Sau chuyến thăm của Lê Duẩn, TQ bày tỏ sự gắn bó với Campuchia. Ngày 3.12.1977, Phó Thủ tướng TQ Trần Vĩnh Quý dẫn phái đoàn tới Campuchia. Không lâu sau đó, các đợt đánh phá của Khmer Đỏ vào VN khiến VN mở cuộc tấn công lớn.
Đến ngày 18.1.1978, để chứng tỏ cam kết bảo vệ, quả phụ của Chu Ân Lai, Đặng Dĩnh Siêu, thăm Phnom Penh.
TQ thấy có bàn tay của Liên Xô đằng sau hành động của VN. Trong lúc xảy ra các va chạm ở biên giới Việt - Cambodia, ngày 19.1.1978, Tân Hoa xã khẳng định Moscow hy vọng lợi dụng thù địch giữa VN và Campuchia để tăng ảnh hưởng ở Đông Á.
Tại hội nghị của Đảng tháng Hai 1978, Hà Nội quyết định đánh tư sản mại bản ở miền Nam. Ngày 23.3, Hà Nội loan báo quốc hữu hoa toàn bộ doanh nghiệp tư.
Trong một chiến dịch dùng bạo lực, đến giữa tháng Tư, chính quyền đã thu gom hơn 30.000 doanh nghiệp tư ở miền Nam, mà đa số do người Hoa sở hữu. Nó đã tạo ra cuộc trốn chạy lớn cả ở biên giới Việt - Trung phía bắc và ra đến Biển Đông.
Ngày 30.4, Bắc Kinh chính thức có tuyên bố, bày tỏ lo ngại cho người tị nạn và nói họ đang theo dõi tình hình. Cùng ngày hôm đó, đảo chính ở Afghanistan đã đưa lãnh đạo thân Xô, Nur Mohammed Taraki, lên nắm quyền. Nó được VN thừa nhận ngày 3.5.
Nhìn từ Bắc Kinh, đây là thêm một bước bao vây của Liên Xô. Ngày 26.5, TQ loan báo gửi tàu đến VN để đón về những người Hoa đang trốn chạy. Ngày 7.6, Đặng Tiểu Bình nói thẳng "VN đang ngả về Liên Xô, kẻ thù của TQ."
Ngày 16.6, TQ loan báo sẽ đóng cửa tòa lãnh sự ở TP. HCM và lãnh sự quán VN ở Quảng Châu, Côn Minh và Nam Ninh.
Tháng Sáu năm đó, VN chính thức gia nhập COMECON. Ngày 3.7, Bắc Kinh dừng mọi viện trợ cho Hà Nội. Hội đàm song phương về người Hoa cũng bế tắc.
VN quyết tâm chống lại cố gắng hạn chế ảnh hưởng của họ tại Campuchia. Trong một cuộc gặp tại Hà Nội giữa Lê Duẩn và đại sứ Nga, ông Duẩn bày tỏ ý định "giải quyết cho xong vấn đề [Campuchia] trước đầu năm 1979." Hiệp ước Việt - Xô được ký ngày 3.11.1978.
Phản ứng của TQ là chuẩn bị tâm lý cho quốc tế cho một đáp trả mạnh mẽ chống lại trục Hà Nội - Moscow.
TQ tìm cách thắt chặt quan hệ với Nhật và ASEAN. Đặng Tiểu Bình thăm Tokyo tháng Tám 1978, ký hiệp định hữu nghị và hòa bình. Đáng chú ý, nó có đoạn "chống sự độc bá" mà được xem là nhắm vào Liên Xô.
Rồi đến tháng 11, sau khi Thứ trưởng Ngoại giao VN Phan Hiền (tháng Bảy) và Thủ tướng Phạm Văn Đồng (tháng Chín) thăm Đông Nam Á, Đặng Tiểu Bình cũng công du Malaysia, Singapore, Thái Lan.
Sau khi đã mở màn công tác ngoại giao, Trung Quốc bày tỏ thái độ cứng rắn với VN. Bức điện Bắc Kinh gửi Hà Nội ngày 13.12 cảnh báo "sự kiên nhẫn và kiềm chế của TQ có giới hạn".
Ngày 25.12.1978, quân VN bắt đầu đánh Campuchia. TQ phản ứng bằng cách lên kế hoạch cho cuộc chiến biên giới. Trong khi đi thăm Mỹ, Đặng Tiểu Bình thông báo cho chính quyền Carter rằng VN sẽ trả giá.
Theo Cố vấn An ninh của Tổng thống Carter, Zbigniew Brzezinski, Đặng nói với chủ nhà rằng TQ "xem là điều cần thiết khi kiềm hãm tham vọng của VN và cho chúng bài học hạn chế thích hợp".
Đúng như lời Đặng, ngay sau khi ông trở về nhà, TQ mở cuộc chiến chống VN trong tháng Hai và Ba 1979. Các cựu "đồng chí và anh em" (lời của Hồ Chí Minh) nay hóa ra là kẻ thù.
Về tác giả:Ông Nicholas Khoo lấy bằng tiến sĩ ở Đại học Columbia, Mỹ với luận án về quan hệ giữa Trung Quốc với Liên Xô và Việt Nam thời Chiến tranh Lạnh. Quyển sách của ông, dựa trên luận án, dự kiến sẽ được NXB ĐH Columbia in. Ông hiện dạy tại ĐH Liverpool, Anh.
http://www.bbc.com/vietnamese/vietnam/2009/02/090225_soviet_factor_tc2
Cập nhật: 10:09 GMT - chủ nhật, 27 tháng 12, 2009
Chiến tranh lạnh
Chủ biên ngoại giao của BBC, Brian Hanrahan nhìn lại di sản của biến cố 1989 - vốn tác động đến cuộc sống của nhiều người trong 20 năm qua - từ những thay đổi ở Đông Âu cho đến cuộc Chiến tranh lạnh không còn nữa.
Các nhân viên mật vụ lạnh lùng của KGB dán mắt vào màn ảnh nhỏ. Trên lầu, Tổng thống Hoa Kỳ Ronald Reagan và Chủ tịch Liên Xô Mikhail Gorbachev đang giải quyết sự đối đầu giữa hai cường quốc.Các nhân viên mật vụ có nhiệm vụ bảo vệ ông Gorbachev cũng đang xem một sự đối đầu, nhưng là trong phim hoạt hình giữa mèo Tom và chuột Jerry.
Sau lưng họ, khói bắt đầu bốc lên từ chiếc thùng rác nhỏ mà một người trong số họ đã búng tàn thuốc vào, nhưng mọi người bị hấp dẫn bởi đoạn phim hoạt hình của phương Tây, không ai để ý.
Tòa nhà bằng gỗ đã bị thiêu rụi nếu như một nhân viên quản lý người Iceland không thính mũi, bất chấp luật lệ ngoại giao, chạy vào dập tắt ngọn lửa.
Thế là tòa nhà Hofti và hội nghị thượng đỉnh Reykjavik tháng 10 năm 1986 thoát hiểm. Hoa Kỳ và Liên Xô đang trên đường chấm dứt cuộc Chiến tranh lạnh.
Một câu chuyện bên lề khác là đường dây điện thoại trực tiếp nối với Moscow.
Sau khi ông Gorbachev làm cho mọi người bất ngờ với những đề nghị cắt giảm vũ khí, ông Reagan cũng tìm cách đáp lại trước sự quan ngại của các phụ tá vì những đề nghị của ông chưa hề được thông qua với các cố vấn của tổng thống.
Chôn ngoài biển
Ông Gorbachev bước ra gọi cho Moscow rồi lắc đầu khi quay lại. Khi ấy là một Tổng Bí thư tương đối mới nên ông không thể tự đưa ra quyết định mà phải hỏi qua Bộ Chính trị.
Nhưng nếu quay nhanh đến hội nghị thượng đỉnh Malta ba năm sau đó, chúng ta thấy một Gorbachev tự tin hơn nhiều.
Tháng 12 năm 1989, ông đồng ý với Tổng thống George Bush, chuyển từ đối đầu sang hợp tác.
Cuộc Chiến tranh lạnh chấm dứt theo lời phát ngôn nhân của ông Gorbachev là "đã bị chôn vùi dưới đáy Địa Trung Hải".
Trong suốt năm 1989 đã có hai tiến trình riêng biệt, nhưng cả hai đều nhờ vào những cải cách của ông Gorbachev.
Một là Liên Xô thôi kiểm soát Đông Âu - một niềm vui bùng nổ và tít giật gân cho mọi người liên quan.
Hai là một cuộc cách mạng trầm lặng hơn trong quan hệ giữa Đông và Tây - sự phai nhạt dần của những đối đầu ý thức hệ mà trong bốn thập niên liền đe dọa thế giới với nguy cơ chiến tranh hạt nhân.
"Chúng tôi không biết chắc là Chiến tranh lạnh có kết thúc khi Bức tường Bá Linh sụp đổ hay không," ông James Baker, Ngoại trưởng Mỹ tại hội nghị thượng đỉnh Malta nói.
"Và đó là lý do tại sao Tổng thống Bush đúng khi không chịu 'nhảy múa trên bức tường' theo như nhiều người muốn."
Ông baker giải thích ''bằng cách không xát muối vào vết thương", Tổng thống Bush đã tạo điều kiện giúp ông Gorbachev không phải sử dụng vũ lực để bảo vệ khối Xô Viết.
"Ông ấy đúng. Chúng ta có quá nhiều chuyện chưa giải quyết xong với họ,'' ông Baker nói.
Ông Gorbachev đã hé mở một cánh cửa mới - cho một thế giới an bình hơn. Nhưng phương Tây lo sợ cánh cửa ấy sẽ đóng sập lại nếu ông Gorbachev bị lật đổ.
Cay đắng
Những năm sau đó là sự giằng co giữa cánh bảo thủ và những người chuộng cải cách trong giới lãnh đạo Xô Viết.
Ông Gorbachev vất vả giữ cho mình được quân bình khi những thay đổi đã diễn ra ở Đông Âu bắt đầu lan qua Liên Xô.
Ngoại trưởng Anh lúc bấy giờ, Lord Hurd, nói: "Đó là điều không tránh khỏi. Ông Gorbachev không thể thực hiện những thay đổi đó, những sự nhân nhượng, mà không bị chỉ trích và tranh cãi quyết liệt."
Tôi là người sáng lập ra Ukraine - trong lịch sử. Yeltsin là người sáng lập ra nước Nga mới - trong lịch sử. Và Gorbachev đã không sáng lập ra một liên minh mới mà hủy diệt nó đi.
Leonid Kravchuk
"Đó là những nơi Liên Xô đã phải đổ máu để giành lấy," Lord Hurd nói. "Đó là những nơi đầy ký ức và nghĩa trang. Không thể nào từ bỏ những nơi ấy mà không có sự cay đắng."
Dù ông Gorbachev mất dần quyền lực, nhưng ông đã cản được những người cứng rắn quay lại với sự đàn áp, vốn là một đặc tính của chế độ cộng sản.
Không có trại cải tạo và thỉnh thoảng những vụ thảm sát, hệ thống này không thể tự tồn tại.
Những người cứng rắn đi đến nhận định đúng đắn đó là, điều đang bị đe dọa chính là sự sống còn của đất nước.
Nhưng đến lúc đó họ không còn làm gì được nữa với ông Gorbachev.
Đảng Cộng sản không còn là trung tâm quyền lực vốn giữ đất nước thành một khối.
Cuộc đảo chính của họ vào tháng Tám 1991 đã bị các nhà cải cách dưới quyền tân lãnh đạo Nga, Boris Yeltsin, hóa giải dễ dàng.
Những gì xảy ra sau đó là một mâm cỗ miễn phí khi lãnh đạo các nước thuộc Liên Xô đứng lên giành quyền lực cho chính mình.
Theo ông Leonid Kravchuk, người trở thành Tổng thống Ukraine, ông Yeltsin ban đầu muốn gìn giữ Liên Xô và thay thế cho ông Gorbachev.
Nhưng khi ông Kravchuk cương quyết đòi độc lập cho Ukraine thì ông Yeltsin đổi qua ý tưởng tách Liên Xô ra thành nhiều nước.
Đó là quyết định vẫn đang giày vò nhiều người Nga.
Hầu hết những khó khăn khi quan hệ với Nga trong hai thập niên qua là hình bóng cường quốc mà họ tự tạo nên vốn phải ưu việt hơn các nước lánh giềng. Nhưng với các nước mới độc lập, muốn ở gần Nga đến đâu là quyền của họ.
Ông Kravchuk, người nói chính ông đã đẩy Nga vào vị thế đó, là một người cựu cộng sản nhưng tái sinh làm một người theo chủ nghĩa dân tộc.
"Ông nhìn thất thần. Với ông ấy, và cũng như mọi người khác, nó bất ngờ quá."
Ông tin rằng ông Gorbachev không biết trước được lịch sử diễn tiến thế nào, nhưng ông sẽ bị lịch sử lên án.
"Tôi nghĩ lịch sử không nhớ đến Gorbachev như một nhà sáng lập, mà là người đã hủy hoại Liên Xô vì đó là điều ông ấy đã làm," ông Kravchuk nói.
"Tôi là người sáng lập ra Ukraine - trong lịch sử. Yeltsin là người sáng lập ra nước Nga mới - trong lịch sử. Và Gorbachev đã không sáng lập ra một liên minh mới mà hủy diệt nó đi."
Chờ qua Giáng sinh
Nhưng bên ngoài Liên Xô cũ, người ta có cách đánh giá khác về ông Gorbachev. Lord Hurd nghĩ rằng ông Gorbachev biết rõ ông làm gì.
"Chúng ta mang nợ rất lớn với ông Gorbachev. Ông ấy đổi mới, và cuối cùng giúp làm sụp đổ một thể chế, một sự đối đầu với chúng ta, vốn làm tê liệt thế giới này về nhiều mặt trong cả một thế hệ.
"Và ông ấy làm như vậy với lòng dũng cảm và nhận định của riêng ông là một thể chế như vậy không thể kéo dài."
Ông Gorbachev đã có một nhân nhượng để giành một chỗ đứng trong lịch sử. Ban đầu ông đã có ý định từ bỏ chức Chủ tịch Liên Xô vào ngày 24 tháng 12 năm 1991.
Nhưng phụ tá báo chí của ông, Andrei Grachev, nhắc ông rằng tại hầu hết các nơi khác trên thế giới, hôm sau, 25, là ngày lễ Giáng sinh, các tòa soạn báo đều nghỉ không ai đưa tin lúc ông ra đi.
Nhờ vậy mà Liên Xô - một nước vô thần - đã tồn tại thêm được một ngày.
http://www.bbc.com/vietnamese/world/2009/12/091227_howcoldwarended
Geen opmerkingen:
Een reactie posten