maandag 24 augustus 2020

Việt Nam : Nắm cơ hội, sửa điểm yếu để thu hút doanh nghiệp rời Trung Quốc

 

Việt Nam : Nắm cơ hội, sửa điểm yếu để thu hút doanh nghiệp rời Trung Quốc

Phần âm thanh 09:37
Nhà máy Vsmart sản xuất máy trợ thở, thuộc tập đoàn Vingroup, ngoại ô Hà Nội, Việt Nam. Ảnh minh họa chụp ngày 03/08/2020.
Nhà máy Vsmart sản xuất máy trợ thở, thuộc tập đoàn Vingroup, ngoại ô Hà Nội, Việt Nam. Ảnh minh họa chụp ngày 03/08/2020. REUTERS - KHAM
Thu Hằng

Việt Nam được cho là một địa điểm lý tưởng đối với các doanh nghiệp di dời hoạt động sản xuất ra khỏi Trung Quốc sau khi cả thế giới chứng kiến cảnh chờ được phân phối thiết bị y tế, hay nẫng tay trên khẩu trang của nhau ngay trên đường băng ở Trung Quốc trong đợt dịch Covid-19, và tiếp theo là chiến dịch “ngoại giao khẩu trang” như ban ơn của Bắc Kinh.Việt Nam có thể khai thác được lợi thế gì và phải cải thiện những điểm nào để có thể đáp ứng được nhu cầu ngày càng lớn, cũng như thu hút thêm đầu tư trực tiếp của nước ngoài ? RFI Tiếng Việt phỏng vấn giáo sư Eric Mottet, Viện Quan hệ Quốc tế, đại học Québec ở Montréal (UQAM), Canada.

Hàng loạt quốc gia khuyến khích doanh nghiệp của họ chuyển hoạt động về nước hoặc đa dạng hóa chuỗi cung ứng. Đầu tháng 08/2020, Samsung đóng cửa nhà máy sản xuất máy tính và điện thoại di động cuối cùng ở Trung Quốc và chuyển sang Việt Nam. Tương tự, hai tập đoàn tin học Đài Loan Pegatron và Inventec dự kiến mở nhiều nhà máy, Google tính sản xuất điện thoại thông minh giá rẻ, Microsoft sản xuất máy tính xách tay, Apple cũng có kế hoạch mở rộng hoạt động tại Việt Nam, 15 trên 30 doanh nghiệp Nhật Bản được hỗ trợ chi phí để ra khỏi Trung Quốc, đã chọn chuyển sang Việt Nam, tập trung chủ yếu vào sản xuất dụng cụ y tế…

Giáo sư Eric Mottet, Viện Quan hệ Quốc tế, đại học Québec ở Montréal (UQAM), Canada.
Giáo sư Eric Mottet, Viện Quan hệ Quốc tế, đại học Québec ở Montréal (UQAM), Canada. © RFI Tiếng Việt / Eric Mottet

RFI : Dịch Covid-19 vừa cho thấy thế giới phụ thuộc quá lớn vào “công xưởng” Trung Quốc. Điều này dường như thúc đẩy nhiều doanh nghiệp quốc tế chuyển sản xuất từ Trung Quốc sang các nước lân cận, trong đó có Việt Nam. Xin giáo sư cho biết, so với Trung Quốc và các nước trong ASEAN, Việt Nam có tiềm năng gì ?

G.S. Eric Mottet : Việc nhiều nhà máy châu Á, kể cả Trung Quốc, chuyển sang Việt Nam không phải là hiện tượng mới. Ngay đầu những năm 2010, nhiều nhà máy của Hàn Quốc và Đài Loan và một số nhà máy của Trung Quốc đã chuyển cơ sở đến Việt Nam. Nhưng hiện tượng này tăng tốc từ năm 2018 khi cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung bắt đầu và ngày càng gia tăng từ năm 2020 trong đợt dịch Covid-19. Chúng ta thấy các chuỗi sản xuất đang được tổ chức lại tại Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam.

Hiện tại, sau Singapore, Việt Nam là nước thu hút vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài nhiều nhất ở Đông Nam Á, cao hơn các nước Malaysia, Indonesia hoặc Thái Lan. Vốn đầu tư vào Việt Nam chủ yếu đến từ Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc và giờ đến lượt các công ty Mỹ vì các doanh nghiệp này bắt đầu rời Trung Quốc và chuyển đến Việt Nam.

Vậy Việt Nam có những lợi thế và tiềm năng gì để các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào ? Chúng ta đều biết những yếu tố thuận lợi đầu tiên như lực lượng lao động trẻ và đông đảo, giá nhân công trung bình thấp hơn 2 đến 3 lần so với Trung Quốc. Ngoài ra, Việt Nam còn có nền kinh tế phát triển mạnh và là một trong những nước có tăng trưởng cao nhất trong vùng. Theo thẩm định, bất chấp đại dịch Covid-19, GDP của Việt Nam tăng 2-3%. Đây là một tỉ lệ đáng kể vì có rất ít nước trên thế giới có thể đạt mức tăng trưởng dương trong năm 2020.

Việt Nam cũng là nước có thị trường nội địa với tiềm năng lớn. Chính vì thế, tất cả các doanh nghiệp chuyển từ Trung Quốc sang Việt Nam đều hy vọng chinh phục được thị trường có 100 triệu dân, hiện vẫn chưa phát triển nhiều.

Một yếu tố khác, rất quan trọng, đó là Việt Nam đã ký hàng loạt hiệp định thương mại, xóa bỏ thuế quan, tạo điều kiện thuận lợi cho trao đổi thương mại với nhiều nước, như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) được ký năm 2018, Hiệp định Thương mại Tự do (EVFTA) với Liên Hiệp Châu Âu bắt đầu có hiệu lực từ tháng 08/2020. Ngoài ra còn phải kể đến sự hỗ tương giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, nhiều thỏa thuận với Nhật Bản hoặc với Hàn Quốc đang được đàm phán.

Có thể nói Việt Nam có nền kinh tế rất mở. Theo tôi, Việt Nam có thể tận dụng được cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung và có tiềm năng phát triển rất lớn ở Đông Nam Á.

RFI : Dịch Covid-19 đã đẩy cơ hội đến với Việt Nam nhanh hơn nhưng cũng có phần đột ngột. Liệu Việt Nam đã sẵn sàng để nắm bắt thời cơ này chưa ? Hà Nội phải đáp ứng những thách thức về cơ sở hạ tầng, chính trị, quy định về điều kiện lao động nào ?

Eric Mottet : Điều mà cuộc khủng hoảng dịch Covid-19 cho thấy rõ, đó là các nước phương Tây phụ thuộc quá lớn vào Trung Quốc. Vì thế, chúng ta thấy hiện nay Hoa Kỳ và Nhật Bản khuyến khích các doanh nghiệp của họ rời Trung Quốc sang những nước khác, trong đó có Việt Nam. Hà Nội có rất nhiều cơ hội lớn và chính phủ hiểu rõ điều này.

Theo tôi, cơ hội mà Việt Nam có thể và sẽ nắm lấy, đó là trở thành nước đi đầu trong lĩnh vực sản xuất dụng cụ bảo hộ cá nhân, như khẩu trang, găng tay và các kiểu dụng cụ bảo hộ y tế. Việt Nam đã không lầm về điểm này : Chính phủ vừa mới thông báo kế hoạch phát triển ngành công nghiệp y tế, chăm sóc sức khỏe, tầm nhìn đến năm 2030. Dĩ nhiên mục đích là tăng xuất khẩu, nhưng cũng nhằm cải thiện nhu cầu ở trong nước.

Việt Nam có một mục tiêu rất rõ, được hình thành từ khi xảy ra dịch Covid-19, đó là biến sản xuất dụng cụ y tế thành một trong ba trụ cột của nền kinh tế Việt Nam ; hai lĩnh vực khác là ô tô và điện tử với hàng loạt tập đoàn lớn như Samsung, LG… sản xuất tại Việt Nam. Và Việt Nam có tham vọng trở thành một nhà sản xuất lớn, một giải pháp thay thế cho tất cả những gì liên quan đến dụng cụ y tế.

Tuy nhiên, vẫn có một số điểm nhỏ mà Việt Nam còn phải hoàn thiện. Cần nhắc lại là có khoảng 200 doanh nghiệp sản xuất dụng cụ y tế ở Việt Nam nhưng đó là những doanh nghiệp nhỏ, bị phân tán và điều này đặt ra vấn đề về khâu kiểm soát chất lượng vì dụng cụ y tế phải chịu rất nhiều quy định nghiêm ngặt, rất khó được cấp giấy chứng nhận, đặc biệt là nếu muốn xuất khẩu sang Liên Hiệp Châu Âu hoặc Hoa Kỳ. Đây là điểm đầu tiên cần phải lưu ý. Có nghĩa là phải có dây chuyền sản xuất đạt chất lượng cao hoặc phải cải thiện chất lượng để có thể xuất khẩu được loại mặt hàng đặc biệt này.

Tiếp theo, một số vấn đề vẫn tồn tại ở Việt Nam, đó là thiếu hạ tầng giao thông, thiếu công trình cảng biển để chuyên chở hàng ra khắp thế giới. Ví dụ, hiện tại giá vận chuyển một container từ Hà Nội hay thành phố Hồ Chí Minh sang một nước nào đó trên thế giới cao gấp 2 đến 3 lần so với giá xuất một container tương tự từ Trung Quốc.

Ngoài ra còn phải nhắc đến vấn đề về năng lượng. Nếu họ muốn xây dựng các nhà máy sản xuất dụng cụ y tế quy mô lớn thì phải giải quyết được vấn đề thiếu năng lượng vẫn xảy ra ở Việt Nam và phải có được một chính sách năng lượng thực sự mà hiện vẫn còn thiếu.  

Cuối cùng, chúng ta biết một số vấn đề khác ở Việt Nam, như tình trạng thiếu minh bạch, tham nhũng, hệ thống ngân hàng thiếu vững chắc… Đúng là Việt Nam hiện có một cơ hội rất lớn để thay thế Trung Quốc ở một số lĩnh vực kinh tế nhưng cũng còn nhiều vấn đề và trở ngại mà nước này phải vượt qua.

RFI : Đợt Covid-19 thứ hai ở Việt Nam lan rộng hơn và gây chết người hơn so với đợt thứ nhất. Liệu đây có phải là một trở ngại trong khi Việt Nam được coi là một điểm đến đáng tin cậy sau khi khống chế thành công đợt dịch đầu ?

Eric Mottet : Có điều thú vị là cả thế giới theo dõi cách xử lý dịch của Việt Nam và nhận thấy rằng chính phủ Việt Nam đã chuẩn bị rất kỹ để phòng ngừa Covid-19 vì đất nước đã có kinh nghiệm xử lý dịch SARS năm 2003. Chúng ta cũng thấy là chính phủ đã phản ứng rất nhanh chóng : ngay từ tháng Hai, ngừng tất cả các chuyến bay với Trung Quốc, đóng cửa trường học, đóng cửa biên giới với Trung Quốc và các nước láng giềng, triển khai hệ thống truy vết mọi tiếp xúc với người nhiễm Covid-19, áp dụng cách ly nghiêm ngặt. Nhờ đó, đợt dịch thứ nhất đã được xử lý rất tốt.

Nhưng đợt dịch thứ nhất cũng đặt ra một vấn đề : Chính phủ Việt Nam đã phản ứng quá nhanh, kể cả việc gần như đóng cửa hoàn toàn đất nước và điều này gây thiệt hại vô cùng lớn cho nền kinh tế. Trước khi xảy ra dịch Covid-19, Việt Nam hướng đến tăng trưởng khoảng 7% cho năm 2020 và hiện giờ kỳ vọng vào khoảng 2-3% nếu mọi chuyện ổn thỏa.

Nếu xảy ra đợt dịch thứ hai, tôi cho rằng chính phủ sẽ phản ứng bớt kịch liệt hơn, bớt nghiêm ngặt hơn và sẽ áp dụng biện pháp đóng cửa có chủ đích, cũng như làm mọi cách để duy trì hoạt động kinh tế. Tôi nghĩ là Việt Nam sẽ không lặp lại những sai lầm như trong đợt dịch thứ nhất, có nghĩa là sẽ áp dụng phong tỏa và giãn cách xã hội, vẫn nghiêm ngặt nhưng cục bộ, mà không tác động đến cả nước. Theo tôi, về mặt kinh tế, Việt Nam sẽ vượt qua nếu xảy ra một đợt dịch nghiêm trọng thứ hai ở trong nước.

RFI : Việt Nam ghi nhận thặng dư thương mại với Mỹ từ nhiều năm nay. Liệu việc các doanh nghiệp chuyển sang Việt Nam có thể sẽ là một nguồn để Washington gây sức ép thương mại với Hà Nội ?

Eric Mottet : Chúng ta thấy là thặng dư thương mại của Việt Nam với Mỹ rất là lớn. Việt Nam là nguồn thâm hụt thương mại lớn thứ hai của Mỹ ở châu Á và thứ 6 trên thế giới. Nếu cộng dồn, tổng thâm hụt tương đương khoảng 350 tỉ đô la, một khoản rất lớn. Chỉ tính riêng năm 2019, thâm hụt thương mại của Mỹ với Việt Nam đã là 56 tỉ đô la.

Cả Hà Nội lẫn Washington đều quan ngại. Đúng là có thể nói thặng dư thương mại của Việt Nam với Mỹ có thể gây rủi ro về chính trị cho Hà Nội. Điểm này được bộ Ngân Khố Hoa Kỳ xác nhận. Cứ 6 tháng một lần, cơ quan này lại làm báo cáo tổng kết và theo dõi những nước mà Mỹ bị thâm hụt thương mại. Bộ Ngân Khố Mỹ cũng giám sát xem những nước đó có thao túng tỉ giá hối đoái và tiền tệ nhằm tăng khả năng cạnh tranh xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ. Và gần đây, Việt Nam đã bị nêu trong bản báo cáo của bộ Ngân Khố Hoa Kỳ.

Vì thế, một số người cho rằng sau Trung Quốc, có thể Việt Nam sẽ bị chính quyền Trump nhắm đến, ví dụ như lập hàng rào thuế quan, hoặc trừng phạt thuế… May mắn là hiện chưa có gì xảy ra mà ngược lại, nếu nhìn vào những tuyên bố, hay đúng hơn là những tin nhắn trên Twitter, của tổng thống Donald Trump, thì tạm thời Việt Nam chưa bị nhắm đến : thâm hụt thương mại của Mỹ với Việt Nam chưa phải là một vấn đề. Ngược lại, Việt Nam được coi là một nước cần quan tâm trong cuộc chiến chống Trung Quốc. Tại vì tổng thống Trump vẫn cho rằng việc rất nhiều doanh nghiệp Trung Quốc  rời Trung Quốc sang Việt Nam là một điểm tốt, đặc biệt trong bối cảnh chiến tranh thương mại với Bắc Kinh.

Nói tóm lại, tạm thời đây chưa phải là mối bận tâm cho chính phủ Việt Nam nhưng có lẽ không để thặng dư thương mại với Hoa Kỳ lên thành 400, 500 hay 600 tỉ đô la vì điều đó sẽ gây rắc rối cho chính quyền Việt Nam.

RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn giáo sư Eric Mottet, Viện Quan hệ Quốc tế, đại học Québec ở Montréal (UQAM), Canada.

https://www.rfi.fr/vi/vi%E1%BB%87t-nam/20200824-vi%E1%BB%87t-nam-n%E1%BA%AFm-c%C6%A1-h%E1%BB%99i-s%E1%BB%ADa-%C4%91i%E1%BB%83m-y%E1%BA%BFu-%C4%91%E1%BB%83-thu-h%C3%BAt-doanh-nghi%E1%BB%87p-r%E1%BB%9Di-trung-qu%E1%BB%91c

Geen opmerkingen:

Een reactie posten