Đối với người phương Tây, Võ Nguyên Giáp có lẽ là một
hiện tượng đặc biệt trong quân sử thế giới. Ông là vị tướng châu Á được các sử
gia và nhà bình luận quân sự phương Tây nhắc đến nhiều nhất từ sau Thế chiến
II.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhân dịp kỷ niệm 40 năm Điện
Biên Phủ
Người ta nhắc đến ông không phải vì ông là đồng minh của các lực lượng quân
sự phương Tây mà là một đối thủ lợi hại. Ông Võ Nguyên Giáp được coi là người đã
làm thất bại tham vọng tại Đông Dương của hai thế lực quân sự hùng cường nhất
thế giới là Pháp và Mỹ trong thời điểm từ 1945 đến 1975.
Một vinh hạnh không kém là ông được sự quí trọng của hai vị tướng tài ba
trong quân đội Pháp và Mỹ, đối thủ của ông, đó là các ông Raoul Salan (đại
tướng, người chỉ huy quân đội Pháp tại Đông Dương thời điểm 1951-1953) và
William Westmoreland (đại tướng, người chỉ quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam thời
điểm 1968-1972).
Ngoài chức năng điều quân khiển tướng, Võ Nguyên Giáp còn là một cấp lãnh đạo
chính trị có tài nói và viết. Tập Hồi ký 1946-1954 gồm 3 tập của ông đã được
dịch ra nhiều thứ tiếng.
Hết lời ca ngợi
Hiện nay không biết đã có bao nhiêu sách báo và tài liệu quân sự viết về Võ
Nguyên Giáp, nhưng ít nhất đã có trên 120 quyển sách nói về ông, hay chính ông
viết ra được dịch sang các thứ tiếng nước ngoài (Pháp, Anh, Ý, Tây Ban Nha,
Trung Hoa, Nhật, Ả Rập...và được phổ biến rộng rãi trong các tiệm sách và thư
viện.
Những sách viết về Võ Nguyên Giáp phần lớn do những nhà văn, nhà báo không
nhiều thì ít có thiện cảm với ông Võ Nguyên Giáp và phong trào cộng sản.
"Những sách viết về Võ Nguyên Giáp phần lớn do
những nhà văn, nhà báo không nhiều thì ít có thiện cảm với ông Võ Nguyên Giáp và
phong trào cộng sản. "
Những tác giả này đã hết lời ca ngợi Võ Nguyên Giáp và so sánh ông với những
thiên tài quân sự nổi tiếng trên thế giới như với Thomas Edward Lawrence, được
biết nhiều dưới tên Lawrence of Arabia, người đã chinh phục cả lục địa phía đông
châu Phi, hay với Ernesto Che Guevara, nhà cách mạng cộng sản Trung Mỹ rất được
giới trẻ thiên tả châu Âu ngưỡng mộ.
Nhiều người còn ví thiên tài quân sự của Võ Nguyên Giáp với Karl von
Clausewitz, nhà chiến lược quân sự người Phổ đầu thế kỷ 19.
Các sử gia và dư luận phương Tây nễ trọng ông Võ Nguyên Giáp vì ông là vị
tướng "không tốt nghiệp một trường võ bị nào và cũng không bắt đầu sự nghiệp
quân sự bằng một chức vụ sĩ quan nào", nhưng đã đánh bại quân đội Pháp tại Điện
Biên Phủ (1954) và gây khó khăn cho quân đội Mỹ tại miền Nam Việt Nam trong suốt
thời kỳ 1964-1972, tức thời điểm quân đội Hoa Kỳ có mặt đông đảo nhất tại miền
Nam Việt Nam.
Trợ giúp của Trung Quốc
Trong cuộc chiến Đông Dương lần thứ nhất (1945-1954), các sử gia Pháp thường
xuyên nhắc nhở đến Võ Nguyên Giáp trong giai đoạn 1946, khi quân Pháp vừa trở
lại Việt Nam và đã có những cuộc gặp gỡ với ban tham mưu của Hồ Chí Minh, như
một thư sinh đi theo kháng chiến không có gì đáng ngại.
Tuy nhiên tất cả đều lấy làm tiếc cuộc thương lượng với phe Việt Minh, do
đảng cộng sản Việt Nam chỉ đạo, không tyành công dẫn đến cuộc chiến khốc liệt
tại Đông Dương trong suốt thời gian từ 1946 đến 1954. Thật ra lúc đó chính quyền
thuộc địa Pháp không đánh giá cao khả năng quân sự của phe Việt Minh.
Vào thời điểm 1946, lực lượng quân sự của phe Việt Minh do Võ Nguyên Giáp chỉ
huy chỉ có khoảng 40 chi đội, với trên dưới 50.000 dân quân du kích, thiếu trang
bị và thiếu huấn luyện.
Tướng Giáp cầm quân từ lực lượng chỉ có tiểu đoàn lên
các quân đoàn lớn
Phải chờ đến 1949, phe Việt Minh mới có được bốn đại đội bộ binh được trang
bị súng máy và súng cối.
Lực lượng quân sự của Võ Nguyên Giáp chỉ được trang bị dồi dào từ sau khi phe
cộng sản Trung Quốc do Mao Trạch Đông lãnh đạo đã đánh bại phe Quốc Dân Đảng, do
Tưởng Giới Thạch cầm đầu, và chiếm Hoa lục. Cố vấn quân sự và bộ đội Trung Quốc
được gởi sang Việt Nam để tiếp tay với Việt Minh đánh Pháp. Nguồn vũ khí mà Mao
Trạch Đông chi viện cho Việt Minh do tịch thu từ tay quân Tưởng.
Với những trang bị và giúp đỡ quân sự từ phe cộng sản Trung Quốc, những đơn
vị quân sự Việt Minh đã từ du kích chuyển sang chính quy, với những cấp trung
đoàn và sư đoàn, hàng ngàn sĩ quan Việt Minh được đưa sang Trung Quốc huấn
luyện.
Bắt đầu từ tháng 10/1950, bộ đội Việt Minh bắt đầu gây nhiều thiệt hại cho
các đơn vị viễn chinh Pháp trên Đường số 4 (Route coloniale 4-RC4) từ Cao Bằng
đến Lạng Sơn, qua Đồng Khê, Thất Khê, Na Chầm và Đồng Đăng trên vùng Việt Bắc,
từ đó tên tuổi Võ Nguyên Giáp mới được giới quân sự Pháp nhắc nhở đến nhiều.
Những vị tướng tài ba của Pháp như Georges Revers, Marcel Carpentier, Henri
Navarre với những lực lượng quân sự chuyên nghiệp được trang bị đầy đủ như Lực
lượng Viễn chinh (Corps Expéditionnaire), Lê Dương (Légion Etrangère), Nhày
Dù... (Bataillons Étrangers Parachutistes) đã không ngăn chặn được sự bành
trướng của những người lính nông dân do Võ Nguyên Giáp cầm đầu.
Lòng chảo Điện Biên
Sau này giới quân sự Pháp thường nhắc nhở tới những mưu chước của Pháp dụ dỗ
quân đội Việt Minh vào bẫy để tiêu diệt như tại Vĩnh Yên, Đông Triều, Ninh Bình,
Nghĩa Lò, Đông Khê, Đường số 4, nhưng không được. Ngược lại, chính quân đội Pháp
đã phải gánh chịu nhiều thiệt hại nặng nề và đã phải rút lui khỏi các địa điểm
chiến lược trên vùng Thượng Du Bắc Việt.
Trước sự lớn mạnh của phe Việt Minh, giới quân sự Pháp quyết định mở ra một
địa bàn chiến lược khác tại khu lòng chảo Điện Biên Phủ để dụ quân Việt Minh vào
tròng để dội bom tiêu diệt. Ý đồ này đã được các chiến lược gia và tướng lãnh
Pháp nghiên cứu tỉ mỉ.
Cũng nên biết vào thời điểm này phe Việt Minh đã chiếm gần như toàn bộ khu
vực Trung Lào và Nam Lào, nếu ngăn chặn được đường tiếp tế của phe Việt Minh tại
Điện Biên Phủ thì Pháp sẽ triệt hạ dễ dàng lực lượng Việt Minh tại Lào.
Với nhận định như thế, bộ chỉ huy quân đội Pháp tại Đông Dương dồn nỗ lực
củng cố địa bàn Điện Biên Phủ. Tại đây, với hỏa lực sẵn có, quân Pháp vừa làm
chủ trên không vừa làm chủ những đường tiếp tế trên bộ.
Việt Minh dưới quyền tướng Giáp chiến thắng quân viễn
chinh Pháp ở Điện Biên Phủ
Cũng nên biết khu lòng chảo Điện Biên Phủ nằm sát biên giới Lào với nhiều đồi
núi thấp, do đó dễ quan sát một vùng rộng lớn chung quanh. Quân đội Pháp đã xây
dựng tại đây một hệ thống địa hào chằng chịt và kiên cố có thể cầm cự với quân
Việt Minh trong một thời gian dài khi bị bao vây.
Nói chung, giới quân sự Pháp rất tin tưởng vào sự phòng thủ chiến lược của
Điện Biên Phủ, họ hy vọng có thể tiêu diệt quân Việt Minh dễ dàng khi bị tấn
công.
Ngoài trí tưởng tượng
Nhưng ước muốn là một chuyện thực hiện được hay không là chuyện khác. Sau này
giới quân sự và chiến lược gia Pháp đã viết rất nhiều sách và tài liệu nghiên
cứu sự thất bại của Pháp tại Điện Biên Phủ. Tên của Võ Nguyên Giáp cũng được
thường xuyên nhắc tới như một đối thủ nguy hiểm, cần triệt hạ.
Tác giả những bài viết này đều không ngờ khả năng điều động lực lượng dân
công của Việt Minh trong trận Điện Biên Phủ. Khi nhắc tới Võ Nguyên Giáp, những
chuyên gia quân sự phương Tây thường nhắc tới một vị tướng không có chiến lược
chiến đấu nhưng lại thắng tất cả mọi trận chiến.
Các chiến lược gia Pháp không ngờ phe Việt Minh đã có khả năng huy động một
lực lượng dân công hùng hậu (hàng chục ngàn người) từ các vùng đồng bằng lân cận
lên vùng Điện Biện cách đó hàng trăm cây số.
Kinh ngạc nhất là sáng kiến tháo gỡ từng bộ phận rời của những khẩu đại bác
và súng ống hạng nặng và để vận chuyển bằng các phương tiện thô sơ như xe thồ
(xe đạp), xe bò, gồng gánh các loại vũ khí và đạn dược, ngày đêm băng rừng, vượt
suối và leo núi để mang lên các đỉnh đồi chung quanh Điện Biên Phủ, lắp ráp và
tấn công quân Pháp.
Phương Tây coi Tướng Giáp có vai trò lớn trong cả cuộc
chiến với Hoa Kỳ dù cách đánh giá từ Việt Nam có khác
Những sự kiện vừa kể vượt ra ngoài tưởng tượng của những chiến lược gia quân
sự danh tiếng của Pháp thời đó, và họ đã tốn rất nhiều giấy mực để diễn tả sự
kinh ngạc này, với tất cả sự thán phục.
Cuộc bao vây đã chỉ kéo dài trong ba tháng, từ 13-3 đến 7-5-1954. Quân đội
Pháp cùng với bộ chỉ huy tiền phương tại Điện Biên Phủ, do đại tá de Castries
cầm đầu, đã đầu hàng vô điều kiện.
Điều không ngờ là người Pháp chấp nhận sự thất trận này một cách tự nhiên, họ
không thù oán gì quân đội Việt Minh mà chỉ trách móc các cấp lãnh đạo chính trị
và quân sự của họ đã không sáng suốt.
Riêng các tướng Raoul Salan, Christian de La Croix de Castries và rất nhiều
tướng tá khác đều hết lời ca ngợi và kính phục Võ Nguyên Giáp.
Đây là một trường hợp hi hữu trong lịch sử quân sự của Pháp nói riêng và của
cả châu Âu nói chung. Hầu như các cấp lãnh đạo quân sự của châu Âu đều có cùng
nhận định như các đồng sự Pháp. Họ kính nể sự quyết tâm và khả năng huy động
người và quân cụ tại Điện Biên Phủ và trong suốt cuộc chiến Đông Dương lần thứ
nhất của Võ Nguyên Giáp.
Đáng giá không đúng mức?
Nếu Võ Nguyên Giáp là một người sinh trưởng tại các quốc gia phương Tây, chắc
chắn ông đã đón nhận tất cả những vinh hạng của một vị anh hùng, một vị tướng
tài ba. Rất tiếc ông là một người Việt Nam và, hơn nữa, là một đảng viên cộng
sản, tất cả những vinh dự đó đã không thể hiện đúng mức.
"Các sử gia và dư luận phương Tây nễ trọng ông
Võ Nguyên Giáp vì ông là vị tướng "không tốt nghiệp một trường võ bị nào và cũng
không bắt đầu sự nghiệp quân sự bằng một chức vụ sĩ quan nào", nhưng đã đánh bại
quân đội Pháp tại Điện Biên Phủ"
Trong sinh hoạt của đảng cộng sản, tất cả mọi chiến thắng đều do tập thể
quyết định, một mình Võ Nguyên Giáp không thể một mình mang lại chiến thắng. Hơn
nữa, tại Việt Nam, dưới chế độ cộng sản, không ai được quyền nổi tiếng hơn Hồ
Chí Minh.
Mặc dù vậy, Võ Nguyên Giáp vẫn được dư luận Pháp thời đó và cho đến ngày nay
nhìn nhận như người đã đánh bại quân đội Pháp tại Đông Dương.
Sau sự thất trận này, dư luận Pháp đã không thù oán gì Việt Nam mà ngược lại
còn giữ rất nhiều cảm tình với dân tộc Việt Nam và đất nước Việt Nam. Người Pháp
rất quí trọng tinh thần thượng võ của dân tộc Việt Nam : khi chiến đấu thì coi
nhau như kẻ thù, giết chóc thẳng tay, tất cả mọi phương tiện đều sử dụng để tiêu
diệt kẻ thù; khi hết chiến tranh, con người và đất nước Việt Nam trở nên hiếu
khách, sẵn sàng sang trang quá khứ để xây dựng lại đất nước từ những hoang tàn
và đổ nát.
Về sau Tướng Giáp bị mất ảnh hưởng trong Đảng Cộng
sản
Mặc dù đau thương vẫn còn, dân tộc Việt Nam đã rất kiêu hãnh để không van xin
giúp đỡ hay đòi bồi thường. Những người đã từng là kẻ thù trước kia có thể trở
thành bạn bè thân thiết nếu chấp nhận chia sẻ một tương lai chung Việt Nam.
Người Pháp có lý do để đề cao yếu tố này, vì trong suốt thời gian chiến
tranh, từ 1946 đến tháng 7-1954, không một phụ nữ, cụ già hay trẻ em người Pháp
nào bị bắt cóc làm con tin hay bị sát hại để trả thù báo oán, như đã từng xảy ra
tại Algeria hay những quốc gia Châu Phi những năm sau đó.
Đây chính là điều mà dư luận Pháp nói riêng và phương Tây nói chung quí mến
dân tộc Việt Nam.
Trong chiến tranh thì chém giết nhau không nương tay, nhưng chỉ giữa những
người đàn ông với nhau (la guerre entre les hommes), khi hết chiến tranh thì
những đối thủ trước kia có thể trở thành bạn bè một cách dễ dàng. Đó cũng là quy
ước danh dự (code of honor) của người lính Việt Nam.
Chính vì thế mà tướng Võ Nguyên Giáp, mặc dù không tốt nghiệp từ một trường
sĩ quan quân sự nào và bị trù dập ngay trong nội bộ Đảng Cộng sản Việt Nam sau
khi đảm nhiệm thành công những chức vụ được giao phó, luôn luôn được dư luận
phương Tây nhắc nhở đến với tất cả sự quý mến và kính phục.
Bài viết thể hiện quan điểm của Tiến sỹ Nguyễn Văn Huy, một
nhà báo tại Paris, Pháp.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/blogs/2013/10/131004_vo_nguyen_giap_the_west.shtml
Geen opmerkingen:
Een reactie posten