vrijdag 9 oktober 2015

nhà văn nữ Bélarus Svetlana Alexievitch lãnh Giải Nobel Văn học 2015

Svetlana Alexievitch, Nobel Văn học 2015

mediaSvetlana Alexievitch tại Minsk. Ảnh ngày 08/10/2015Reuters
Viện Hàn Lâm Thụy Điển vinh danh một nhà văn, một nhà báo với những tác phẩm « mang đầy âm sắc, một tượng đài của nỗi đau và lòng dũng cảm trong thời đại của chúng ta ». Svetlana Alexievitch, 67 tuổi, vừa trở thành nhà văn nữ thứ 14 đoạt giải Nobel Văn học.
Trong buổi công bố về danh tính khôi nguyên Nobel Văn học 2015 Viện Hàn Lâm Thụy Điển giải thích : ban giám khảo dành tặng giải thưởng cao quý này cho một « nhà văn lớn đã khai mở những con đường mới trong văn học ».
Vào lúc tên tuổi của Svetlana Alexievitch được ủy ban Nobel xướng lên vào trưa nay, 08/10/2015 thì tại Bélarus, ngay trên quê hương bà, Svetlana Alexievitch vẫn bị kiểm duyệt.
Sveltana Alexievitch là tác giả của những Voices from Chernobyl: The Oral History of a Nuclear Disaster, Quan tài Kẽm, Zinky Boys : Soviet Voices from the Afghanistan War- Zinky boys: Soviet voices from a forgotten war-  trong đó tác giả nói về mặt trái của chiến tranh Afghanistan, một cuộc chiến và những thân phận bị lãng quên.
Sinh năm 1948 tại miền Tây Ukraina, Svetlana Alexievitch tốt nghiệp trường báo chí đại học Minsk và bắt đầu sự nghiệp vào những năm 1970, làm việc cho tờ báo Selskaia. Chính trong vai trò của một phóng viên, bà đã có dịp gặp gỡ để ghi lại lời kể của những người đàn bà, nạn nhân hay nhân chứng trong chiến tranh. Từ đó Svetlana Alexievitch đã sáng tác The Unwomanly Face of War. Nhưng mãi tới năm 1985 tác phẩm đầu tay của bà mới được cho ấn bản. Tên tuổi của Svetlana Alexievitch đã nổi lên không chỉ ở Liên Xô mà còn tại nhiều quốc gia khác trên thế giới.
Sách của bà không đơn thuần là những cuối tiểu thuyết, mà chúng đều được viết dưới dạng tài liệu, căn cứ vào những trải nghiệm của những người trong cuộc.
Cuốn sách gây tiếng vang lớn của giải Nobel Văn học 2015 dành để nói về tại họa Chernobyl - Voices from Chernobyl: The Oral History of a Nuclear Disaster - Lời khẩn cầu từ Chernobyl tới nay vẫn bị cấm ở Bélarus.
Trước khi đoạt giải Nobel Văn học, Svetlana Alexievitch từng dành được nhiều giải thưởng lớn của văn đàn Châu Âu như giải Médecis của Pháp (2013) hay giải thưởng từ giới in ấn và phát hành sách của Đức.

http://vi.rfi.fr/quoc-te/20151008-svetlana-alexievitch-nobel-van-hoc-2015

Nobel Văn học 2014 : Patrick Modiano, ký ức của nhân loại

Nobel Văn học 2014 : Patrick Modiano, ký ức của nhân loại
 
Patrick Modiano họp báo tại Viện Hàn lâm Thụy Điển. Ngày 08/12/2014 - © Reuters


    Patrick Modiano là nhà văn thứ 15 của Pháp được Ủy ban Nobel vinh danh. Nước Pháp trong thời kỳ bị Đức Quốc Xã chiếm đóng, thân phận của những người Do Thái bị gắn ngôi sao sáu cánh màu vàng trên ngực áo, là những chủ đề nhà văn Patrick Modiano liên tục khai thác.

    Thế nhưng, nước Pháp trong dòng văn của Modiano có thể là bất kỳ một quốc gia nào từng bị xâm lược và mất tự do. Nghịch cảnh của những người Do Thái trong Đệ Nhị Thế Chiến cũng là hình ảnh và thân phận của bất kỳ một ai từng trải qua những mất mát, đau thương, trước những cái chết của người thân và đồng loại.
    Sau những tên tuổi như Mistral, Bergson, Gide, Mauriac, Camus ... hay Cao Hành Kiện, Le Clézio, đến lượt Patrick Modiano và người đồng hương là giáo sư kinh tế Jean Tirole đến Stockholm nhận giải thưởng từ tay nhà vua Thụy Điển Carl Gustaf XVI. Theo thông lệ, tất cả các giải Nobel đều được trao tặng cho các khôi nguyên đúng vào ngày 10 tháng 12 hàng năm, tức vào ngày giỗ của nhà phát minh ra thuốc nổ Alfred Nobel.
    Sáng tác giỏi nhưng lại kém tài ăn nói
    Trước hết đây là một sự bất ngờ, là điều tôi không chờ đợi. Tôi hoàn toàn không nghĩ là mình sẽ được nhận vinh dự đó …”. Phát biểu hôm 09/10/2014 ngay sau khi được Hàn lâm viện Thụy Điển liên lạc và thông báo kết quả bình chọn của Ủy ban Nobel, tác giả Patrick Modiano với phong cách quen thuộc, đã cho biết cảm nghĩ của ông như trên.
    Sau gần một nửa thế kỷ đứng vững trên văn đàn Pháp và đã rất nhiều lần trả lời phỏng vấn báo chí, Modiano luôn là một người kém tài ăn nói. Với sự xúc động, và khi các ống kính của các đài truyền hình trên thế giới đều hướng cả về ông, nhược điểm đó lại càng tăng lên gấp bội.
    Trong cuộc họp báo ở nhà xuất bản Gallimard, quận 7 Paris, vài giờ sau khi nhận được tin vui, Patrick Modiano bình tĩnh lại hơn và cho biết cảm nghĩ của mình :
    “Thật là xúc động khi ban giám khảo trao cho tôi giải Nobel. Nhưng điều tôi muốn biết – vì tôi chưa có thời gian để tìm hiểu- là động cơ nào đã khiến Hàn lâm viện Thụy Điển quan tâm đến sách của tôi. Bởi vì khi viết ra một cuốn sách, tôi không thể biết được tác động của nó đối với người đọc. Tôi muốn biết về nhữnglý do đã khiến Ủy ban Nobel dành cho tôi vinh dự này”.
    Thể nào tác giả của những quyển sách Dora Bruder, Rue des boutiques obscures - Phố những cửa hiệu u tối, L’Horizon - Chân trời, L'Herbe de nuit - Cỏ đêm, Voyage de noce - Tuần trăng mật … và gần đây nhất là Pour que tu ne te perdes pas dans le quartier – Để bạn không lạc lối trong phố - cũng sẽ tìm ra câu trả lời.
    Thông thường, ban giám khảo của Hàn lâm viện Thụy Điển luôn dành nhiều ưu ái cho các nhà văn dấn thân, những người cầm bút để bảo vệ công lý. Đó là trường hợp của nữ văn sĩ người Mỹ Toni Morrison, Nobel Văn học năm 1993 ; của nhà văn Thổ Nhĩ Kỳ, Orhan Pamuk (2006) hay của tác giả người Pháp, Jean Marie Gustave Le Clézio (2008).
    Ủy ban Nobel đôi khi cũng dùng giải thưởng cao quý này như một lá bùa hộ mạng để bảo vệ một số nhà văn bị đe dọa trên chính quê hương họ, như là điều từng xảy tới với tác giả của Bác sĩ Jivago, Boris Pasternak năm 1958.
    Khi công bố bảng vàng hôm 09/10/2014 Ủy ban Nobel đã giải thích : vinh danh tác giả người Pháp Patrick Modiano vì “nghệ thuật viết ký ức qua đó ông đã gợi lại số phận khó nắm bắt nhất của con người và bộc lộ được thế giới của thời nước Pháp bị Đức quốc xã chiếm đóng". Viện Hàn lâm Thụy Điển đã không ngần ngại mệnh danh Modiano là "Marcel Proust trong thời đại của chúng ta".

    REUTERS/Charles Platiau

    Kinh nghiệm bản thân, chất liệu sáng tác
    Patrick Modiano sinh năm 1945 tại Boulogne- Billancourt, ngoại thành Paris, chỉ ba tháng sau khi Đệ Nhị Thế Chiến vừa kết thúc. Dấu ấn của chiến tranh và thời kỳ bị Đức quốc xã chiếm đóng còn đậm nét. Năm 1968 khi đó mới 23 tuổi, Modiano cho ra mắt công chúng tiểu thuyết đầu tay La Place de L’Étoile - Quảng trường Ngôi sao, một địa danh nổi tiếng của thủ đô Paris, nhưng đó cũng là ngôi sao màu vàng trên ngực áo những người Do Thái.
    La Place de l’Étoile là viên gạch đầu tiên của một sự nghiệp cầm bút bền bỉ với rất nhiều giải thưởng quan trọng, như là giải Fénéon cho cuốn tiểu thuyết đầu tay; Giải thưởng lớn của Hàn lâm viện Pháp; Giải thưởng Goncourt năm 1978 cho cuốn Rue des Boutiques obscures - Phố những cửa hiệu u tối ; Giải thưởng văn học Jean Monnet và gần đây nhất là giải Nobel Văn học 2014.
    Khoảng 30 cuốn tiểu thuyết cùng tác giả đã nối đuôi nhau ra đời. Mỗi tác phẩm là một chương trong bản trường ca, về ký ức, về sự lãng quên, về tâm trạng mặc cảm tội lỗi, về một thành phố Paris thời kỳ bị chiếm đóng, về những thân phận trong thời chiến, về những cái chết của đồng loại, về những mất mát mà không gì bù đắp nổi, về tuổi thơ bị đánh mất.
    Patrick Modiano đã lấy những kinh nghiệm trong cuộc đời mình làm nguồn sáng tác bất tận. Sinh ra trong một gia đình, bố là người Do Thái, mẹ là một nghệ sĩ người Bỉ luôn bận rộn với các vòng lưu diễn. Patrick gần như một đứa con trẻ mồ côi : thi thoảng mới trông thấy bóng mẹ, một người “đàn bà xinh đẹp có trái tim khô cằn, mà ngay cả con chó kiểng của bà ta đã phải lao ra cửa sổ tự sát” – Un Pedigree (2005) .
    Còn thân phụ của giải Nobel Văn học 2014 là một người khéo xoay xở, sống bằng đủ mọi thứ nghề, từ cờ gian bạc lận, đến buôn lậu. Cuộc đời của thân phụ Patrick Modiano là một chuỗi dài bí hiểm đối với tác giả, là những “mảng tối” mà Modiano không thể giải mã hết nhưng ông đã tạo dựng nên những nhân vật lấy nguồn cảm hứng từ người cha. Tác giả từng tâm sự : ông viết để thử tìm cách giải đáp câu hỏi, vì sao người ta có thể phản bội đồng loại, cấu kết với kẻ thù. Những hành vi mờ ám của người cha, ám ảnh Patrick Modiano trong suốt sự nghiệp sáng tác của ông.
    Trong tác phẩm đầu tay, La Place de l’Étoile, Modiano đã tạo ra nhân vật chính Raphaël Schlemilovitch, một người Pháp, gốc Do Thái với nhiều bộ mặt khác nhau. Hắn đã đi đêm với kẻ thù, làm tay sai cho Đức quốc xã, làm giàu trên sự đau khổ của chính những người Do Thái.
    Về cái chết đột ngột của người em trai, Rudy, thua mình có hai tuổi, người bạn đồng hành duy nhất của tuổi thơ, Patrick Modiano cũng đã dành rất nhiều tác phẩm để nói về sự mất mát quá to lớn đó. Rudy chết đi khi Patrick Modiano vừa mới lên 10. Sau này khi đã thành danh, tác giả nhìn nhận : trong cuộc đời ông, chỉ có cậu em xấu số Rudy, người vợ và hai cô con gái của ông là thực. Cha mẹ ông là những "nhân vật chỉ có trong tiểu thuyết".
    Duyên nợ với văn chương
    Nhưng trong cái rủi bao giờ cũng có một chút may. Từ năm 15 tuổi, Patrick Modiano đã may mắn được một nhà văn nổi tiếng của Pháp đỡ đầu : Raymond Queneau. Thuở đó, mẹ của Modano là bạn thân với vợ của nhà văn Queneau. Queneau dậy kèm thêm toán cho Patrick Modiano và thường đón cậu thanh niên mới lớn này về nhà vào những ngày cuối tuần. Queneau khi đó là một trong những cột trụ của nhà xuất bản Gallimard và đã thành danh với những tác phẩm như Pierrot mon ami, Loin de Rueil
    Raymond Queneau thường xuyên đưa người bạn trẻ của mình đến trụ sở nhà xuất bản ở quận 7 Paris. Cho đến một hôm, Patrick Modiano đút bản thảo đầu tay của mình vào hộp thơ của Queneau với hàng chữ ngắn gọn nhờ ông đọc lại. Thế rồi, như chính Patrick Modiano đã kể lại : vào một buổi chiều tháng 6 năm 1967, Modiano hay tin Gallimard đồng ý xuất bản Quảng trường Ngôi sao. Trong quyển Un Pedigree, ông viết « Tối hôm đó, lần đầu tiên trong đời, tôi cảm thấy nhẹ nhàng. Mối đe dọa đè nặng lên đôi vai trong ngần ấy năm trời (…) bỗng chốc tan biến trong không khí của Paris. Thuyền tôi ra khơi trước khi bến mục ». 
    Ngày 12/09/1970 Patrick Modiano nhờ Raymond Queneau làm nhân chứng cho hôn lễ của mình. Bên nhà gái, nhân chứng của cô dâu Dominique Zehrfuss không ai khác ngoài André Malraux, tác giả của "Thân phận con người" - La Condition Humaine. Sau này đôi vợ chồng Modiano –Zehrfuss kể lại : trong ngày cưới họ đã say sưa theo dõi Malraux và Queneau cãi nhau về danh họa Jean Dubuffet.

    Nhà văn P. Modiano họp báo tại nhà xuất bản Gallimard ngày 09/10/2014REUTERS/Charles Platiau
    Hành trình đi tìm bản sắc
    Phải nói là nhờ sự dẫn dắt của Raymond Queneau mà cuốn sách đầu tay của Patrick Modiano đã dễ dàng được lọt vào mắt xanh của hội đồng duyệt bản thảo. La Place de l’Étoile được ra mắt công chúng vào năm 1968.
    Giới thiệu cuốn sách đầu tay của Patrick Modiano, nhà xuất bản Gallimard trích đoạn văn sau đây : « Vào tháng 6 năm 1942 một sĩ quan Đức tiến về phía một thanh niên vào hỏi : xin lỗi ông, quảng trường Ngôi sao nằm ở chỗ nào ? Anh thanh niên chỉ tay lên ngực trái ». Một cách ngắn ngủi, và khúc chiết, người kể chuyện trong La Place de l’Étoile đã đưa độc giả vào thế giới của Modiano : nơi vết thương của quá khứ không bao giờ lành.
    Không sống trong chiến tranh hay thời kỳ Paris bị Đức quốc xã chiếm đóng, nhưng đấy lại là cột sống của toàn bộ sự nghiệp văn chương của Modiano. Ký ức tập thể, nỗi ám ảnh cá nhân, những nhân chứng bất đắc dĩ, những vụ thủ tiêu, mất tích, thái độ bí hiểm của những tên mật vụ Pháp làm tay sai cho Đức quốc xã … đã được tác giả « tiểu thuyết hóa ». Modiano gần như đã biến mình thành một nhà khảo cổ, chắp nhặt từng thông tin, từng mảnh giấy khai sinh, khai tử, từ những bức ảnh đã hoen ố vì thời gian để hiểu được những gì mình đang sống hôm nay.
    Nhưng điều thú vị là nhà văn Patrick Modiano đưa độc giả của mình đi từ khám phá này tới khám phá khác. Trong Rue des boutiques obscures, người dẫn chuyện tên là Guy Roland, một nhà thám tử mất trí nhớ. Khi có cơ hội Guy mở cuộc điều tra về chính thân thế mình với hy vọng trả lời được câu hỏi : Tôi là ai ?
    Lần ngược thời gian để trở về với quá khứ, Guy khám phá anh là một người Hy Lạp gốc Do Thái, từng là một nhân viên ngoại giao của được Cộng hòa Dominica, sống tại Paris. Khi Pháp bị Đức quốc xã chiếm đóng, anh từng tìm đường trốn sang Thụy Sĩ … Trong hành trình đi chính mình đó, những bóng ma trong quá khứ đã hiện về. Modiano đưa độc giả đến tận vùng Polynésie xa xôi, trước khi trở về với Megève hay Roma nhưng đó là thành phố Roma của năm 1930, đúng ngay căn hộ số 2, Phố những cửa hiệu u tối - nơi tập trung của người Do Thái giữa lòng thủ đô La Mã.
    Patrick Modiano không chỉ là một nhà văn, ông còn soạn lời cho khoảng 20 bản nhạc và đã từng tham gia vào khoảng một chục bộ phim. Năm 1974, ông cộng tác với đạo diễn Louis Malle, viết kịch bản cho bộ phim Lacombe Lucien, kể lại câu chuyện của một anh nông dân do tình cờ đứng về phía địch.
    Trong một chương trình truyền hình năm 1970, tức là sau khi Patrick Modiano cho ra đời hai cuốn tiểu thuyết đầu tiên, La Place de l’ÉtoileLa Ronde de Nuit, họa sĩ Patrick Masery, một người bạn của Patrick Modiano đã nhận xét về giải thưởng Nobel văn học thứ 15 của nước Pháp :
    « Tôi nghĩ mô –típ mà Modiano thích nhất là soi rọi nội tâm của các nhân vật ở vào một thời khắc quyết định, khi mà con người đang đứng trước một sự lựa chọn. Đó là một khoảnh khắc mà người ta còn do dự một chút, trước khi chọn cho mình một hướng đi để rồi họ đứng về bên "chính" hay bên "tà" …
    Đó là một khoảnh khắc cũng giống như một trái chín trên cành, rực rỡ dưới ánh nắng mặt trời cho đến giây phút chót, trước khi hóa thân thành quả táo thối. Chính giây phút chót đó giữa sự sống và cái chết, là điều mà Patrick Modiano quan tâm. Đó cũng chính điều mới trong văn học và là nét riêng biệt trong dòng sáng tác, là dấu ấn riêng của nhà văn Modiano ».

    Cùng chủ đề
    • NOBEL VĂN HỌC 2014

      Văn học Pháp được vinh danh với giải Nobel 2014 về tay Patrick Modiano
    http://vi.rfi.fr/phap/20141210-nobel-van-hoc-2014-patrick-modiano-ky-uc-cua-nhan-loai

    Nữ hoàng truyện ngắn Alice Munro

    Nữ hoàng truyện ngắn Alice Munro
     
    Nhà văn Canada Alice Munro giành giải Nobel Văn học 2013. Ảnh chụp trong một sự kiện tại Toronto, Canada 2007.REUTERS/Mike Cassese/Files


    2013, lần đầu tiên giải Nobel Văn học được trao tặng cho một nhà văn Canada. Cũng lần đầu tiên Viện Hàn lâm Thụy Điển vinh danh một tác giả chuyên viết truyện ngắn : Alice Munro, « bậc thầy của truyện ngắn đương đại ». Dưới ngòi bút của Alice Munro, cuộc sống tẻ nhạt của những con người bình thường, những thân phận hèn mọn, đã trở nên sống động thần kỳ. Văn phong chân thực và giản dị của bà là chìa khóa đưa Munro đến Viện Hàn lâm Thụy Điển.

    Trong cuộc trả lời phỏng vấn dành cho ban Việt Ngữ RFI, nhà văn Nguyễn Đức Tường từ bang Quebec cho biết thêm về vị trí của « Nữ hoàng truyện ngắn, Alice Munro » trên văn đàn Canada, về văn phong của bà và nhất là vì sao Alice Munro, sau hơn một nửa thế kỷ cầm bút, mỗi tác phẩm của bà đều rất được chờ đợi. Bà được mệnh danh là một Tchekkov của Canada. Nhà văn Nguyễn Đức Tường nguyên là giáo sư Toán và Vật Lý tại Mỹ và Canada, nhưng đã đã có nhiều duyên nợ với văn chương. Ông từng là ban tập viên của tạp chí Thế Kỷ XIX.
    Ấp ủ giấc mơ viết văn từ bé, truyện ngắn đầu tay « The Dimensions of a Shadow – Kích thước của một chiếc bóng » của bà được xuất bản năm 1950. Nhưng phải đợi đến cuối thập niên 1960 Alice Munro mới được độc giả biêt đến một cách rộng rãi qua Dance of the Happy Shades – Vũ điệu của những chiếc bóng hạnh phúc ».

    Những năm gần đây, chiếu cao nhất trên văn đàn Canada được giành cho hai nhà văn nữ nặng ký : Magaret Atwood và Alice Munro. Hàng năm, cứ đến “mùa” Nobel là các tổ chức truyền thông Canada lại thi nhau tiên đoán ai sẽ được giải Nobel văn học.

    Ở một góc đài là Magaret, già nửa thế kỷ trong nghề cầm bút với trên 50 cuốn sách/truyện đã xuất bản và mỗi lần ra mắt sách là một sự kiện event. Góc bên kia là Alice, bà Hoàng truyện ngắn, cũng già nửa thế kỷ trong nghề cầm bút nhưng có vẻ nhẹ ký hơn, chỉ mới có 14 tập truyện đã xuất bản nhưng xuất hiện thường xuyên trên những tạp chí như The New Yorker, The Atlantic Monthly, The Paris Review... và được nhà văn Mỹ Jonathan Franzen ca tụnghết mình trên The New York Times nhân dịp tập truyện Runaway của bà được giải Giller 2004 lần thứ nhì, một giải văn học có hạng của Canada, kêu gọi đồng bào nên đọc Munro.

    Điều này có lẽ rất quan trọng vì 10 năm trước, năm 1994, Munro xuất bản Open Secrets, bà được đề nghị cho giải thưởng văn học uy tín nhất của Canada lần thứ 5, Giải Toàn quyền Canada (Governor General's Award). Nhân dịp này, tạp chí The Paris Review cũng đã gửi hai phóng viên đến nhà bà ở Clinton để phỏng vấn cho một bài viết về Nghệ thuật Hư cấu.

    Lần này khác, ngày 10/10/2013, Viện Hàn lâm Thụy Điển thông báo Giải thưởng Văn học 2013 được trao về tay một nhà văn của Canada, Alice Munro, “bậc thầy của truyện ngắn hiện đại!  Đây là lần đầu tiên giải văn học này vinh danh một nhà văn chỉ viết truyện ngắn.

    Alice Munro là nhà văn nữ thứ 13 và là người phụ nữ Canada đầu tiên đã đoạt giải Nobel Văn học. Đúng ra, năm 1976 Saul Bellow, một tác giả sinh đẻ ở Lachine (Quebec), cũng đã đoạt giải Nobel, nhưng vì năm lên 9 tuổi, Bellow theo gia đình sang Chicago rồi sau đó lấy quốc tịch Hoa Kỳ, nên trước Alice Munro, Canada vẫn chưa có ai được trao giải Nobel.

    Alice Munro, tên thật là Alice Ann Laidlaw, sinh ngày 10/07/1931 tại Wingham, một thị trấn nhỏ miền tây-nam Ontario, Canada. Năm 1949, cô được học bổng hai năm tại Đại học Western Ontario, chuyên về tiếng Anh và báo chí. Trong thời gian này cô cũng đồng thời phải làm đủ mọi thứ nghề: hầu bàn, hái thuốc lá hay phụ việc thư viện, để phụ thêm học bổng.

    Năm 1951, cô rời đại học để kết hôn với James Munro, một sinh viên cùng trường. Họ dọn nhà đi Vancouver, British Columbia, nơi James có việc làm với Eaton, một nhà hàng bách hóa lớn. Năm 1963, hai vợ chồng chuyển đến Victoria, mở tiệm sách Munro's Books. Ngày nay vẫn còn hoạt động. Họ có bốn cô con gái, nhưng một người đã qua đời sớm.

    Alice và James ly dị vào năm 1972. Năm 1973 Munro trở lại Đại học Western Ontario, bây giờ với tư cách một nhà văn nội trú. Năm 1976, Alice kết hôn với Gerald Fremlin, một bạn cũ thời còn là sinh viên. Hai vợ chồng dọn về Clinton, cách nhà thời thơ ấu của bà ở Wingham chừng nửa giờ lái xe và ở đây, Fremlin đã qua đời năm 2013 ở tuổi 88.

    « Dance of the Happy Shades » khúc quanh định mệnh 

    Munro có ý định viết văn từ năm 12 tuổi, nhưng xuất bản tương đối muộn. Gần đây người ta phát hiện truyện ngắn đầu tiên, Kích thước của một Chiếc Bóng, (The Dimensions of a Shadow), xuất bản năm 1950, đăng trong tạp chí đại học Folio, được tái bản năm 2011 trong tạp chí Her Royal Majesty số 12. Đây là lần đầu tiên Munro ở tuổi mười tám được phổ biến rộng rãi. Kích thước của một Chiếc Bóng kể truyện một cô giáo mới nhậm chức trong thị trấn, cô đơn đi bộ về nhà vào ngày cuối cùng của niên học, một mình với trí tưởng tượng và nỗi sợ hãi của mình. Giọng văn đượm chút irony như thể báo hiệu những gì sẽ đến trong tương lai.

    Năm 1968, ở tuổi 37, Alice Munro xuất bản tập truyện đầu tay, Dance of the Happy Shades  Vũ điệu của những chiếc bóng hạnh phúc. Với tác phẩm này Munro đoạt Giải Toàn quyền Canada, giải thưởng văn học hàng năm quan trọng nhất; bà sẽ còn đoạt giải này thêm hai lần nữa.
    Dance of the Happy Shades cũng là tên một truyện ngắn trong tập truyện, lấy từ tiêu đề của bản dịch tiếng Anh của ba-lê/nhạc kịch Orpheus & Eurydice của Glück khi được trình diễn tại London lần đầu tiên. Vì liên hệ thần thoại này, chữ Shade ở đây cũng có thể chỉ một bóng ma, một cõi u minh nào đó – the Realm of the Shades.

    Trong thần thoại Hy Lạp, đây là một chuyện tình rất thương tâm; Orpheus là một thi nhạc sĩ, tiếng nhạc của anh quyến rũ được thú hoang hay sỏi đá. Orpheus đi cứu vợ, Eurydice, từ thế giới bên kia; Hades, vua của cõi U Minh nhỏ lệ trước lời ca của Orpheus và cho Eurydice về dương thế, nhưng vì Orpheus phạm một lời nguyền nên vợ chết một lần nữa. Buồn bã trở về, Orpheus chết dưới bàn tay của kẻ thù không bị cảm hóa bởi âm nhạc thần thánh của mình, đầu anh ta trôi ra biển vẫn không ngừng ca hát. Trong vở nhạc kịch, Orpheus đau khổ, định tự tử, nhưng thần Tình yêu ngăn cản, cứu sống vợ để cho cả hai vợ chồng cùng về dương thế, happy ending.

    Vũ điệu của những chiếc bóng hạnh phúc kể chuyện một bà giáo già độc thân và buổi độc tấu dương cầm hàng năm của học trò của bà. Học trò của bà gồm ít nhất hai thế hệ, cô bé kể truyện và mẹ của cô. Bà giáo ngày càng già, đời sống vật chất của bà ngày càng eo hẹp, chỉ có buổi độc tấu dương cầm là cố định, được sửa soạn với cùng một quan tâm vô tận và do đấy, vào buổi chiều tháng Sáu nóng bức này, trở nên có vẻ như không bao giờ ngừng cho những bà mẹ phải đi kèm con. Bà giáo già hoàn toàn vô tư trước cảnh những bà mẹ ngồi bồn chồn, chịu trận chờ cho đến hết. Nhưng lần này khác, khi tưởng như đã xong thì đột nhiên xuất hiện một đám trẻ con cùng có một chút gì khác lạ, khiếm khuyết, chừng mươi đứa, cũng là học trò của bà. Tài nghệ dương cầm của chúng trung bình như mọi trẻ khác cho đến khi bà giới thiệu đứa trẻ cuối cùng, một cô bé tóc bạch kim. Cô ngồi trước dương cầm, vụng về, đầu hơi cúi xuống rồi tiếng nhạc của cô bắt đầu lơ lửng trong không gian, bay qua cửa sổ ra ngoài đường phố mùa hè hừng hực nóng. Mọi người đã quen với những buổi biểu diễn dương cầm như thế này nhưng không ai chờ đợi được nghe âm nhạc. Có lẽ đến tận lúc cuối cùng của cuộc đời, bà đã tìm được một người để dậy nhạc.

    Dùng Vũ điệu của những chiếc bóng hạnh phúc làm tiêu đề của toàn tập truyện, chắc hẳn Munro không đơn thuần chỉ chọn cái tên bắt mắt để bán sách mà phải rất đắc ý với câu chuyện. Tôi đọc ở đâu đó, Munro nghiên cứu rất cẩn thận khi viết lách, liên hệ giữa thần thoại Hy Lạp và bà giáo dương cầm già tất không phải chuyện tình cờ. Và như vậy những ngụ ý, ẩn dụ, ám chỉ... có thể có, nằm đâu đó trong truyện; xin để độc giả, qua thẩm định cá nhân, mỗi người một cách vui thích làm cuộc thám hiểm cho riêng mình.

    Alice Munro đã xuất bản tất cả 14 tập truyện; được Giải Toàn quyền Canada (Governor General's Award) 3 lần: Dance of the Happy Shades (1968), Who Do You Think You Are? (1978) và The Progress of Love (1986); Giải Giller2 lần: The Love of a Good Woman (1998) và Runaway (2004). Năm 2009 Munro được Giải thưởng Quốc tế Man Booker (Man Booker International Prize) cho toàn bộ tác phẩm, rồi tất nhiên, năm 2013,Giải Nobel Văn học.

    Văn phong chân thực, giản dị của Munro
     
    Alice Munro được giải Nobel! Tất nhiên dân Canada vui mừng và hãnh diện, nhưng tình cảm này không nhất quán. Đã từ lâu, Alice Munro trở thành một tác giả tiếng tăm quốc tế về các hư cấu ngắn, không còn bắt buộc phải viết cho thị trường của các tác giả đang tìm cách đi lên ở trong nước. Đa số những độc giả truyện ngắn khám phá ra hư cấu của Munro lần đầu tiên trong các tạp chí bóng mượt của Hoa Kỳ như tờ The New Yorker và Atlantic Monthly. Nhà xuất bản của Munro là Random House, trụ sở ở Manhattan. Vì dân số Hoa Kỳ đông gấp mười lần dân số Canada tất nhiên số độc giả cũng đông, nhưng cốt lõi, Munro vẫn là một tác giả miệt vườn Canada.

    Có một thời tôi sống ở vùng hồ Huron, một trong năm Đại Hồ của Canada chụm lại với nhau, hồ bát ngát, gió thường tung sóng cao như biển. Một căn nhà gạch đỏ gọn ghẽ ở cuối đường, đánh dấu ranh giới của thị trấn, bên kia là cánh đồng chạy thoải xuống sông Maitland, có thể như Munro đã tả căn nhà thời thơ ấu, những cây ngô đã khô xào xạc trong cơn gió nhẹ, đây đó thêm mấy hàng cây phong. Lạ hơn là đôi khi giữa cánh đồng đột nhiên mọc lên một tiệm ăn rất sang, French cuisine; có một tiệm ở bên cạnh suối nước, có cả đập nước để sinh điện, điện còn thừa bán cho công ty điện lực Ontario. Tôi thường đi thử những tiệm ăn này mỗi cuối tuần, tôi hỏi mấy chốc họ vỡ nợ. Bạn đồng hành trả lời họ không trông đợi ở mình, họ chờ mấy fat cats cottages ở dọc ven hồ.

    Đó là xứ sở của Munro và cũng là sân chơi của những ông bự béo hay béo bự, phần lớn đến từ Toronto, hơn hai giờ lái xe; họ không là mẫu cho nhân vật của Munro. Mặc French cuisine hay Stratford Festival không xa, hàng năm trình diễn những vở kịch cổ điển hay đương đại, từ tháng Tư đến tháng Mười, thu hút khách thập phương, bầu không khí trong truyện ngắn của Munro luôn luôn là bầu không khí tỉnh lẻ nếu không nói miệt vườn.

    Nhân vật của Munro là những người bình thường của vùng này, ở quanh Wingham, nơi Munro sinh ra và lớn lên hay Clinton, nơi bà sống sau này. Ở đây, khi ánh sáng và bóng tối bắt đầu trộn lẫn trên cánh đồng đã cầy lên chờ mùa đông sắp đến, có thể họ lén lút làm tình trong các ruộng ngô, hay là những con người hung dữ nóng nẩy chạy rượu lậu, cuộc sống và hy vọng có thể bị nghiền nát trong khoảnh khắc một cuộc đối thoại.
    Văn phong của Munro chân thực, giản dị – như Wingham, nhưng rộn ràng với những cảm xúc chính xác, đã được giảm nhẹ đi. Dẫu vậy, nhiều khi hãy còn quá nhạy cảm cho một số người. Như truyện Giờ Chết (The Time of Death). Đến ba thế hệ của một gia đình hãy còn hằn học với Munro chỉ vì chuyện một ông chú của họ qua đời, bỏng nước sôi khi mới được 18 tháng, giống như đứa bé Benny trong truyện. Như đã nói ở trên, Munro rất thận trọng làm nghiên cứu. Trong thư khố của tuần báo địa phương, có đến hai trường hợp đứa bé bị chết bỏng nước sôi; câu chuyện xẩy ra năm 1877 đăng trên tờ Huron Expositor giống truyện của Munro một cách kỳ lạ. Tuy vậy, theo một sử gia địa phương, “Khi tôi đọc Alice Munro, tôi không thể đọc bà ta như những người khác, tôi nhìn thấy rất nhiều Wingham ở trong đó, mặc dù tôi biết đó là truyện hư cấu.”

    Gần đây Alice Munro nói có ý định viết tiểu luận và đã viết một vài bài, tôi có đọc một bài bà viết nhưng bây giờ không nhớ ở đâu; còn lại tất cả các tác phẩm của bà đều là truyện ngắn, vậy thì câu trả lời dễ, gọn và an toàn nhất là Alice Munro được giải Nobel là vì bà là một “bậc thầy của truyện ngắn hiện đại”. Tôi cũng có thể nói một cách rất lương thiện là đó cũng là quan điểm của tôi.

    Munro viết về đời sống thôn dã vùng hạt Huron cùng những người sống trong vùng: chính mình, kinh nghiệm của mình khi lớn lên, rồi gia đình và những người chung quanh. Thật sự, toàn là những người bình thường, không có gì đặc sắc, sinh hoạt đời thường lặp đi lặp lại, tẻ nhạt. Nhưng viết về con người bình thường trong hoàn cảnh bình thường, sống đời sống bình thường không bao giờ dễ; chỉ dưới ngòi bút thần diệu của một nhà văn bực thầy ta mới có thể thấy được những con người, hoàn cảnh hay đời sống đó không những có thể tin được mà còn sống động một cách thần kỳ. 

    Đọc đi đọc lại vài truyện nhiều lần, tôi nhận thấy truyện của Munro mở ra từ từ dễ dàng nhưng cấu trúc hết sức tinh tế và chính xác, một cử chỉ nhỏ bất ngờ của nhân vật thường làm thay đổi sắc thái của cả câu chuyện. Munro kể lúc ban đầu viết truyện ngắn chỉ là tạm thời, sửa soạn cho truyện dài về sau. Rồi bà viết truyện dài, nhưng không bao giờ vừa ý nên lại cắt ra thành những truyện ngắn. Nhưng những truyện ngắn chừng mươi, mười lăm trang này chi tiết cô đọng như những truyện dài 200 trang. Theo biên tập viên của bà ở The New Yorker, “Truyện ngắn của Munro dường như rất đầy đủ, có tất cả các tính chất của một cuốn tiểu thuyết. Và thêm,“Bạn cắt một câu tưởng như thừa ở đầu truyện để rồi về sau nhận ra câu đó là cần thiết.
     
    Ngườiđi sau phải học người đi trước, nếu không ta sẽ tiếp tục phát minh lại cái bánh xe và văn minh của nhân loại sẽ đứng yên một chỗ; Munro tất nhiên phải học những nhà văn đi trước nhưng văn phong của Munro có nét vẻ riêng của Munro. Có người nói Munro là “Chekhov của chúng tôi.” Nhưng tại sao phải như vậy? Tại sao Munro không thể chỉ đơn thuần là Munro?

    “Boys and Girls” và thân phận
     
    Một truyện của Munro mà tôi đặc biệt ưa thích là Trai và Gái (Boys and Girls). Văn viết uyển chuyển. Tâm lý sâu sắc. Diễn biến tế nhị.

    My father was a fox farmer.” Munro vào truyện, rõ ràng, chính xác, không những không che dấu nguồn gốc khiêm nhượng, miệt vườn của mình mà còn như có vẻ ngạo mạn, thách đố.

    Alice Munro thường dùng cái thế giới mà bà biết rõ nhất, miền tây-nam Ontario, làm nền trong các tác phẩm. Trai và Gái là truyện xẩy ra ở vùng này trong đó Munro kể lại những năm thơ ấu của mình vào thời kỳ kinh tế suy thoái.

    Một gia đình sống trong một trang trại nuôi cáo, gồm cha làm nghề nuôi cáo, mẹ nội trợ và hai chị em, cô chị 11 tuổi là người kể truyện. Truyện tả sự trưởng thành của hai chị em, nhất là cô chị, với tất cả những bối rối gai góc của nó. Hai chị em thường phụ giúp cha, thằng bé em lóng ngóng làm việc lặt vặt nơi chuồng cáo, còn cô là người quán xuyến hết mọi việc. Cô cảm thấy vai trò của mình trong trang trại được đảm bảo; cha cô có lần nói chuyện với khách, chỉ cô giới thiệu, “Tay đàn ông phụ việc tôi mới thuê,” khiến cô đỏ mặt vì vui sướng.
    Như một bản nhạc gồm hai giọng chạy theo nhau, quyện lấy nhau. Hai cuộc đời triển khai theo nhịp sống của trang trại; phụ giúp cha trông nom, cho cáo ăn uống rồi giết cáo để lấy da. Cuộc đời tưởng như không có gì thay đổi, nhưng mùa đông này cô nhận ra rằng mẹ cô không muốn cô cả ngày lúi húi dưới chuồng cáo mà muốn cô giúp bà với việc trong nhà. 
    Một trong những nét nổi bật nhất của câu chuyện là sự tương phản gợi ra bởi ý tưởng “cậu bé” và “cô gái”, luôn luôn phản ảnh trong mọi khía cạnh của thế giới người kể truyện. Truyện tiếp tục kể chi tiết về thời gian trong cuộc sống của cô khi cô qua khỏi thời thơ ấu, bỏ lại đằng sau sự tự do, nhận ra rằng mình là một “cô gái” và cuối cùng, một phụ nữ. Đứa trẻ bắt đầu hiểu rõ phân loại xã hội đòi hỏi những tác động nghiêm trọng. Do đó trở thành một “cô gái” trên đường đến phái nữ là một thời gian đầy khó khăn cho nhân vật chính bởi vì cô quan niệm phụ nữ thuộc giai cấp thấp hơn (“đỏ mặt vì vui sướng” chỉ vì được bố gọi là tay đàn ông). Ban đầu, cô cố gắng chống lại nỗ lực của cha mẹ cố đào tạo cho cô những sở thích, thói quen, hành vi và công việc của một phụ nữ. Tuy nhiên, kháng cự này vô ích. Cô gái kết thúc câu chuyện rõ ràng là xã hội đã dành riêng một chỗ đứng cho cô, một cô gái; một cái gì đó làm cô lo sợ, ngại ngùng.

    Mặc dù Munro không là người quan tâm đến nữ quyền một cách rõ ràng và thuyết phục, câu chuyện có thể được xem như một dụ ngôn, chứng minh hùng hồn công việc người phụ nữ cần làm để thay đổi vị trí xã hội của họ.

    Cuộc đời trôi đi, cho đến một hôm cô biết cha cô có ý định giết một con ngựa để nuôi cáo; không suy tính trước, cô thả con ngựa. Và đây cũng là lần đầu tiên trong đời cô không vâng lời cha, không những không đóng cửa trang trại mà còn mở rộng cho ngựa chạy ra. Thằng bé em đi theo bố suốt buổi để đuổi bắt rồi giết ngựa, trở về, quần áo dính máu, nó đã nghiễm nhiên chiếm chỗ của cô; không những thế nó còn mách lẻo với bố là cô đã giúp cho ngựa chạy.

    Cô không ngạc nhiên về việc bố bắt lại được con ngựa nhưng ngạc nhiên thấy ông không tức giận và không trừng phạt cô; như cam chịu, đôi chút cởi mở, ông nói, “Nó chỉ là một cô gái.” Ngạc nhiên hơn nữa là phản ứng của cô gái trước câu nói của bố: “Tôi không phản đối điều đó, ngay tự trong thâm tâm tôi. Có lẽ đó là sự thật.” Bữa cơm gia đình tối hôm đó là một bức tranh đẹp tuyệt vời.

    I didn’t protest that, even in my heart. Maybe it was true.” Chấm hết, một ngày không tốt mấy cho nữ quyền.

    http://vi.rfi.fr/quoc-te/20131231-nu-hoang-truyen-ngan-alice-munro

    Geen opmerkingen:

    Een reactie posten