vrijdag 26 juli 2019

50 năm chinh phục Mặt Trăng qua 50 con số: Tên lửa Saturn V + Vận tốc, khoảng cách + Sự ra đời của lò vi sóng + thuốc men, chữa trị + Những người hy sinh vì Apollo

 50 năm chinh phục Mặt Trăng qua 50 con số: Tên lửa Saturn V

  • 9 tháng 7 2019

Getty Images Bản quyền hình ảnhGetty Images

Để đưa phi hành gia lên Mặt Trăng, Nasa đã thiết kế một tên lửa mạnh chưa từng có và bay thành công vào vũ trụ.
Chinh phục Mặt Trăng: Những người hy sinh vì Apollo
Vận tốc, khoảng cách khi chinh phục Mặt Trăng
Chuyện ăn uống, vệ sinh khi đi chinh phục Mặt Trăng

111: Là chiều cao của tên lửa Saturn V, tính bằng đơn vị mét

Vào đầu giờ sáng ngày 16/07/1969, JoAnn Morgan lái xe vào bãi đậu xe ở lô Pad 39a, Cape Canaveral để quan sát quá trình bơm nhiên liệu cho tên lửa Saturn V khổng lồ.
Tương phản với màu đại dương tối tăm phía sau, chiếc tàu vũ trụ sáng lòa trong ánh sáng đèn hồ quang xenon và được bao phủ trong đám mây khí oxy thoát ra từ các thùng nhiên liệu.
"Đó là cảnh tượng cực kỳ tráng lệ," Morgan nhớ lại. "Tôi đứng trong bãi giữ xe và quan sát cảnh đó một lúc vì nó tuyệt đẹp."
Có chiều cao tương đương sáu tầng lầu, tên lửa Saturn V được xếp hạng là một trong những thành tựu kỹ thuật và công nghệ vĩ đại nhất của Thế kỷ 20.
Đứng đầu nhóm chế tạo tên lửa này là Wernher von Braun, người từng chế tạo tên lửa V2 cho Hitler, và từng mơ ước làm được tên lửa đưa người đến Mặt Trăng.
"Ông không chỉ có năng lực kỹ thuật," Jay Honeycutt, kỹ sư tên lửa và về sau trở thành quản lý cao cấp ở Nasa nhận định, "mà còn có khả năng lãnh đạo tuyệt vời cùng khả năng giao tiếp với quan chức chính phủ đang tài trợ cho dự án."

NASA Bản quyền hình ảnhNASA
Image caption Tên lửa Saturn V được nhà khoa học tên lửa người Đức tên Wenher von Braun (bên phải) phát triển
Dùng nhiên liệu là khí oxy hoá lỏng và kerosene, tên lửa này được làm thành nhiều tầng.
Phần thấp nhất, còn được gọi là tầng một, lắp đặt năm động cơ F-1 khổng lồ. Hai tầng kế tiếp - với tổng cộng thêm sáu động cơ nữa - sẽ đưa nó vào quỹ đạo.
Người Âu lên vũ trụ cũng phải học tiếng Trung
48 giờ bất hạnh thử làm phi hành gia
Phẫu thuật trên vũ trụ thế nào?
Bên trên động cơ là khoang chứa tàu đáp xuống Mặt Trăng, rồi đến khoang dịch vụ và module điều khiển dành cho phi hành đoàn gồm ba người.
Tàu Saturn V có một tên lửa thoát hiểm trên đỉnh, được thiết kế để bắn module điều khiển đến nơi an toàn nếu có sự cố xảy ra trong quá trình phóng tàu.
"Yeah, bạn nghĩ, liệu thứ đó có thực sự bay được không," Honeycutt nói. "Cao vài trăm mét và sau đó chỉ còn chút xíu thứ ở đỉnh sẽ bay trở lại - quả là một thành tựu kỹ thuật ấn tượng."
Tên lửa Mặt Trăng lẽ ra còn lớn hơn thế. Kế hoạch ban đầu của Nasa đề xuất phát triển một tên lửa được gọi là Nova.
Được gắn tám động cơ F-1, tên lửa này sẽ mang theo một tàu vụ trụ lớn hơn, có khả năng đáp xuống Mặt Trăng và sau đó trở về Trái Đất.

2: Là vận tốc cao nhất của xe vận tải bánh xích, tính bằng đơn vị dặm/giờ

Tên lửa Saturn V được lắp ráp tại Tòa nhà Lắp ráp Xe cộ (VAB), một cấu trúc quá lớn đến mức nó phải có hệ thống điều tiết thời tiết riêng.
Các kỹ sư sau đó gặp phải khó khăn trong việc làm sao để đưa được tên lửa đến bãi phóng, cách đó chừng 5km.
Sau đề nghị ban đầu là thả nổi tàu vũ trụ trên xà lan, người ta sau đó quyết định xây dựng cỗ máy khổng lồ sử dụng đường ray gọi là xe vận tải bánh xích.
Với tám đường ray khổng lồ, điều khiển bằng 16 động cơ điện và có hai máy phát điện cung cấp năng lượng, xe vận tải bánh xích trông giống tàu biển hơn là xe.
Và cũng như tàu biển, tài xế tạo thành một phần trong cả nhóm gồm nhiều người điều hành và các kỹ sư phụ trách việc điều khiển chiếc xe di chuyển chậm chạp đến bệ phóng tàu. Cực kỳ chậm.
"Xe vận tải có khả năng di chuyển hai dặm mỗi giờ," tài xế Sam Dove nói. "Tuy nhiên, bạn thực sự không muốn tăng tốc đến hai dặm, đặc biệt là với khối lượng vận tải nó đang chở - tốc độ cao nhất chúng tôi từng đi là một dặm."
Mặc dù tài xế ngồi trong buồng lái, nhưng trung tâm của xe vận tải bánh xích lại là ở phòng điều khiển. "Đó thực sự là bộ não và hệ thống thần kinh cho hoạt động ở đây," Dove nói. "Người thực hiện công tác kiểm tra sẽ điều khiển bộ console thứ hai tính từ phía cuối lên, và vận hành mọi thứ trên xe bánh xích."

NASA Bản quyền hình ảnhNASA
Image caption Xe vận tải bánh xích đưa tên lửa Saturn V đến địa điểm phóng với tốc độ chậm rãi và ổn định 1,6km/h
Trong nhiệm vụ Apollo, người ta mất đến 16 giờ để đưa tàu vũ trụ đi vài km từ VAB đến bệ phóng. Thời gian từ bệ phóng vào quỹ đạo chỉ mất tám phút.
TQ, châu Âu và tham vọng lên Mặt Trăng định cư
Đưa người lên Mặt Trăng: canh bạc đầy rủi ro của Mỹ

35.000.000: là lực đẩy mà tên lửa Saturn V tạo ra, tính bằng đơn vị Newton

Tên lửa Saturn V là tên lửa mạnh nhất được phóng thành công.
"Tôi cảm thấy chúng tôi đang ngồi ở đầu mũi kim, một mũi kim rất lớn," Frank Borman, chỉ huy tàu Apollo 8, là chỉ huy chuyến bay có người lái đầu tiên đến Mặt Trăng, nói. "Tôi có cảm giác mình chỉ ngồi đó để được chở đi thay vì điều khiển bất cứ gì, âm thanh và sự rung lắc khiến bạn cảm nhận được sức mạnh khổng lồ."
Apollo 8 được coi là một trong những nhiệm vụ táo bạo và mạo hiểm nhất trong lịch sử khám phá vũ trụ. Cùng với Borman trên khoang điều hành tàu Apollo còn có Jim Lovell và Bill Anders, những người nỗ lực hết sức cho một sứ mệnh mà xác suất thành công chỉ có 30%.
Nhiệm vụ được coi là mạo hiểm vì thử nghiệm không người lái trước đó với tên lửa Saturn V - với tàu Apollo 6 - đã không diễn ra tốt đẹp. "Chuyến bay thử nghiệm mà chúng tôi thực hiện ngay trước nhiệm vụ [Apollo 8] gần như là một thảm họa," Gerry Griffin, giám đốc điều hành chuyến bay Apollo, nói. "Hầu như mọi thứ đều trục trặc."
Nghiêm trọng hơn cả, đó là tên lửa bắt đầu dập mạnh - tạo ra lực trong khoang lái có thể giết chết bất cứ phi hành đoàn nào. "Chúng tôi cũng mất một số đường tiếp nhiên liệu," Griffin cho biết thêm. "Và động cơ khoang trên không chịu khởi động lại."

Getty Images Bản quyền hình ảnhGetty Images
Image caption Tên lửa Saturn V cao 111m và nặng hơn 2.950 tấn
Trong tám tháng tiếp theo, đội chế tạo tên lửa của von Braun đã giải quyết tất cả mọi vấn đề, trước khi thuyết phục ban lãnh đạo Nasa rằng tên lửa Saturn V đã có thể bay an toàn.
"Đó là phần can đảm của chương trình," Griffin nhận định. "Đó cũng là sự can đảm của ba người đàn ông bước vào và lái tên lửa Saturn V đầu tiên."

5: Là số tầng trên của tên lửa Saturn V trên Mặt Trăng

Chỉ chín phút sau khi phóng đi, tên lửa Saturn V đã cắt bỏ tầng một và hai, bỏ chúng rơi về phía Đại Tây Dương.
Tầng ba (thường được biết với cái tên dễ gây nhầm lẫn là tầng S4B), với một động cơ, đã giúp tàu vũ trụ tăng tốc đủ để bay vào quỹ đạo trước khi ngừng hoạt động.
Sau khi bay một vòng rưỡi quanh Trái Đất, nhóm phi hành gia bật lại động cơ ở tầng S4B. Rồi trong một đoạn cua nổi tiếng có tên "Bay vòng chuyển qua Mặt Trăng", tên lửa đẩy tàu vũ trụ ra khỏi quỹ đạo để bay vào một quỹ đạo hướng về phía Mặt Trăng.
Sau khi các phi hành gia tắt động cơ lần hai, và tàu đổ bộ mặt trăng được phóng ra từ khoang trên cùng, thì tên lửa bị bỏ lại. Nhưng vì tên lửa bay cùng vận tốc và cùng hướng với tàu vũ trụ, nếu phi hành đoàn không thay đổi quỹ đạo, thì tên lửa đã qua sử dụng kia sẽ theo họ đến Mặt Trăng.
Trong vài sứ mạng Apollo đầu tiên, giải pháp của Nasa là đưa tên lửa S4B bay vào quỹ đạo Mặt Trời. Và ngày nay, tầng S4B của tàu Apollo 8, 9, 10 và 11 vẫn đang bay trong quỹ đạo Mặt Trời. Tuy nhiên tầng trên của tàu Apollo 12 đã bị lực hút Trái Đất kéo lại.
Với các sứ mạng khác, Nasa có một kế hoạch giàu trí tưởng tượng hơn.

NASA Bản quyền hình ảnhNASA
Image caption Nhóm chế tạo tên lửa Saturn V đã phải thiết kế lại tên lửa để đảm bảo nó không gây ra lực quá mạnh đến mức làm chết phi hành đoàn
Trong bộ các thiết bị thăm dò bề mặt Mặt Trăng Apollo (Alsep) mà các nhà du hành mặt trăng của Tàu Apollo 12 bỏ lại có máy đo địa chấn, là thiết bị chuyển tiếp dữ liệu về Trái Đất.
Khi để cho tầng S4B va chạm vào bề mặt Mặt Trăng, các nhà địa chất có thể lần theo dấu địa chấn, từ đó qua đá mặt trăng để tìm hiểu cấu trúc địa chấn của mặt trăng.
Khi nhiệm vụ tiến triển, và ngày càng nhiều tầng tên lửa rơi xuống, thì người ta càng có nhiều dữ liệu. Gói thử nghiệm Alsep tiếp tục gửi dữ liệu về đến tận năm 1977, khi Nasa kết thúc chương trình.

100: Là tỷ lệ phần trăm mây bao phủ trong đợt phóng tàu Apollo 12

Vào ngày 14/11/1969, bốn tháng sau khi đáp xuống Mặt Trăng, Nasa quyết định thực hiện lại hành trình. Trên tàu Apollo 12 gồm có: Pete Conrad, Dick Gordon và Alan Bean.
Ngày hôm đó có vài trận mưa do khối không khí lạnh di chuyển qua miền trung California, nhưng các nhà dự đoán khí tượng vẫn chấp nhận tiến hành vụ phóng tàu và quá trình đếm ngược diễn ra suôn sẻ.
Nhưng 36 giây sau khi phóng tàu, khi tên lửa Saturn V bay xuyên qua các đám mây, hệ thống điện trong khoang điều khiển bị hỏng.
"Cái quái quỷ gì thế này?" Conrad thốt lên.
Đó là phiên đầu tiên Gerry Griffin đóng vai trò giám đốc chuyến bay, ông trực tổng hợp phòng điều khiển bay.
"Họ đã nhận được cảnh báo chính và bảng cảnh báo có đèn cho biết tình trạng hỏng hóc xảy ra ở đâu, và Conrad bắt đầu đọc các thông tin đó,"Griffin nói. "Toàn bộ bảng cảnh báo cơ bản là đã bật sáng hết."
Khi tên lửa tiếp tục bay vào quỹ đạo, Griffin tìm ra một giải pháp. "Cậu trai trẻ này đến từ một trường cao đẳng nhỏ ở miền đông nam Oklahoma có tên là John Aaron, khi ấy tôi đoán là cậu chừng 25 tuổi, đã ra quyết đinh, cậu nói 'bảo ông ấy chuyển SCE sang Aux."

NASA Bản quyền hình ảnhNASA
Image caption Trong một đợt phóng, các kỹ sư phát hiện ra tên lửa Saturn V có thể tự tạo ra sét
Griffin chưa bao giờ nghe nói đến nút công tắc này nhưng ông đã yêu cầu nhân viên phụ trách truyền thông tin là Gerry Carr phát lại tin nhắn tới tàu vũ trụ.
"Conrad cũng chưa bao giờ nghe nói đến công tắc này, nên ông nói 'chuyển SCE sang Aux là cái quái gì vậy?' nhưng Al Bean biết công tắc đó nằm ở đâu, nó ở ngay trước mặt ông."
Họ bật công tắc đó lên, khoang điều khiển nhanh chóng trở lại kết nối. Và khi các máy tính hướng dẫn được khởi động lại, phi hành đoàn tiếp tục bay đến Mặt Trăng.
Sau này khi các kỹ sư phân tích vụ phóng tàu, họ khám phá ra rằng tên lửa đã tự tạo ra sét, khí thải tạo ra dòng điện giữa các hạt phân tử mang điện tích trong mây và trên mặt đất.
May mắn là tia sét không ảnh hưởng đến máy tính tách riêng dùng cho tên lửa, nhờ vậy dù trải qua kịch tính, máy tính đó vẫn tiếp tục khiến tàu vũ trụ bay đúng hướng.
"Thật hài hước khi nghe phi hành đoàn kể lại sau đó," Griffin cho biết. "Họ cười khúc khích, nó gần như một tai nạn trong xe hơi… chuyến hành trình vào quỹ đạo đó trở nên rất buồn cười sau đó."
Bài tiếng Anh đã đăng trên BBC Future.

 https://www.bbc.com/vietnamese/vert-fut-48920915

50 năm chinh phục Mặt Trăng qua 50 con số: Vận tốc, khoảng cách

  • 16 tháng 7 2019

Nasa Bản quyền hình ảnhNASA

Mặt Trăng có lẽ chỉ có trọng lực bằng một phần sáu Trái Đất, nhưng các phi hành gia vẫn kiệt sức khi họ nhảy trên bề mặt Mặt Trăng. Vậy họ đã đi bộ được bao xa?

362: Là tổng khối lượng đá mặt trăng đã được thu thập, tính bằng kilograms

Chương trình Apollo được coi là thách thức chính trị để đánh bại người Nga trong hành trình chinh phục Mặt Trăng.
Chinh phục Mặt Trăng: Những người hy sinh vì Apollo
Saturn V: Tên lửa đưa con người lên Mặt Trăng
Chuyện ăn uống, vệ sinh khi đi chinh phục Mặt Trăng
Để đạt mục tiêu, Apollo trở thành thách thức kỹ thuật, và cuối cùng trở thành thách thức khoa học - cần phải đảm bảo để các phi hành gia làm được điều hữu ích khi họ tới được Mặt Trăng.
Để làm được điều này, vấn đề then chốt là cần phải huấn luyện phi hành đoàn Apollo trong lĩnh vực khảo sát địa chất. Bên cạnh nhiều khoá học khác nhau, các phi hành gia cũng đi điền dã ở Hawaii, Mexico, Iceland và Đức. Họ học về cấu trúc đá, núi lửa và các hố va chạm thiên thạch.
"Việc đó cực kỳ vui," phi công ở khoang điều hành của tàu Apollo 15 Al Worden nói. "Chúng tôi tự phác hoạ các hình ảnh trong tâm trí để xem mình muốn tìm kiếm thứ gì."
Trên Mặt Trăng, các phi hành gia được trang bị búa, xẻng và khoan. Thế còn phi công khoang điều khiển bay trong quỹ đạo mặt trăng như Worden sẽ quan sát các khu vực rộng lớn hơn nhiều.
"Tôi bay phía trên khu vực hạ cánh và mô tả các tính chất khái quát ở khu vực đó; các chi tiết này bổ sung cho những gì họ tìm thấy trên bề mặt," Worden kể lại. "Tôi nghĩ việc đó thực sự đã giúp dựng lại bức tranh về Mặt Trăng."
Nhà địa chất học đầu tiên (và cũng là duy nhất) đến Mặt Trăng là Harrison Schmitt. Trong sứ mệnh Apollo 17, ông khám phá ra những hạt đá màu cam - bằng chứng mạnh mẽ cho thấy có hoạt động núi lửa trên Mặt Trăng. Phi hành đoàn đem về khoảng 741 mẫu vật, cân nặng khoảng 111kg.

Nasa Bản quyền hình ảnhNASA
Image caption Các phi hành gia đã đem về hơn 360kg đá Mặt Trăng để nghiên cứu trên Trái Đất
2.200 mẫu đá và đất thu thập từ Mặt Trăng được đưa đến phòng thí nghiệm tiếp nhận mẫu phẩm ở Houston. Tuy nhiên, các phi hành gia, ít nhất là các thành viên trong chuyến Apollo 11, trước tiên là phải điền vào mẫu khai báo hải quan.
TQ, châu Âu và tham vọng lên Mặt Trăng định cư
Đưa người lên Mặt Trăng: canh bạc đầy rủi ro của Mỹ
Người Âu lên vũ trụ cũng phải học tiếng Trung
Đá mặt trăng từ đó đã được hiến tặng lại cho chính phủ, bảo tàng hoặc cho các học viện khoa học mượn để nghiên cứu. Một số mẫu đá khác vẫn còn khóa trong thùng bảo quản, chưa bao giờ được chạm tới từ khi thu thập về Trái Đất.
Phân tích mẫu vật đã tiết lộ lịch sử Mặt Trăng và đem lại bằng chứng mạnh mẽ cho thấy Trái Đất và Mặt Trăng được hình thành từ tác động khổng lồ giữa hành tinh thuở ban sơ và vật thể thiên văn khác.

60: Là số dặm các phi hành gia di chuyển trên Mặt Trăng

Những người điều hành sứ mệnh hài lòng vì Neil Armstrong và Buzz Aldrin đã không đi lang thang xa khỏi nơi đậu tàu đáp, nơi để họ có thể trở về nhà. Khoảng cách xa nhất mà phi hành đoàn đi bộ được là đi đến gần một miệng núi lửa gần đó, cách xa khoảng nửa dặm.
Nhưng khi các sứ mệnh tiếp tục tiến triển và thời gian ở lại bề mặt Mặt Trăng tăng lên, các phi hành gia đã đi bộ xa hơn. Thậm chí trong tình trạng trọng lực chỉ bằng một phần sáu Trái Đất, thì nhảy vòng quanh Mặt Trăng cũng rất mệt và họ chỉ đi được với khoảng cách hạn chế.
Trong sứ mệnh Apollo 15 vào năm 1972, Dave Scott và Jim Irwin được lái chiếc xe địa hình đầu tiên trên Mặt Trăng. Với tốc độ tối đa khoảng 16km/giờ, chiếc xe điện có thể chở họ đi khoảng 14 dặm.
"Chiếc xe địa hình vận hành khá tốt… tôi có thể điều khiển xe tương đối thuận lợi." Scott báo cáo với bộ phận điều khiển bay. "Nó vượt qua những núi lửa nhỏ khá dễ dàng nhưng có vẻ như chúng tôi cần có thiết bị thắt dây an toàn."
"Nghe hệt như hướng dẫn dành cho người sử dụng vậy, Dave ạ," bộ phận mặt đất đáp lại ông.
Kỷ lục lái xe trên Mặt Trăng hiện vẫn do người cuối cùng đáp xuống Mặt Trăng, Gene Cernan, nắm giữ. Trong chuyến bay Apollo 17 mà ông đáp xuống Mặt Trăng cùng Harrison Schmitt, ông đi được đến 22 dặm (khoảng 35km) theo đồng hồ - di chuyển tới mức tối đa cách khỏi tàu vũ trụ, bốn dặm.
4,5: Là thể tích khoang tàu sinh hoạt, tính bằng mét khối
Sau sự căng thẳng của chuyến đáp xuống Mặt Trăng và hai giờ rưỡi đi bộ trên bề mặt Mặt Trăng, Neil Armstrong và Buzz Aldrin đóng khoang tàu đáp và tái điều áp khoang lái. Họ đã kiệt sức. Trước khi bay trở lại khoang điều khiển trong quỹ đạo, họ có lịch đi ngủ.
"Khoảng thời gian nghỉ ngơi gần như chẳng được gì," Armstrong sau đó viết trong báo cáo chuyến bay. "Tiếng ồn, ánh sáng và nhiệt độ thấp hơn mong đợi khiến cho cảm giác thật khó chịu."

Nasa Bản quyền hình ảnhNASA
Image caption Bằng cách đi bộ và dùng xe địa hình, các phi hành gia tàu Apollo đã di chuyển được khoảng 60 dặm trên bề mặt Mặt Trăng
Khoang lái mặt trăng đã chứng tỏ được rằng nó là một tàu vũ trụ cực kỳ tuyệt vời, nhưng khi đóng vai trò là khoang sinh hoạt thì nó không hề tiện nghi chút nào. Vỏ hình trụ cồng kềnh của động cơ đẩy - trồi lên như một cái thùng chình ình giữa khoang lái - khiến cho không gian trên sàn chẳng còn được bao nhiêu.
48 giờ bất hạnh thử làm phi hành gia
Phẫu thuật trên vũ trụ thế nào?
Armstrong định ngủ ngay trên vỏ động cơ còn Aldrin ngủ trên sàn.
"Các tấm chặn cửa sổ không che hoàn toàn được ánh sáng, khoang lái thì phát sáng bởi một loạt ánh sáng qua xuyên qua tấm chặn kết hợp với đèn cảnh báo và đèn màn hình," Armstrong phàn nàn.
"Tiếng ồn từ các máy bơm glycol sau đó to tới mức khiến giấc ngủ bị ngắt quãng," ông viết thêm. "Phi công khoang tàu đáp mặt trăng [Aldrin] ước tính anh chỉ ngủ ngắt quãng trong khoảng hai giờ và người chỉ huy thì không thể ngủ được gì cả."
Trong các sứ mệnh không gian sau đó, phi hành gia chỉ mặc đồ lót ngủ trên võng. Tuy nhiên, với tất cả sự hứng khởi khi đến Mặt Trăng thì chỉ có một số người báo cáo là họ có giấc ngủ ngon.

7: Là vận tốc tối đa khi quay trở lại Trái Đất, tính bằng dặm trên giây

Ngày 27/12/1968, phi hành đoàn tàu Apollo 8 đã trở thành một trong những người bay nhanh nhất trong lịch sử. Sau khi bay đến Mặt Trăng, Frank Borman, Jim Lovell và Bill Anders chuẩn bị quay trở về bầu khí quyển Trái Đất. Họ đã bay với vận tốc 36.303 feet/giây (tương đương gần 7 dặm/giây).
Đây có thể là phép thử cuối cùng cho khoang điều khiển tàu Apollo và lớp vỏ nhựa chống nhiệt của tàu, được thiết kế để bảo vệ phi hành đoàn khỏi nhiệt độ lên đến 3.000 độ C.
"Chúng tôi sử dụng bầu khí quyển để giảm tốc," Borman kể lại. "Từ góc độ vật lý, đó là phần gian truân nhất của sứ mệnh vì chúng tôi phải di chuyển với vận tốc nhanh gấp sáu lần Lực G (lực rơi tự do) trong một thời gian dài, và điều đó khiến cho việc hít thở trở nên khó khăn."
"Nó giống như ta đang bay trong một cái bóng đèn neon hay một cái đèn hàn vậy - đó là phần kịch tính nhất của chuyến bay."

Nasa Bản quyền hình ảnhNASA
Image caption Tàu đáp xuống mặt trăng có thiết kế cực kỳ xuất sắc - nhưng lại không trang bị tiện nghi đủ mức cho phi hành đoàn hai người
Nhưng đó không phải là điều bất tiện nhất. Rơi xuống Thái Bình Dương vào ban đêm, chiếc tàu vũ trụ đã bị lật úp, khiến các phi hành gia phải ngồi kẹt tại ghế.
"Tàu vũ trụ là một chiếc thuyền rất tệ," Borman kể. "Chúng tôi phải chờ khoảng hai giờ cho đến khi trời sáng vì Hải quân không muốn cho thợ lặn ra quân khi ở đó có cá mập."
"Tôi bị say sóng biển và nôn lên khắp người Anders và Lovell," ông kể. "Tới giờ tôi vẫn nghe về chuyện đó."
Tốc độ kỷ lục của họ không duy trì được nhiều tháng. Kỷ lục về chuyến bay trở về Trái Đất và cũng là kỷ lục về tốc độ nhanh nhất con người từng đạt tới đã thuộc về phi hành đoàn tàu Apollo 10. Trong tháng 5/1969, họ trở về Trái Đất với vận tốc 36.397 feet/giây (nhanh hơn 94 feet/giây so với Apollo 8), tương đương với 39.705 km/giờ (đạt gần 7 dặm/giây).

238.855: Là khoảng cách đến Mặt Trăng, tính bằng dặm

Sau cơn căng thẳng của chuyến đáp xuống Mặt Trăng, một số phi hành gia cảm thấy cuộc du hành đến Mặt Trăng khá nhàm chán.
"Trong ba ngày rưỡi chúng tôi chẳng làm gì cả," phi công khoang điều khiển của tàu Apollo 15, Al Worden, cho biết. "Tất cả những gì chúng tôi phải làm là đợi cho đến khi chúng tôi đến Mặt Trăng và đó là khoảng thời gian khá nhàm chán."
Khi Trái Đất dần lùi xa, các phi hành gia nói chuyện, đọc sách, nghe nhạc ,hoặc cố gắng tập thể thao bằng dây kháng lực. Họ cũng tham gia vào chương trình truyền hình. Bạn có thể liên tưởng việc này giống với việc bị mắc kẹt trong một chiếc xe nhỏ với hai đồng nghiệp, thỉnh thoảng ngồi phát trực tiếp kể lại trải nghiệm.
"Có một vài khoảnh khắc trong ngày trong chuyến bay đi chúng tôi cảm thấy cần phải điều chỉnh quỹ đạo hành trình," ông nói thêm. "Đó là điều thú vị nhất chúng tôi thực hiện khi bay."

Nasa Bản quyền hình ảnhNASA
Image caption Phi hành đoàn có ba ngày rưỡi gần như không có việc gì trong làm trong hành trình từ Trái Đất đến Mặt Trăng
Lý do chúng ta biết khoảng cách đến Mặt Trăng chính xác như vậy nhờ vào một trong những thí nghiệm được lắp đặt trên bề mặt Mặt Trăng trong sứ mệnh của Worden.
Các phi hành gia tàu Apollo 11, 14 và 15 bỏ lại các thiết bị đo khoảng cách bằng tia laser (Laser Ranging Retroreflectors - LRR). Những chiếc gương đặc biệt đó được thiết kế để phản chiếu tia laser chiếu qua một kính viễn vọng từ Trái Đất. (Thật tình cờ là nếu bạn muốn quy đổi khoảng cách này sang chiều dài cuộc chạy marathon, bạn sẽ cần chạy 9.186 cuộc marathon để đạt được con số trên).
Chúng vẫn còn được sử dụng đến ngày nay và đã giúp các nhà thiên văn hiểu rõ hơn về quỹ đạo Mặt Trăng. Họ cũng khám phá ra rằng Mặt Trăng đã bay xa hơn khỏi Trái Đất - nó hiện dần xa Trái Đất thêm 38mm mỗi năm.
Bài tiếng Anh đã đăng trên BBC Future.

 https://www.bbc.com/vietnamese/vert-fut-49008156


50 năm chinh phục Mặt Trăng qua 50 con số: Sự ra đời của lò vi sóng

  • 18 tháng 7 2019

Getty Images Bản quyền hình ảnhGetty Images

Những sứ mệnh không gian kéo dài nhiều ngày đòi hỏi các phi hành gia cần có thực phẩm chất lượng cao. Nhưng làm sao để họ nấu ăn trong vũ trụ?

170: Là cân nặng của khẩu phần bò bít tết ăn sáng của các phi hành gia, tính theo đơn vị gram

Mỗi phi hành gia Nasa từ thời Alan Shepard hồi năm 1961 đều được mời bữa sáng ngon lành trước khi bay vào không gian.
Vận tốc, khoảng cách khi chinh phục Mặt Trăng
Chuyện ăn uống, vệ sinh khi đi chinh phục Mặt Trăng
Saturn V: Tên lửa đưa con người lên Mặt Trăng
Tất cả các bữa ăn trước chuyến bay Apollo được chuẩn bị đặc biệt về mặt dinh dưỡng, về lượng calorie và đặc biệt là theo yêu cầu của các bác sĩ là "có dư lượng thấp".
Nói cách khác, các bữa ăn ít chất xơ sẽ khiến phi hành gia không cần phải đi vệ sinh sớm sau khi cất cánh.
Những sứ mệnh không gian đầu tiên cũng hạn chế việc cho uống cà phê trước khi phóng tàu, do đây là thức uống kích thích lợi tiểu. Chuyến bay Mercury của Shepard chẳng hạn, chỉ diễn ra trong 15 phút nên các bác sĩ xác định rằng ông có thể tránh đi tiểu cho tới khi tàu được thả về mặt đất. Không may thay, họ không tính tới khoảng thời gian bị trì hoãn khi đếm ngược.
"Họ đặt Alan Shepard vào đỉnh tên lửa mà không có cách nào để ông đi tiểu," phóng viên Jay Barbree, người bình luận về sứ mệnh không gian của Hoa Kỳ trên Đài NBC Mỹ, nói.
"Sau hai giờ, ông bắt đầu than phiền và khổ sở xin phép được tiểu trong trang phục không gian - cuối cùng thì họ cũng cho phép ông làm vậy." Nhà phi hành gia này sau đó thấy đỡ hơn nhưng cảm biến y tế thì rối loạn lên.
Những phi hành gia bay trên tàu vũ trụ Apollo thường sử dụng thiết bị thu thập nước tiểu cá nhân - giống như bao cao su - và kết nối với hệ thống xử lý đẩy chất thải từ một cổng bên hông tàu vũ trụ.
Với chất thải rắn thì có túi nhựa và hầu hết các phi hành gia cố gắng tránh đi vệ sinh ở mức tối đa. Người đầu tiên phải đi vệ sinh trên tàu Apollo 7 là Walk Cunningham.
"Rất khó để mọi thứ vận hành đúng như dự tính," ông kể lại với tôi. "Bạn có thể hứng được mọi thứ nhưng sau đó bạn cần phải lấy được mấy viên thuốc từ trong cái túi đó rồi phải bỏ thời gian trộn những viên đó với đủ thứ bạn đang đựng trong đó - không hay ho gì."

2.800: Là lượng calories tiêu thụ hàng ngày

Người Mỹ đầu tiên ăn bữa ăn trong không gian là John Glenn. Trong chuyến bay kéo dài 5 giờ, ông thử nghiệm ăn qua một ống tuýp - hơi giống như tuýp kem đánh răng - đựng món táo nghiền nhuyễn. Hành động đó chứng minh được rằng mọi người có thể nuốt và tiêu hóa thức ăn trong tình trạng không trọng lực.
Với các sứ mệnh Gemini có hai người tham gia vào giữa thập niên 1960, các phi hành gia được phân phối 2.500 calories một ngày và ăn thức ăn đựng trong túi nhựa chứa thức ăn được làm khô, đông lạnh do công ty Whirlpool sản xuất (là hãng chuyên sản xuất thiết bị gia dụng).
Làm khô, đông lạnh thức ăn là quá trình gồm có nấu thức ăn, nhanh chóng làm đông lạnh chúng và sau đó làm ấm lên từ từ trong một lò chân không để loại bỏ các phân tử băng do quá trình đông lạnh tạo ra.

Getty Images Bản quyền hình ảnhGetty Images
Image caption Phi hành đoàn Apollo 11 ăn món bò bít tết và trứng trước khi cất cánh - bữa ăn "có dư lượng thấp" khiến họ không cần phải đi vệ sinh ngay sau khi tàu cất cánh
Các phi hành gia xịt nước qua vòi phun để làm ướt thức ăn và nhào hỗn hợp đó thành một khối chất lỏng đặc và dính. Các bữa ăn ngon lành hơn món ăn từ ống tuýp trên tàu Mercury, và có nhiều hương vị như bò và nước sốt thịt, nhưng nước thì lạnh, nên thức ăn thường kém ngon đi.
TQ, châu Âu và tham vọng lên Mặt Trăng định cư
Đưa người lên Mặt Trăng: canh bạc đầy rủi ro của Mỹ
Người Âu lên vũ trụ cũng phải học tiếng Trung
Trong sứ mệnh Gemini đầu tiên - tàu Gemini 3 vào năm 1965 - John Young gây ra một vụ bê bối nhỏ, và đó là điểm trừ duy nhất trong sự nghiệp phi hành gia đầy mẫu mực của ông. Đó là ông lén đem một cái sandwich thịt bò xay lên khoang. Chuyện như đùa này có thể gây ra vấn đề nghiêm trọng với tàu vũ trụ, vì người ta lo sợ rằng những mẩu vụn bánh có thể gây chập mạch điện trên tàu vũ trụ.
Trong các sứ mệnh Apollo, mà phi hành gia có thể tập thể dục chút ít trong khoang và nỗ lực đến được Mặt Trăng, các nhà dinh dưỡng học của Nasa tăng lượng calorie tiêu thụ lên mức 2.800.
Thức ăn không chỉ ngon hơn, mà súng nước - cung cấp nước từ các khối nhiên liệu của tàu vũ trụ - đã có cả nước nóng và lạnh. Và bữa ăn không chỉ được ăn bằng ống hút, mà các phi hành gia thậm chí có thể dùng muỗng ăn một số loại thức ăn.

6: Là số lượng túi bánh dứa

Khoang ăn của tàu vũ trụ Apollo luôn chứa đầy quà vặt. Cùng với sáu khẩu phần bánh dứa trái cây, còn có nhiều túi bánh brownie, bánh sô-cô-la và kẹo dẻo trái cây.
Để họ thấy ngon miệng hơn, còn có bánh quy nhạt ăn kèm phô-mai và thịt bò khô BBQ. Các phi hành gia tàu Apollo thậm chí được phân phối 15 gói kẹo sing-gum, mỗi gói có 4 thanh kẹo.
Một bữa ăn thông thường trên tàu Apollo 17 gồm có món chính là cơm và thịt gà, tráng miệng bằng món pudding rưới sốt bơ và "bánh quy Graham Cracker". Họ có thể ăn cùng với cà phê uống liền, nước trà, ca-cao hay nước chanh.

Getty Images Bản quyền hình ảnhGetty Images
Image caption Thực phẩm của các phi hành gia rất giàu dinh dưỡng - nhưng không hẳn là rất ngon miệng
Các sứ mệnh từ Apollo 15 trở về sau còn có những "thanh dinh dưỡng có dưỡng chất xác định" ít hấp dẫn hơn.
Đó là tiền thân của các thanh dinh dưỡng thời bây giờ. Chúng được đặt phía trước mũ bảo hiểm của phi hành gia trong quá trình họ đi bộ trên Mặt Trăng cùng với ống nước uống. Cách này cho phép họ ăn uống - uống nước hoặc thức uống có vị trái cây - trong chuyến du hành kéo dài trên bề mặt Mặt Trăng.
Dù có chế độ dinh dưỡng đa dạng và tăng cường lượng calories, hầu hết mọi phi hành gia đều giảm cân trong quá trình thực hiện sứ mệnh.
Neil Armstrong giảm 4kg trong chuyến bay Apollo 11. Trong sứ mệnh Apollo 13, chỉ huy Jim Lovell giảm 6kg, một phần là vì bị mất nước vì chỉ được uống theo khẩu phần.
Kể từ chương trình Apollo, thực phẩm trong không gian tiếp tục có nhiều bước tiến bộ.
Ngày nay các phi hành gia ăn gần như chế độ ăn bình thường mặc dù họ thường thèm trái cây tươi và rau xanh - đó là món ăn hiếm chỉ có được khi tàu vận tải hàng đến.

0: Là số ly rượu brandy được tiêu thụ

Giáng Sinh năm 1968, và phi hành đoàn Apollo 8 đang trên đường từ Mặt Trăng trở về.
Họ có một túi quà đặc biệt gây kinh ngạc từ lãnh đạo đội phi hành gia, Deke Slayton. Bên trong túi là một bữa ăn Giáng Sinh trọn vẹn - có đầy đủ gà tây, sốt thịt và sốt nam việt quất, và túi thức ăn đó thậm chí còn không cần phải xịt nước vào cho mềm ra.
"Đó là một gói thực phẩm mới mà chúng tôi chưa từng được thử trước đó," chỉ huy của phi hành đoàn Frank Borman kể lại. "Chúng tôi có bữa ăn ngon nhất trong chuyến hành trình vào Lễ Giáng Sinh - tôi thực sự rất vui vì được ăn gà tây, sốt thịt và tất cả mọi món."
Nhưng Slayton còn gửi thêm cho họ một món quà gây ngạc nhiên khác. "Ông ấy đã tuồn lên khoang tàu cho chúng tôi ba ly rượu brandy," Borman kể lại. "Nhưng chúng tôi đã không uống."

Nasa/Getty Images Bản quyền hình ảnhNasa/Getty Images
Image caption Không có lò nấu, thức ăn phải được nhào trộn bằng cách thêm nước lạnh vào
"Nếu có bất cứ gì không hay xảy ra, người ta có thể đổ lỗi cho rượu brandy vì vậy chúng tôi mang rượu về nhà," ông nói. "Tôi không biết điều gì đã xảy ra với ly rượu của tôi - có lẽ giờ nó đáng giá rất nhiều tiền."
Thức uống có cồn đã từng được uống trong không gian - hầu hết là với lượng rất nhỏ, do các phi hành gia người Nga uống trong trạm không gian vũ trụ thời ban đầu.
Tuy nhiên, giờ đây thức uống có cồn bị cấm trên Trạm Không gian Quốc tế. Thậm chí một lượng nhỏ cũng có thể phá hỏng hệ thống phức hợp khôi phục nguồn nước của trạm, là hệ thống lấy nước từ mồ hôi và nước tiểu của phi hành gia.

15: Là số lượng phần ăn nấu sẵn có thể hâm nóng bằng lò vi sóng mà phi hành đoàn tàu Apollo 11 đã ăn

Trong danh sách dài những lợi ích loài người có được từ chương trình không gian thì thức ăn nấu sẵn có lẽ là một ứng viên bất ngờ.
Nhưng không có Apollo thì lò vi sóng mà ngày nay rất nhiều người sở hữu trong nhà bếp hay hàng triệu phần ăn đóng gói nấu sẵn được tiêu thụ mỗi ngày có lẽ đã không bao giờ được phát triển.
Đúng như vậy… chương trình Apollo đã góp phần vào đại dịch béo phì toàn cầu.

NASA Bản quyền hình ảnhNASA
Image caption Nasa tính toán rằng những phi hành gia đáp xuống Mặt Trăng cần đến 2.800 calories mỗi ngày
Khi Neil Armstrong, Buzz Aldrin và Michael Collins trở về từ Mặt Trăng và đang phải ở lại trên tàu USS Hornet, họ sống vài ngày đầu tiên ở Cơ sở Cách ly Di động (MQF) để bảo vệ thế giới khỏi bất cứ loại dịch bệnh gì có thể đến từ mặt Trăng.
Mặc dù MQF có nhiều ghế ngồi tiện nghi, giường và nhà vệ sinh và nhà tắm, nhưng không gian để nấu ăn thì rất hạn chế.
Không có phòng hay lò hay lò nướng truyền thống - và để giảm thiểu nguy cơ gây cháy - Nasa tìm kiếm một giải pháp sáng tạo.
"Đây là lò vi sóng mái bằng đầu tiên, phát triển cho chương trình không gian Apollo," Bob Fisher, người đại diện từ tàu Hornet, giờ là bảo tàng ở Oakland, California, nói.
"Nasa tìm đến công ty Litton Industries, là công ty đã phát triển lò vi sóng khổng lồ mà con người có thể bước vào trong, và đề nghị họ thu nhỏ chiếc lò lại để nó có thể vừa với không gian như vậy," Fish nói.
"Thế là họ thu nhỏ nó lại, và lần đầu tiên những người này thử lò bằng cách bỏ vài quả trứng vào và bấm nút khởi động - chiếc lò làm nổ tung mấy quả trứng vì họ không giảm năng lượng xuống mà chỉ giảm kích cỡ chiếc lò xuống."
Sau những khó khăn ban đầu đó, lò vi sóng cho thấy đây là thành quả to lớn, cho phép các phi hành gia hâm nóng thức ăn đông lạnh mỗi ngày.
Điều này có nghĩa là có những bữa sáng được nấu trọn vẹn, có sườn bò và thậm chí tôm hùm. Tráng miệng thường có kem, bánh quả hồ đào và bánh ga-tô anh đào.
Một khi các phi hành gia được đưa đến Houston và chuyển đi (vẫn ở diện cách ly) đến Phòng Thí nghiệm Các Mẫu phẩm từ Mặt Trăng, thực phẩm tiếp tục có tiến bộ hơn. Họ được ăn thức ăn nấu tươi tại bàn với khăn trải bàn trắng mới tinh.

https://www.bbc.com/vietnamese/vert-fut-49034575

50 năm chinh phục Mặt Trăng qua 50 con số: Chuyện sức khoẻ, thuốc men, chữa trị

  • 13 tháng 7 2019
Getty Images Bản quyền hình ảnhGetty Images
Các phi hành gia trên tàu vũ trụ Apollo đã gặp phải những sự cố sức khỏe và để lại dấu ấn trong sứ mệnh chinh phục Mặt Trăng.

24: Là số viên thuốc chống nghẹt mũi mà phi hành đoàn tàu Apollo 7 uống

Được phóng vào ngày 11/10/1968, Apollo 7 là chuyến bay thử nghiệm có người lái đầu tiên của tàu vũ trụ Apollo bay vào quỹ đạo Trái Đất.
Vận tốc, khoảng cách khi chinh phục Mặt Trăng
Saturn V: Tên lửa đưa con người lên Mặt Trăng
Chinh phục Mặt Trăng: Những người hy sinh vì Apollo
Đưa người lên Mặt Trăng: canh bạc đầy rủi ro của Mỹ
Sau sự cố các phi hành gia trên tàu Apollo 1 thiệt mạng do tai nạn hỏa hoạn, khoang điều khiển đã được thiết kế lại hoàn toàn.
Có rất nhiều thứ phụ thuộc vào nhiệm vụ này. Nếu sứ mệnh Apollo 7 thất bại, có thể Neil Armstrong sẽ không bao giờ được bước đi đầu tiên lên Mặt Trăng. Ít nhất là cho đến cuối thập niên - mục tiêu mà Tổng thống John F Kennedy đề ra vào năm 1961.
Tàu Apollo 7 do một trong những phi hành gia gạo cội nhất Nasa chỉ huy, Wally Schirra. Ông là cựu thành viên của các sứ mệnh Mercury và Gemini trước đó.
Cùng với ông trong khoang lái là hai phi hành gia tân binh Don Eisele và Walk Cunningham. Những nhà bình luận dự đoán rằng phi hành đoàn sẽ có nỗ lực đầu tiên trong việc đáp xuống Mặt Trăng.
Tuy nhiên, chỉ vài giờ sau khi phóng tàu, Schirra bị cảm.
"Tác động của trận cảm mà Wally mắc phải là cực kỳ to lớn," Cunningham kể lại. "Wally phải sổ mũi thường xuyên. Ông xì mũi vào khăn giấy Kleenex rồi gấp nó lại, bỏ qua một bên - sau vài lần như thế, Don và tôi đã phải nói, 'Không, không, anh phải dùng mấy cái khăn Kleenex kia nhiều lần hơn nữa."
Khăn giấy đã sử dụng nằm vương vãi đầy khoang lái và trận cảm không chỉ gây khó chịu cho cả phi hành đoàn.
Tình trạng sức khỏe của Schirra khiến ông mệt mỏi, khó chịu, và điều này thể hiện rõ khi ông trao đổi với bộ phận mặt đất.
"Mối quan hệ giữa chúng tôi ở phòng điều khiển bay và phi hành đoàn rất thú vị," Gerry Griffin, giám đốc điều hành chuyến bay ở phòng điều khiển bay nói.
Nasa / Getty Images Bản quyền hình ảnhNasa / Getty Images
Image caption Wally Schirra phát hiện vấn đề đầu tiên khi ông bị cảm trong không gian trong lúc là thành viên phi hành đoàn tàu Apollo 7
Trong một loạt chuyện trò đầy khó chịu, Schirra từ chối không nghe theo chỉ dẫn, tranh luận về quy trình và thậm chí ông bảo sếp mình - là phi hành gia từng cùng bay trong sứ mệnh Mercury 7 với ông, Deke Slayton - là hãy đi chết đi.
TQ, châu Âu và tham vọng lên Mặt Trăng định cư
Người Âu lên vũ trụ cũng phải học tiếng Trung
48 giờ bất hạnh thử làm phi hành gia
Phẫu thuật trên vũ trụ thế nào?
"Cho đến giờ, ở mức độ nào đó, đó vẫn là điều khó hiểu với tôi," Griffin nói. "Tôi bị sốc. Tôi thực sự bị sốc."
Sau 11 ngày bay trong quỹ đạo, phi hành đoàn trở về Trái Đất. Sứ mệnh là thành công về mặt kỹ thuật, khi chứng minh được khả năng của tàu Apollo.
Trong suốt thời gian diễn ra hành trình, Schirra sử dụng hết toàn bộ khăn giấy và uống tất cả 24 viên thuốc chống nghẹt mũi trong hộp y tế trang bị trên tàu vũ trụ.
Thật không may là hành vi của ông bị coi là hình ảnh của cả phi hành đoàn. Không một ai trong số họ được bay vào không gian lần nữa.

3: Là số trường hợp bị đầy hơi

Các bác sỹ theo dõi sức khỏe phi hành đoàn trong quá trình bay thu thập thông tin chi tiết về phi hành đoàn tàu Apollo trước chuyến bay, trong suốt hành trình và khi kết thúc sứ mệnh.
Các báo cáo về vấn đề y tế trong chuyến bay bao gồm tình trạng bị ngứa vì đeo thiết bị thu nước tiểu quá lâu, mắt bị khó chịu - và nghiêm trọng nhất trong sứ mệnh Apollo 15 là nhịp tim bất thường.
Một phi hành gia bị trật bả vai khi ông thu thập mẫu vật từ lõi Mặt Trăng, và vì phải hạn chế khẩu phần nước, phi hành đoàn tàu Apollo 13 đã bị rơi vào tình trạng thiếu nước.
Ba phi hành gia này trình báo tình trạng họ bị đầy hơi - mà hầu như là do chế độ ăn uống gây ra.
Các bác sĩ tin rằng tình trạng tim mạch trong sứ mệnh Apollo 15 là do cơ thể thiếu kali. Vì vậy trong sứ mệnh Apollo 16, bác sĩ tăng lượng trái cây cam quýt trong bữa ăn của phi hành gia.
Khi chỉ huy tàu Apollo 16 John Young bước đi trên Mặt Trăng, ông chia sẻ cảm giác về thực đơn dinh dưỡng mới với người đồng hành Charlie Duke. Những bình luận đó vô tình được chuyển tiếp tới phòng điều khiển bay… và phát ra toàn thế giới.
NASA Bản quyền hình ảnhNASA
Image caption Một số thực phẩm được cho là khiến các phi hành gia bị đầy hơi quá mức - không phải là tình huống hay ho với những người bị bó mình trong bộ trang phục phi hành gia
"Tôi lại trung tiện nữa rồi," ông nói với Duke. "Tôi không biết cái thứ chết tiệt gì đã khiến tôi bị vậy… tôi nghĩ đó là do axit trong dạ dày, tôi thực sự nghĩ vậy."
"Tôi chưa từng ăn nhiều cam quýt tới vậy trong 20 năm!" ông nói thêm. "Và để tôi nói cho anh nghe điều này, trong 12 ngày khốn kiếp tới, tôi sẽ không ăn thêm chút nào nữa."
Bị đầy hơi khi đang bó mình trong bộ cánh phi hành gia là quá đủ tồi tệ rồi, nhưng trong sứ mệnh Apollo 10, một trong các phi hành gia đã không đóng túi phân cẩn thận sau khi đi vệ sinh. Kết quả là đã có những thắc mắc về chuyện phân của ai đang bay quanh họ trong khoang tàu.

150: Là nhịp tim của Neil Armstrong khi ông đáp xuống bề mặt Mặt Trăng

Chỉ huy tàu Apollo 11 khét tiếng là bình tĩnh và rất tự chủ khi gặp áp lực. Điều đó khiến ông trở thành phi công bay thử nổi trội. Trong suốt sứ mệnh, từ khi phóng tàu đến khi bị đẩy văng xuống biển, nhịp tim trung bình của Neil Armstrong là 71 nhịp mỗi phút.
Vào ngày 20/07/1969, khi tách khỏi khoang điều khiển, Armstrong và Aldrin khởi động động cơ đáp của tàu hạ cánh mặt trăng để giảm tốc và phóng họ vào quỹ đạo Mặt Trăng.
Khi họ hạ cánh xuống bề mặt Mặt Trăng, với tất cả hệ thống hoạt động bình ổn, nhịp tim của Armstrong vẫn khá ổn định ở khoảng 110 nhịp/phút.
Nhưng khi còi báo động máy tính vang lên, nhịp tim của Armstrong bắt đầu tăng.
Nhịp tim ông giảm xuống khi Houston ra lệnh cho phi hành đoàn "tiến hành", nhưng khi họ gần chạm bề mặt và khu vực hạ cánh dự định hóa ra đầy những khối đá lớn, thì nhịp tim của ông tăng cao trở lại.
Ở độ cao 600m, nhịp tim của Armstrong là 120 nhịp/phút. Ở độ cao 300m, nhiên liệu cạn dần, nhịp tim ông tăng đến 150 nhịp/phút và giữ nguyên tốc độ này trong suốt quá trình đáp xuống Mặt Trăng.
Hai phút sau đó, trung tâm điều khiển bay ra lệnh cho phép "ở lại" và áp lực giảm dần, nhịp tim của vị chỉ huy giảm xuống, trở về mức bình thường.
Ngoài tình trạng căng thẳng trong sứ mệnh Apollo 15, một trong những nhịp tim cao nhất từng được ghi nhận trong không gian là trong sứ mệnh Gemini 9.
Vào ngày cuối cùng của hành trình, phi hành gia Gene Cernan phải đi bộ trong không gian để dặt một chiếc túi có trang bị động cơ tên lửa đặt vào bên rìa tàu vũ trụ. Khi ông cố gắng xoay sở để kích hoạt thiết bị mà không có chỗ bám hay dây cột, ông nhanh chóng kiệt sức.
NASA Bản quyền hình ảnhNASA
Image caption Thông thường, nhịp tim của Nei Armstrong ít khi nào tăng hơn 70 nhịp/phút - nhưng trong chuyến hạ cánh xuống bề mặt Mặt Trăng - mọi chuyện lại hoàn toàn khác đi
"Đó là một kế hoạch tồi tệ," Cernan kể tôi nghe trong cuộc phỏng vấn được thực hiện vài tháng trước khi ông qua đời. "Mỗi khi tôi vặn một cái van, thì cái van đó vặn tôi."
"Nhịp tim của tôi lên đến 170 nhịp/phút, các bác sĩ gần như nổi điên lên - họ không biết phải làm gì, họ biết tôi đang gặp rắc rối."
Dù bị nóng lên đến mức nguy hiểm và chiếc mũ phi hành gia mờ mịt vì mồ hôi, nhưng ông vẫn có thể quay trở lại tàu vũ trụ và đóng cửa khoang tàu.
"Tom [Stafford] cuối cùng cũng điều áp lại trong tàu vũ trụ và tôi có thể thở," Cernan nhớ lại. "Khi tôi gỡ mũ bảo hiểm ra, ông nói trông tôi như củ cải tím… và ông vớ lấy khẩu súng nước và xịt vào người tôi."

0.2: Là tổng lượng phơi nhiễm phóng xạ mà các phi hành gia trên tàu Apollo chịu, đơn vị tính là rads

Vệ tinh đầu tiên của Hoa Kỳ, có tên là Explorer 1, đã khám phá ra những vành đai phóng xạ cực mạnh - được đặt tên là Vành đai Bức xạ Van Allen - bay vòng quanh Trái Đất.
Dù bay cực nhanh qua chúng và vòng qua khu vực bức xạ mạnh nhất, người ta vẫn lo ngại khả năng các phi hành gia không thể sống sót trong hành trình đến Mặt Trăng và quay lại.
Vào năm 1966, Liên bang Xô Viết phóng hai chú chó không gian qua vành đai mà không thấy chúng bị ảnh hưởng gì. Nhưng các bác sĩ tại Nasa vẫn lo ngại tác động ảnh hưởng đến con người. Vì vậy khi chỉ huy tàu Apollo 8 - sứ mệnh đầu tiên rời quỹ đạo Trái Đất - bị bệnh, ý nghĩ đầu tiên xuất hiện là có thể ông bị nhiễm phóng xạ.
Getty Images Bản quyền hình ảnhGetty Images
Image caption Hai chú chó phi hành gia của Nga tên Belka và Strelka cho thấy động vật có thể vẫn sống khi bay qua vành đai bức xạ quanh Trái Đất
Frank Borman không gặp vấn đề sức khỏe gì trong chuyến bay kéo dài 14 ngày trên Tàu Gemini 7.
Phi hành đoàn tàu Apollo 7 cũng vậy, họ bay quanh quỹ đạo Trái Đất mà không bị đau bệnh gì.
Nhưng khi tàu Apollo 8 rời quỹ đạo Trái Đất, Borman bị ói mửa.
Ngày nay chúng ta đều biết rằng Borman bị triệu chứng phổ biến là say không gian - do tình trạng không trọng lực gây ra - và ông đã hồi phục sau vài giờ. Sứ mệnh Apollo 8 của ông trở thành một trong những sứ mệnh dũng cảm và thành công nhất trong lịch sử ngành khám phá không gian.
Theo báo cáo bay chính thức của tàu Apollo 11, phi hành đoàn nhiễm xạ ở mức độ 0.2 rads (hay ở mức 0,002 gray theo đơn vị chuẩn quốc tế ngày nay), và đó là mức độ "thấp hơn rất nhiều so với mức độ đáng chú ý về y tế".

21: Là số ngày cách ly sau khi trở về từ Mặt Trăng

Khi phi hành đoàn tàu Apollo 11 rơi xuống Thái Bình Dương, họ không được chào đón bằng những cái ôm và bắt tay. Thay vào đó, một đội hồi phục đến bằng tàu, họ mở khoang tàu ra, và vứt vào đó ba bộ trang phục bảo vệ sinh học và đóng khoang tàu lại.
Khi các phi hành gia xuất hiện, họ đã mặc kín trong những trang phục đó - mặt họ bị che kín bằng mặt nạ phòng độc.
Chỉ sau khi được trực thăng đưa đến hàng không mẫu hạm USS Hornet và bước vào khoang tàu thích nghi đặc biệt Airstream, họ mới được cởi bộ áo ra và thở bình thường.
Khoang Airstream bóng loáng màu bạc được gọi là Cơ sở Cách ly Di động (MQF) và được thiết kế để bảo vệ Trái Đất khỏi bất cứ loại côn trùng nguy hiểm nào từ Mặt Trăng - và những lây nhiễm từ mầm bệnh trong không gian.
Bên trong khoang cách ly, phi hành gia có thể thư giãn và họ được quan sát để xem có bất cứ triệu chứng bệnh nào từ chuyến hành trình Mặt Trăng hay không.
Tương tự, bất cứ ai cầm các mẫu đá từ Mặt Trăng mà phi hành gia mang về Trái Đất đều phải bị cách ly và theo dõi.
Getty Images Bản quyền hình ảnhGetty Images
Image caption Từ tàu Apollo 11, một số phi hành gia từ Sứ mệnh Mặt Trăng phải ở trong khoang cách ly một tuần khi họ trở về Trái Đất
"Đó là một khoang xe tải Airstream được lắp đặt trên một đế vận chuyển hàng hóa cho máy bay vận tải quân sự, vì thế người ta có thể đưa chúng lên máy bay vận tải," Bob Fish, từng làm việc trên tàu USS Hornet, nói.
Tàu này giờ đây được dùng làm bảo tàng ở Oakland, California. Khoang cách ly di động MQF từ tàu Apollo 14 được trưng bày trên khoang đậu máy bay của tàu.
Khoang cách ly được lắp hệ thống lọc không khí, có nhà bếp, phòng khách và phòng ngủ. Fish nói khoang này khá sang trọng.
"Ba người ở trong khoang lái tàu vũ trụ nhỏ xíu đó trong bảy đến tám ngày bò qua bò lại sát nhau, không có chút riêng tư gì, không được ngủ," ông cho biết. "Vì vậy nơi này thực ra trông như ngôi đền Taj Mahal với họ - họ có giường riêng, có buồng vệ sinh, có phòng tắm, họ có một nơi tử tế để ăn thức ăn thật."
Thời gian cách ly trong khoang riêng và sau đó ở cơ sở tại Houston cũng giúp các phi hành gia trên tàu Apollo 11 có thể trấn tĩnh lại và viết báo cáo về sứ mệnh họ vừa hoàn thành, trước khi họ bước vào chuyến du hành khắp thế giới trong vai trò là những người nổi tiếng nhất hành tinh.
Bài tiếng Anh đã đăng trên BBC Future.

 https://www.bbc.com/vietnamese/vert-fut-48970309

50 năm chinh phục Mặt Trăng qua 50 con số: Những người hy sinh vì Apollo

  • 1 tháng 7 2019
NASA Bản quyền hình ảnhNASA
Nhân kỷ niệm 50 năm chuyến du hành của tàu vũ trụ Apollo đáp xuống Mặt Trăng, ta nhớ về những người đã làm việc, những phi hành gia đã thiệt mạng và làm nên lịch sử.

400 ngàn: Là số người tham gia dự án Apollo

Neil Armstrong là một trong những phi hành gia nổi tiếng nhất của Nasa.
Vận tốc, khoảng cách khi chinh phục Mặt Trăng
Chuyện ăn uống, vệ sinh khi đi chinh phục Mặt Trăng
Saturn V: Tên lửa đưa con người lên Mặt Trăng
Ông là người đã đáp xuống Mặt Trăng vào ngày 20/7/1969. Yếu tố thành bại của cuộc hạ cánh đầu tiên lên Mặt Trăng phụ thuộc vào kỹ năng, phản ứng và chuyên môn của nhà phi hành gia này.
Với cánh đồng đầy đá tảng bên dưới, chuông báo động réo liên hồi và nhiên liệu dần cạn kiệt, ông đã lèo lái con tàu vũ trụ hạ cánh thành công.
Nhưng trong vài cuộc chuyện trò và phỏng vấn mà Armstrong có đề cập đến cuộc hạ cánh, ông luôn khiêm tốn về thành tích của mình. Thay vào đó, ông nói đến hàng ngàn người đã khiến cuộc du hành thành công.
Vào lúc đỉnh điểm, Nasa ước tính có tổng số 400.000 người, gồm cả nam giới và phụ nữ trên khắp Hoa Kỳ làm việc trong chương trình Apollo.
Con số này bao gồm tất cả mọi người từ phi hành gia đến chuyên viên điều khiển bay, đối tác đến đơn vị cung cấp thực phẩm, kỹ sư, nhà khoa học, y tá, bác sĩ, nhà toán học và lập trình viên.
Để hiểu bằng cách nào Nasa có được con số đó, chúng ta hãy xem xét chỉ một khía cạnh đơn lẻ của Apollo 11, nhiệm vụ đáp xuống Mặt Trăng.
Phụ lái, cánh tay phải của Armstrong là Buzz Aldrin. Trên mặt đất, có cả một căn phòng đầy chuyên viên kiểm soát chuyến bay.
Đứng đằng sau nhóm nòng cốt gồm 20-30 người (mỗi ca) này là hàng trăm kỹ sư ở Houston và một nhóm tại Học viện MIT ở Boston cố vấn về hệ thống cảnh báo máy tính.
NASA Bản quyền hình ảnhNASA
Image caption Hàng trăm ngàn người đã làm việc để một nhóm phi hành gia có thể đáp xuống bề mặt Mặt Trăng
Bộ phận Kiểm soát được hỗ trợ bởi hệ thống các trạm liên lạc đặt khắp nơi trên thế giới, và bởi nhóm kỹ sư tại Công ty Grumman vốn đã thiết kế tàu hạ cánh, cùng tất cả các nhà thầu phụ của hãng. Bên cạnh họ là lực lượng hỗ trợ, từ giám đốc cao cấp đến người bán cà phê - tính sơ sơ đã lên đến con số hàng ngàn người.
TQ, châu Âu và tham vọng lên Mặt Trăng định cư
Nga lên Mặt Trăng trước người Mỹ?
Khi nào nhân loại chuyển lên Mặt Trăng?
Nhân con số đó với tất cả các thành phần khác của dự án - từ tên lửa đến bộ đồ phi hành gia, từ hoạt động liên lạc tới nhiên liệu, từ thiết kế tới huấn luyện, từ khâu phóng tàu đến khi trở về Trái Đất… thì 400.000 người xem ra vẫn là con số khiêm tốn.
400.000 con người hỗ trợ cho hành động của một người duy nhất.

38: Là độ tuổi trung bình của các phi hành gia tham gia Chương trình Apollo

Armstrong không phải là người được chỉ định đặc biệt làm phi hành gia cho chuyến đáp xuống Mặt Trăng đầu tiên; phi hành đoàn của ông là lựa chọn kế tiếp trong chu trình luân phiên.
Nếu như tàu Apollo 11 không đáp xuống được thì nhiều khả năng chỉ huy tàu Apollo 12 là Pete Conrad đã là người đầu tiên đáp xuống Mặt Trăng.
Trong thực tế, mặc dù họ đại diện cho cả nhân loại, các phi hành gia trên tàu Apollo có tuổi tác, tiểu sử, năng lực, và trải qua quá trình huấn luyện cực kỳ giống nhau.
"Tôi nghĩ quan trọng là ta phải nhớ đến nhóm người độc đáo đã được chọn để tham dự vào Dự án Apollo," Teasel Muir-Harmony, giám tuyển về Tàu vũ Trụ Apollo tại Bảo tàng Quốc gia Smithsonian về Hàng không và Vũ trụ ở Washington DC, nói.
"Mỗi phi hành gia [trên tàu Apollo 11] đều sinh năm 1930, tất cả họ đều từng trong quân ngũ, tất cả đều là phi công và tôi tin rằng tất cả họ đều theo đạo Thiên Chúa - vì vậy họ đạt những tiêu chuẩn rất chặt chẽ mà thời đó đòi hỏi phi hành gia phải có."
NASA Bản quyền hình ảnhNASA
Image caption Rất nhiều phi hành gia trên tàu Apollo tương tự nhau về độ tuổi và có tiểu sử gần giống nhau
Ở tuổi 38, Armstrong là đồng chỉ huy (cùng với Tom Stafford và Gene Cernan) trẻ nhất trên tàu Apollo.
Charlie Duke, phi công điều khiển tàu Apollo 16 khi ấy 36 tuổi và là người trẻ nhất đặt chân lên Mặt Trăng.
Người Âu lên vũ trụ cũng phải học tiếng Trung
48 giờ bất hạnh thử làm phi hành gia
Người ngoài hành tinh nào đang đợi chúng ta?
Người lớn tuổi nhất dạo bước trên Mặt Trăng là phi hành gia người Mỹ đầu tiên tên Alan Shepard. Đến khi nhiệm vụ Apollo 14 của ông được thực thi vào năm 1971, ông đã 47 tuổi.
Kỷ lục về người lớn tuổi nhất bay vào không gian thuộc về phi hành gia người Mỹ đầu tiên bay vào quỹ đạo Trái Đất. John Glenn 77 tuổi khi ông tham gia một nhiệm vụ kéo dài chín ngày trên trạm không gian Discovery vào năm 1998.

12: Là số phi hành gia thực sự lái tàu và đặt chân lên Mặt Trăng

33 người bay trên các chuyến đi của tàu Apollo 11.
Trong số đó, 27 người đã đến Mặt Trăng, 24 người bay vào quỹ đạo Mặt Trăng - nhưng chỉ có 12 người đặt chân xuống bề mặt Mặt Trăng. Họ đại diện cho "nhân loại" và thử thách của họ là truyền tải được trải nghiệm đó cho khán giả toàn cầu.
Không ai biết liệu Neil Armstrong đã nói gì khi ông bước xuống bề mặt Mặt Trăng. Ông chưa từng kể về điều đó với ai, mặc dù những lời ông nói, "Đây chỉ là một bước nhỏ với một người, nhưng là bước tiến lớn cho nhân loại", là những lời lẽ thơ mộng và phù hợp nhất nếu có một hội đồng viết diễn văn chuẩn bị cho ông.
Nhưng bạn sẽ nói gì nếu bạn là người thứ hai bước chân lên bề mặt Mặt Trăng? Buzz Aldrin tóm tắt về cảnh quan Mặt Trăng cằn cỗi chỉ trong hai từ mô tả hoàn hảo điều đó như sau: "Sự hoang vu tráng lệ".
NASA Bản quyền hình ảnhNASA
Image caption Chỉ có 12 người từng đặt chân hoặc lái phương tiện trên bề mặt Mặt Trăng
Người thứ ba đặt chân lên Mặt Trăng và là một trong những phi hành gia có chiều cao thấp, Pete Conrad, đã chạy quanh một vòng. "Whoopie!" Conrad nói. "Trời ạ, đó có thể là bước nhỏ với Neil chứ là một bước dài với tôi."
Phẫu thuật trên vũ trụ thế nào?
Khám phá vũ trụ bằng tàu ngầm
Những thứ kỳ quặc con người vứt lại Mặt Trăng
Conrad đã định ra phong cách cho những nhiệm vụ trong tương lai. Trong khi những đoạn ghi âm cho thấy quá trình hạ cánh của Armstrong và Aldrin có vẻ khá nghiêm trang, khi nhiệm vụ dần tiến triển, thì những phi hành gia đặt chân lên mặt trăng còn tỏ ra hồ hởi hơn. Khi Charlie Duke bước xuống Mặt Trăng trong nhiệm vụ Apollo 16, ông không thể kìm chế sự hứng khởi: "Trời ơi… tuyệt vời quá!" Trong suốt chuyến du hành, Duke và chỉ huy John Young không hề che giấu sự nhiệt tình, hào hứng.
Nhưng khi trở về Trái Đất, cũng như những phi hành gia khác từng đặt chân lên Mặt Trăng - Duke và gia đình ông cảm thấy khó thích nghi trở lại. Bạn sẽ làm gì tiếp theo sau khi đã đặt chân lên Mặt Trăng?
"Chúng tôi nhận ra rằng sau khi nhiệm vụ Apollo kết thúc, cuộc hôn nhân của chúng tôi thực sự gặp rắc rối," Duke kể với tôi. "Chúng tôi gần như ly hôn. Nhà phi hành gia tìm thấy mục đích mới bên Chúa.
Những người khác cũng vất vả với tình huống tương tự. Cuộc hôn nhân của Gene Cernan tan vỡ, và Buzz Aldrin phải vật lộn với tình trạng trầm cảm và nghiện rượu. Alan Bean bày tỏ những trải nghiệm ông có vào tác phẩm nghệ thuật, Ed Mitchell thể nghiệm chủ nghĩa thần bí.
Không mấy ai nghi ngờ gì về việc Mặt Trăng đã làm thay đổi 12 người đàn ông đó. Trong lịch sử nhân loại, họ là những người duy nhất.

8: Là số các phi hành gia thiệt mạng trong nhiệm vụ Apollo

Trước khi nhóm phi hành đoàn gồm ba người trên tàu Apollo 7 cất cánh vào tháng 10/1968, tám phi hành gia Apollo đã thiệt mạng.
Người đầu tiên qua đời năm 1964 là Theodore Freeman, khi máy bay của ông, chiếc phi cơ huấn luyện T-38 - bị một con chim đâm vào, phá vỡ buồng lái và làm động cơ ngừng hoạt động. Mặc dù đã thoát ra, nhưng khi ấy ông đã quá gần mặt đất và qua đời vì bị lực tác động.
Vào ngày 28/02/1966, phi hành đoàn chính trên tàu Gemini 9 gồm có Elliot See và Charles Bassett đang chuẩn bị hạ cánh chiếc máy bay T-38 ở St Louis. Do mây mù che kín đường băng, See định vị nhầm một đoạn rẽ và đâm vào tòa nhà lắp đặt tàu vũ trụ. Các phi công thiệt mạng ngay lập tức, nhưng đáng kinh ngạc là ngoài ra không có ai khác bị thương nghiêm trọng.
NASA Bản quyền hình ảnhNASA
Image caption Ba phi hành gia Gus Grissom, Ed White và Roger Chaffee thiệt mạng khi khoang điều hành tàu vũ trụ phát lửa trong một lần thử nghiệm trên mặt đất
Tai nạn đã khiến Tom Stafford và Gene Cernan được đưa lên làm phi hành đoàn chính cho nhiệm vụ Gemini, và cuối cùng đưa Cernan đến vai trò chỉ huy tàu Apollo 17, và ông trở thành người cuối cùng đặt chân lên Mặt Trăng.
Năm 1967, Nasa chuẩn bị phóng tàu vũ trụ Apollo đầu tiên. Nhưng chiếc tàu liên tục bị hỏng hóc và chỉ huy tàu, Gus Grissom, biết điều đó. Cực kỳ khó chịu, ông treo một quả chanh bên ngoài khoang giả lập tàu Apollo ở Cape Canaveral.
Vào ngày 27/01/1967, phi hành đoàn gồm Grissom, Ed White (người Mỹ đầu tiên đi bộ trong không gian) và Roger Chaffee, nằm trên ghế trong khoang phóng tàu để chạy thử nghiệm toàn bộ tàu vũ trụ. Họ bị đóng chặt trong khoang lái tròn phức hợp nhiều phần, và chiếc tàu vũ trụ có đầy khí oxy - giống như tình trạng khi họ ở trong quỹ đạo.
Cuộc thử nghiệm diễn ra theo chiều hướng xấu, mùi khó chịu xuất hiện trong khoang tàu và phi hành đoàn khó khăn khi nói chuyện với bộ phận kiểm soát. "Chúa ơi," Grissom la lên: "Làm sao chúng ta có thể đến Mặt Trăng khi chúng ta không thể trao đổi khi chỉ cách hai ba tòa nhà?"
Sau đó, qua điện đài có tiếng: "Lửa, tôi ngửi thấy mùi cháy."
Chỉ trong vài giây cả phi hành đoàn bị thiêu sống trong lửa. Họ không có cơ hội nào thoát ra.
Thảm kịch đã khiến người ta phải suy nghĩ lại toàn bộ về chương trình Apollo và cải tiến rất nhiều với tàu vũ trụ. Sự hy sinh của họ đã không vô ích.
Sau đó, trong cùng năm này, Clifton Williams thiệt mạng khi một máy bay T-38 khác rơi và Edward Givens qua đời trong một tai nạn giao thông.
Tất cả tám phi hành gia - cùng với sáu phi hành gia khác của Liên Xô - đã được tưởng niệm bằng một tấm bia do các phi hành gia trên tàu Apollo 15 để lại trên Mặt Trăng.
Tuy nhiên, vẫn còn một phi hành gia không được nêu tên trong danh sách.
Robert Lawrence lẽ ra đã là nhà phi hành gia người Mỹ gốc Phi đầu tiên. Được đặc phái tham gia một dự án trạm không gian quân sự bí mật, ông thiệt mạng vào tháng 12/1967 khi đang hướng dẫn một phi công khác thực hành kỹ thuật hạ cánh. Những kỹ năng này sau đó được sử dụng trong chương trình Tàu Con Thoi.

1: Là số lượng phụ nữ có mặt trong phòng điều khiển phóng tàu Apollo 11

Khi quan sát những tường thuật về tàu Apollo, bạn có thể nghĩ rằng đó là một dự án toàn đàn ông (da trắng). Tất cả phi hành gia đều là nam giới, tất cả nhân viên điều khiển nhiệm vụ là nam, thậm chí người dẫn chương trình truyền hình cũng là nam. Những phụ nữ duy nhất xuất hiện trên TV là vợ của các phi hành gia.
Tuy nhiên, tất cả chúng ta đều biết, có hàng ngàn phụ nữ ngoài khung hình hỗ trợ cho dự án Apollo và họ đóng vai trò thiết yếu trong sự thành công của dự án này.
Có nhiều thư ký và y tá, nhà toán học và lập trình viên, những phụ nữ may trang phục cho phi hành gia và quấn cáp cho máy tính hướng dẫn tàu Apollo.
NASA Bản quyền hình ảnhNASA
Image caption Bạn có tìm ra JoAnn Morgan trong bức ảnh này ở Trung tâm Điều khiển Phóng tàu không?
Kỹ sư điều khiển tự động JoAnn Morgan là phụ nữ duy nhất trong phòng điều hành phóng tàu Apollo 11 tại Cape Canaveral. Là kỹ sư, bà chịu trách nhiệm quản lý 21 kênh thông tin liên lạc, độ ổn định và tình trạng của tất cả các hệ thống quan sát tên lửa Saturn 5.
"Phóng tàu là một vụ nổ có kiểm soát," bà nói. "Bạn luôn có chút e ngại khi bạn trông chừng nó."
Là một trong số ít những phụ nữ làm việc ở vị trí cao cấp, bà thường xuyên phải đối phó với tình trạng kỳ thị giới tính, đặc biệt là khi bà mới bắt đầu.
"Tôi nhận được những cuộc điện thoại tục tĩu, một số bình luận nói trong thang máy và một số người xô đẩy trong quán ăn," bà cho biết. "Sau một thời gian, hầu hết những hành động đó không còn nữa vì nhiều người nhận ra tôi là người làm việc nghiêm túc."
Dù vậy, chương trình không gian vẫn chưa sẵn sàng cho phụ nữ.
"Thậm chí khi họ xây các tòa nhà mới, họ vẫn quên rằng sẽ có thêm nhiều phụ nữ đến làm việc," Morgan nói.
"Tòa nhà đầu tiên tôi làm việc chỉ có một phòng vệ sinh nữ duy nhất trong cả tòa nhà ba tầng - họ phải cải tạo một phòng vệ sinh nam ở mỗi tầng thành nhà vệ sinh nữ… vì vậy chúng tôi có nhà vệ sinh nữ với bồn tiểu đứng."
Bài tiếng Anh đã đăng trên BBC Future.

 https://www.bbc.com/vietnamese/vert-fut-48806988

Chủ đề liên quan

Geen opmerkingen:

Een reactie posten