zondag 5 februari 2017

Uống vitamin bổ sung bừa bãi có thể gây... chết người?

Uống vitamin bổ sung bừa bãi có thể gây chết người?

  • 5 tháng 2 2017
Các chất chống oxy hóa có tác dụng trì hoãn quá trình lão hóa, nhưng không có mấy bằng chứng cho thấy các dưỡng chất bổ sung đem lại tác dụng gìBản quyền hình ảnh Getty Images
Image caption Các chất chống oxy hóa có tác dụng trì hoãn quá trình lão hóa, nhưng không có mấy bằng chứng cho thấy việc uống các dưỡng chất bổ sung đem lại tác dụng chống lão hoá
Ta thường uống bổ sung các chất chống oxy hóa vì cho rằng chúng thiết yếu cho sự sống. Thế nhưng may mắn nhất là chúng có lẽ vô tác dụng. Còn tệ nhất là chúng đẩy bạn xuống mồ sớm.
Trong bài Uống vitamin bổ sung có lợi cho sức khỏe không?, chúng ta đã biết rằng bất chấp những lập luận của một số người nổi tiếng về tác dụng tuyệt vời của vitamin C, các kết quả thí nghiệm được thực hiện trong suốt thập niên 1970-80 cho thấy việc này không hề giúp ích gì cho việc tăng cường sức khỏe, tuổi thọ ở con người.
Chưa hết, một số nghiên cứu còn cho thấy việc uống bổ sung vitamin trong lúc cơ thể không thiếu hụt chất này có thể còn gây những tác hại chết người.
Vào năm 1994, một thử nghiệm đã theo dõi quá trình sống của 29.133 người Phần Lan ở độ tuổi ngoài 50. Tất cả đều hút thuốc, nhưng một số người được sử dụng thêm chất beta-carotene, tức tiền chất vitamin A. Trong nhóm này, tỷ lệ bị ung thư tăng lên 16%.
Một kết quả tương tự cũng xảy ra với phụ nữ sau thời kỳ mãn kinh ở Hoa Kỳ. Sau 10 năm uống thêm acid folic mỗi ngày (một thể khác của vitamin B), nguy cơ bị ung thư vú của các phụ nữ này tăng thêm 20% so với nhóm phụ nữ không dùng thêm chất bổ sung.
Mọi thứ còn tệ hơn. Một nghiên cứu trên 1.000 người nghiện thuốc lá nặng công bố năm 1996 đã phải hủy bỏ sớm hơn gần 2 năm. Chỉ sau bốn năm dùng beta-carotene và vitamin A bổ sung, tỷ lệ ung thư phổi tăng 28% và 17% trong số tăng đó đã qua đời.
Đó không phải những số liệu bình thường.
So sánh với giả dược, có hơn 20 người đã chết mỗi năm khi sử dụng thêm hai chất bổ sung đó. Sau bốn năm thử nghiệm, con số này sẽ tương đương với thêm 80 người chết.
Như tác giả nghiên cứu thời đó viết, "Kết quả tạm thời cung cấp thêm những nền tảng vững chắc để tránh sử dụng các chất bổ sung như beta-carotene và các hợp chất của beta-carotenne với vitamin A."

Ý tưởng chết người

Tất nhiên, những nghiên cứu đáng chú ý này không cho thấy toàn bộ câu chuyện. Có một số nghiên cứu cho thấy ích lợi của việc sử dụng các chất chống oxy hóa, đặc biệt khi những người tham gia thử nghiệm không có chế độ dinh dưỡng lành mạnh.
Nhưng theo một bài tổng hợp từ năm 2012, đúc kết từ 27 quá trình thử nghiệm lâm sàng về hiệu quả của các loại chất chống oxy hóa, sức nặng của các bằng chứng không cho thấy nó có tác dụng tốt.
Vitamin supplementsBản quyền hình ảnh Photofusion/UIG via Getty Images
Chỉ có bảy nghiên cứu cho thấy việc sử dụng các chất bổ sung dẫn tới một vài lợi ích sức khỏe nào đó từ chất chống oxy hóa, bao gồm giảm nguy cơ bị bệnh tim mạch vành và ung thư tuyến tụy.
Mười nghiên cứu không thấy có bất cứ lợi ích gì, giống như các bệnh nhân dùng các viên đường giả dược.
Còn lại mười công trình cho thấy rất nhiều bệnh nhân ở trong tình trạng tệ hơn đáng kể sau khi sử dụng chất chống oxy hóa so với trước khi sử dụng, thậm chí tăng khả năng bị các bệnh như ung thư phổi và ung thư vú.
"Ý tưởng cho rằng chất chống oxy hóa [bổ sung] là phương thuốc kỳ diệu là hoàn toàn vô nghĩa," Enriquez cho biết.
Linus Pauling, tác giả cuốn "Làm sao để sống lâu và sống khỏe hơn", người từng được trao giải Nobel Hóa học hồi 1954 và là người cổ súy mạnh mẽ cho việc bổ sung hàm lượng vitamin C hàng ngày vào cơ thể, đã gần như không chú ý tới thực tế rằng ý tưởng của ông có thể gây chết người.
Năm 1994, trước khi các thử nghiệm lâm sàng ở quy mô lớn được công bố, ông đã chết vì ung thư tuyến tiền liệt. Vitamin C chắc chắn không phải là phương thuốc chữa bách bệnh mà ông kịch liệt bảo vệ cho đến tận hơi thở cuối cùng.
Nhưng liệu nó có góp phần gia tăng nguy cơ không?
Chúng ta không bao giờ thực sự biết rõ. Nhưng theo nhiều nghiên cứu đã liên hệ giữa tình trạng dư thừa chất chống oxy hóa với bệnh ung thư, dĩ nhiên chất này không nằm ngoài câu hỏi.
Như một nghiên cứu được công bố năm 2007 từ Viện nghiên cứu Ung thư Quốc gia Hoa Kỳ cho thấy, những người đàn ông sử dụng các loại vitamin nhiều có nguy cơ chết vì ung thư tuyến tiền liệt cao gấp đôi so với những người không uống.
Và vào năm 2011, một nghiên cứu tương tự tiến hành trên 35.533 người đàn ông khỏe mạnh cho thấy vitamin E và chất selenium bổ sung làm tăng tỷ lệ ung thư tuyến tiền liệt lên 17%.

Lợi - hại khó lường

Từ khi Harman đề xuất lý thuyết tuyệt vời của ông về phân tử gốc tự do và quá trình lão hóa, sự tách biệt rõ ràng của các chất chống oxy hóa và các phân tử gốc tự do (chất oxy hóa) đã bị giảm giá trị.
Chất chống oxy hóa chỉ là một cái tên, không phải là một định nghĩa chính xác.
Chẳng hạn ta hãy xem xét tới vitamin C, dưỡng chất bổ sung yêu thích của Pauling. Khi dùng đúng liều lượng, vitamin C trung hòa những phân tử gốc tự do có điện tích cao bằng cách nhận các electron tự do từ chúng. Đó là các phân tử hi sinh, tự đem thân mình ra để bảo vệ các tế bào xung quanh.
Nhưng khi nhận một electron, vitamin C tự nó lại trở thành một phân tử gốc tự do và có khả năng gây hại cho màng tế bào, cho các protein và DNA.
Chuyên gia về ngành hóa học thực phẩm William Porter viết năm 1993, "[vitamin C] thực sự là thần Janus hai đầu, là Dr Jekyll-Mr Hyde [một nhân vật tiểu thuyết đa tính cách với hai mặt tốt -xấu], là một nghịch hợp của chất chống oxy hóa."
May thay, trong điều kiện thông thường, enzyme khử vitamin C có thể trả lại tính chất chống oxy hóa của vitamin C.
Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu có quá nhiều vitamin C khiến enzyme này không thể xử lý được hết nguồn cung?
Mặc dù việc đơn giản hóa quá trình sinh hóa phức tạp này bản thân nó cũng tạo ra vấn đề, nhưng những thử nghiệm lâm sàng nêu trên cũng cho ta phán đoán được những kết quả có thể xảy ra.
Việc có chế độ ăn uống cân đối, hợp lý được cho là sẽ giúp chúng ta có một cơ thể khỏe mạnhBản quyền hình ảnh Getty Images
Image caption Việc có chế độ ăn uống cân đối, hợp lý được cho là sẽ giúp chúng ta có một cơ thể khỏe mạnh

Chia rẽ và thâu tóm

Chất chống oxy hóa cũng có mặt tối. Và ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy phân tử gốc tự do là cần thiết cho sức khỏe chúng ta, nhưng phần tốt của chúng không phải lúc nào cũng hữu ích.
Chúng ta giờ đã biết phân tử gốc tự do thường được sử dụng như phân tử đưa tin, gửi tín hiệu từ một vùng của tế bào đến vùng khác. Trong vai trò này, chúng điều tiết khi nào một tế nào phát triển, khi nào tế bào phân chia làm hai, và khi nào tế bào chết.
Xem thêm về phân tử gốc tự do trong bàiUống vitamin bổ sung có lợi cho sức khỏe không?
Trong mỗi giai đoạn của vòng đời tế bào, phân tử gốc tự do có vai trò rất quan trọng. Không có chúng, tế bào có thể tiếp tục phát triển và phân chia một cách mất kiểm soát. Đó chính là lý do dẫn đến bệnh ung thư.
Chúng ta cũng sẽ dễ nhiễm bệnh từ bên ngoài. Khi bị sức ép từ các virus hay vi khuẩn không mong muốn, phân tử gốc tự do thường tự sản sinh ra với số lượng lớn hơn, phản ứng như tín hiệu cảnh báo ngầm với hệ miễn dịch của cơ thể chúng ta.
Đáp lại, các tế bào tiên phong trong hệ miễn dịch của ta - đại thực bào và lympho bào - bắt đầu phân chia và rà soát vấn đề. Nếu đó là vi khuẩn, chúng sẽ tiêu diệt như thể Pac-Man ăn thịt những con ma xanh trong trò chơi.
Vi khuẩn bị bẫy, nhưng chưa chết. Để thay đổi tình thế, phân tử gốc tự do lại được triệu tập hành động. Bên trong tế bào miễn dịch, chúng được dùng với tính năng nổi tiếng của mình: gây hại và tiêu diệt. Kẻ xâm nhập sẽ bị hủy hoại.
Từ khi bắt đầu đến lúc kết thúc, phản ứng của hệ miễn dịch khỏe mạnh phụ thuộc vào việc các phân tử gốc tự do có mặt ở đó để vì cơ thể chúng ta, bên trong cơ thể chúng ta. Như nhà di truyền học Joao Pedro Magalhaes và George Church viết năm 2006: "Giống như ngọn lửa nguy hiểm và con người vẫn học cách sử dụng lửa, có vẻ giờ đây các tế bào đã tiến hóa cơ chế kiểm soát và sử dụng [phân tử gốc tự do]."
Nói cách khác, dùng các chất chống oxy hóa để loại bỏ phân tử gốc tự do khỏi cơ thể chúng ta không phải một ý hay. "Bạn có thể khiến cơ thể mất khả năng đối phó với nguy cơ lây nhiễm," Enriquez cho biết.
BSIP/UIG via Getty ImagesBản quyền hình ảnh BSIP/UIG via Getty Images
Image caption Cách tốt nhất là nên tự cân bằng vitamin qua chế độ ăn uống, các chuyên gia khuyên
May mắn thay, cơ thể bạn có sẵn hệ thống giúp cơ chế hóa sinh bên trong càng ổn định càng tốt. Nói chung, với các chất chống oxy hóa, điều này liên quan đến quá trình lọc bất cứ chất dư thừa nào ra khỏi máu trở thành nước tiểu và thải ra ngoài. "Chúng được xả vào toilet," như Cleva Villanueava từ Học viện Bách khoa Instituto Politécnico Nacional ở Mexico City trả lời qua email.
Cơ thể chúng ta đã có khả năng tự cân bằng. Chúng ta không thể thay đổi hàng triệu năm tiến hóa chỉ bằng một viên thuốc đơn giản.
Không ai phủ nhận vitamin C rất quan trọng trong việc giúp ta có một đời sống khỏe mạnh, cũng như các chất chống oxy hóa khác.
Tuy nhiên, nếu bạn không theo chỉ dẫn của bác sĩ thì những chất bổ sung sẽ rất khó đem lại tuổi thọ lâu dài, trong khi đó một chế độ ăn uống lành mạnh cũng là một cách tốt để cải thiện sức khỏe vào tuổi thọ.
"Việc kiểm soát các chất chống oxy hóa sẽ chỉ hợp lý khi có bằng chứng cho thấy thực sự cơ thể bạn thiếu hụt một chất chống oxy hóa nào đó," Villanueva cho biết. "Cách tốt nhất là bổ sung chất chống oxy hóa từ thức ăn, vì thức ăn chứa hỗn hợp nhiều chất chống oxy hóa có tác dụng cùng nhau."
"Áp dụng chế độ ăn uống nhiều trái cây và rau quả nói chung cho thấy sẽ có tác dụng tốt cho bạn," Lane nói. "Không phải lúc nào cũng thế, nhưng nói chung là tốt."
Sau nhiều thập niên giải mã tính chất hóa sinh kỳ lạ của phân tử gốc tự do và chất chống oxy hóa, với hàng trăm ngàn tình nguyện viên, và hàng triệu bảng Anh cho các thử nghiệm lâm sàng, kết luận tốt nhất của khoa học thế kỷ 21 đưa ra trong một lớp học trẻ em là - hãy ăn khẩu phần 5 phần hoa quả, trái cây hay rau củ mỗi ngày.
Bài tiếng Anh đã đăng trên BBC Future.

http://www.bbc.com/vietnamese/vert-fut-38790425

Uống vitamin bổ sung có lợi cho sức khỏe không?

  • 3 tháng 2 2017
Việc có chế độ ăn uống cân đối, hợp lý được cho là sẽ giúp chúng ta có một cơ thể khỏe mạnhBản quyền hình ảnh Getty Images
Image caption Việc có chế độ ăn uống cân đối, hợp lý được cho là sẽ giúp chúng ta có một cơ thể khỏe mạnh
Ta thường uống bổ sung các chất chống oxy hóa vì cho rằng chúng thiết yếu cho sự sống. Thế nhưng may mắn nhất là chúng có lẽ vô tác dụng. Còn tệ nhất là chúng đẩy bạn xuống mồ sớm.
Với Linus Pauling, mọi việc bắt đầu không ổn khi ông thay đổi thói quen ăn sáng. Năm 1964, ở tuổi 65, ông bắt đầu thêm vitamin C vào nước cam uống mỗi sáng. Giống như ta thêm đường vào Coca Cola, ông hết lòng, thậm chí đôi khi quá mức tin tưởng rằng làm vậy là tốt.
Trước đó, bữa sáng của ông không có gì đặc biệt. Chỉ là như mọi bữa sáng trước khi đi làm ở Học viện Công nghệ California, thậm chí cả vào cuối tuần. Nhưng ông làm việc không biết mệt, và công việc hiệu quả.
Ở tuổi 30, ông đề xuất một phương pháp căn bản thứ ba theo đó các nguyên tử được kết nối với nhau trong phân tử, phối hợp các ý tưởng từ hóa học và cơ lượng tử.
Hai mươi năm sau, công trình của ông về cách các protein (thành tố tạo nên mọi sự sống) cấu trúc ra sao đã giúp Francis Crick và James Watson giải mã thành công cấu trúc DNA (cấu trúc của các thành tố kể trên) vào năm 1953.
Năm sau đó, Pauling được trao giải Nobel Hóa học cho những kiến thức am tường của ông về cách các phân tử liên kết với nhau.
Nick Lane, nhà hóa sinh học từ Đại học College London, viết trong quyển sách Oxygen hồi năm 2001: "Pauling... là tượng đài của khoa học thế kỷ 20, người đặt nền móng cho hóa học hiện đại."

'Thần tượng hóa' vitamin C

Nhưng sau đó là những ngày uống vitamin C.
Trong quyển sách bán chạy của ông năm 1970 có tựa đề “Làm sao để sống lâu và sống khỏe hơn” (How To Live Longer and Feel Better), Pauling nói rằng loại chất bổ sung này có thể chữa cảm mạo thông thường.
Ông uống khoảng 18.000 miligrams (18gram) dưỡng chất bổ sung mỗi ngày, nhiều gấp 50 lần so với liều lượng được khuyên dùng.
Trong lần tái bản thứ hai của quyển sách, ông thêm bệnh cúm vào danh sách các bệnh dễ chữa. Khi HIV lan truyền ở Hoa Kỳ vào thập niên 1980, ông cũng cho rằng vitamin C có thể chữa luôn.
Linus Pauling là một trong các khoa học gia có ảnh hưởng lớn nhất, nhưng niềm tin của ông về tác dụng to lớn của chất chống oxy hóa đối với cơ thể yet his belief in the power of antioxidants may have set us down a dangerous pathBản quyền hình ảnh Getty Images
Image caption Linus Pauling là một trong các khoa học gia có ảnh hưởng lớn nhất, nhưng niềm tin của ông về tác dụng to lớn của chất chống oxy hóa đối với cơ thể yet his belief in the power of antioxidants may have set us down a dangerous path
Năm 1992, ý tưởng của ông được đăng tải trên bìa tạp chí Time Magazine với tựa đề: "Sức mạnh thật sự của các chất vitamin".
Chúng được công bố là phương thuốc chữa trị nhiều bệnh tim mạch, đục thủy tinh thể và thậm chí chữa cả ung thư. "Thậm chí có nhiều lời đùa giỡn thoáng qua rằng vitamin có thể chống lại sự tàn phá của tuổi tác," bài báo viết.
Doanh số bán các loại vitamin tổng hợp và các loại chất bổ sung dinh dưỡng khác tăng cao, tên tuổi của Pauling cũng vậy.
Nhưng danh tiếng trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học của ông lại rẽ theo ngả khác.
Qua năm tháng, việc sử dụng vitamin C và nhiều loại chất bổ sung dinh dưỡng khác đã không nhận được mấy ủng hộ từ các nghiên cứu khoa học.

Tác dụng của việc tự bổ sung vitamin C

Trong thực tế, với mỗi thìa đầy chất bổ sung dinh dưỡng ông thêm vào ly nước cam, Pauling đang làm hại cơ thể mình nhiều hơn là bổ trợ sức khỏe.
Ý tưởng của ông chỉ là chưa bị chứng minh là sai, nhưng nó cực kỳ nguy hiểm.
Lý thuyết của Pauling dựa trên thực tế là vitamin C là một chất chống oxy hóa, giúp nuôi dưỡng các phân tử có chứa vitamin E, beta-carotene (tức tiền chất tạo nên vitamin A), và acid folic.
Việc bổ sung chất này được cho là sẽ có lợi cho sức khỏe, dựa trên lập luận là trên thực tế chúng có khả năng trung hòa các phân tử bất cân bằng và có khả năng dễ dàng tạo phản ứng với các phân tử khác; các phân tử bất cân bằng này được gọi là phân tử gốc tự do.
Năm 1954, Rebeca Gerschman tại Đại học Rochester, New York, lần đầu tiên xác định những phân tử gốc tự do có thể gây nguy hiểm. Ý tưởng này sau đó được Denham Harman từ Phòng thí nghiệm Vật lý Y khoa Donner thuộc Đại học UC Berkeley, phát triển hồi năm 1956.
Denham cho rằng các phân tử gốc tự do có thể dẫn đến tình trạng làm suy yếu tế bào, bệnh tật và rốt cuộc gây lão hóa.
Trong suốt thế kỷ 20, các nhà khoa học đã dần phát triển lý thuyết của ông và sau đó những ý tưởng này đã được chấp nhận rộng rãi.

"Nhà máy nước rò rỉ"

Phân tử gốc tự do hoạt động như sau: Đầu tiên là hoạt động của ty thể (mitochondria), những động cơ đốt trong siêu nhỏ tồn tại bên trong tế bào của chúng ta.
Bên trong lớp màng nội của ty thể, thực phẩm và oxy được chuyển hóa thành nước, CO2 và năng lượng. Đây là quá trình hô hấp, một cơ chế đem lại sự sống cho mọi sinh vật phức tạp.
Nhưng quá trình này không đơn giản như vậy. Ngoài thức ăn và oxy, còn cần đến dòng chảy liên tục của các hạt mang điện tích âm gọi là electron.
Dòng chảy này được duy trì hoạt động thông qua bốn loại protein, mỗi loại nhúng trong màng nội của các ty thể, vận hành quá trình sản xuất ra sản phẩm cuối cùng: năng lượng.
Phản ứng này cấp năng lượng cho mọi hoạt động của con người, nhưng nó là một quá trình không hoàn hảo.
Có một số electron bị rò rỉ từ ba 'nhà máy nước' tế bào đó. Mỗi electron bị rò rỉ lại phản ứng với các phân tử oxy gần đó, dẫn đến việc hình thành ra một phân tử gốc tự do, là phân tử đã phản ứng tới mức bão hòa với electron bị rò rỉ.
Để tái lập sự ổn định, phân tử gốc tự do 'cướp' lấy các electron từ các phân tử quan trọng như DNA và protein xung quanh chúng để tự cân bằng điện tích, dẫn đến việc tàn phá cấu trúc của các 'hàng xóm'.
Mặc dù có quy mô siêu nhỏ, nhưng việc tạo ra các phân tử gốc tự do, theo Harman và rất nhiều người khác, có thể dần gây ra tác hại cực kỳ nghiêm trọng cho cơ thể chúng ta, gây đột biến, dẫn đến hiện tượng lão hóa và các bệnh liên quan đến tuổi tác như ung thư.
Nói ngắn gọn, oxy là hơi thở đời sống, nhưng nó cũng tiềm ẩn nguy cơ khiến ta già đi, lão hóa và sau đó chết đi.
Các chất chống oxy hóa có tác dụng trì hoãn quá trình lão hóa, nhưng không có mấy bằng chứng cho thấy các dưỡng chất bổ sung đem lại tác dụng gìBản quyền hình ảnh Getty Images
Image caption Các chất chống oxy hóa có tác dụng trì hoãn quá trình lão hóa, nhưng không có mấy bằng chứng cho thấy việc uống các dưỡng chất bổ sung đem lại tác dụng chống lão hoá

Từ lý thuyết tới kết quả thực tế

Ngay sau khi các phân tử gốc tự do được cho là có liên hệ đến tình trạng lão hóa và bệnh tật, chúng được coi như kẻ thù cần phải loại bỏ khỏi cơ thể.
Vào năm 1972, Harman viết, "việc làm giảm [các phân tử gốc tự do] trong một cơ thể có thể dẫn đến kết quả giảm tỷ lệ lão hóa sinh học và dẫn đến tăng thêm nhiều năm sống mạnh khỏe, hữu ích. Người ta hi vọng rằng [lý thuyết này] sẽ dẫn đến những thí nghiệm hiệu quả trực tiếp về việc tăng tuổi đời khoẻ mạnh ở con người."
Ông nói về chất chống oxy hóa, là các tế bào 'cướp' electron từ phân tử gốc tự do và từ đó giảm bớt nguy cơ mà phân tử gốc tự do có thể gây ra.
Các thí nghiệm ông kỳ vọng đã gieo mầm, được nuôi dưỡng và sau đó được thực hiện trong vài thập niên tiếp theo, nhưng chúng không thu được mấy kết quả.
Trong thời thập niên 1970-1980, nhiều con chuột - một loài động vật được sử dụng rộng rãi trong phòng thí nghiệm - được cho uống nhiều loại chất bổ sung dinh dưỡng chống oxy hóa trong bữa ăn hàng ngày hoặc qua một mũi tiêm thẳng vào máu.
Một số con thậm chí còn được điều chỉnh lại bộ gene để bộ gene tác động tích cực hơn với một số chất chống oxy hóa so với những con chuột thông thường khác.
Mặc dù khác trong phương pháp thực hiện, nhưng các kết quả hầu như giống nhau: lượng chất chống oxy hóa vượt trội không hề ngăn chặn được sự tàn phá của tuổi già, cũng không hề chặn được sự tấn công của bệnh tật.
"Chúng chưa bao giờ chứng tỏ được chúng kéo dài hay cải thiện tuổi đời," Antonio Enriquez từ Trung tâm Nghiên cứu Tim mạch Quốc gia Tây Ban Nha tại Madrid cho biết. "Chuột không bận tâm cho lắm [đến các chất bổ sung]."
Vậy còn con người thì sao? Không như các loài động vật hữu nhũ cỡ nhỏ, các nhà khoa học không thể đưa con người vào phòng thí nghiệm và theo dõi sức khỏe họ suốt cả đời, trong khi vẫn phải kiểm soát tất cả các yếu tố bên ngoài có khả năng làm sai lệch kết quả cuối cùng. Nhưng cách họ có thể làm là thiết lập một thử nghiệm y học lâm sàng dài hạn.
Lý thuyết này khá đơn giản. Trước hết, tìm ra một nhóm giống nhau về tuổi tác, địa điểm và lối sống. Tiếp theo, chia họ thành hai nhóm nhỏ. Một nhóm nhận các chất bổ sung mà các khoa học gia muốn thử nghiệm, trong khi đó nhóm còn lại chỉ nhận các viên đường rỗng, như một loại giả dược.
Tiếp theo, và cực kỳ quan trọng để tránh định kiến không lường được, không ai được biết người nào nhận được loại thuốc nào cho đến khi kết thúc quá trình thử nghiệm, kể cả những người quản lý quá trình điều trị.
Quá trình này được gọi là thử nghiệm "mù đôi" (double-blind), biện pháp được coi là chuẩn mực vàng trong nghiên cứu dược phẩm.
Từ thập niên 1970, đã có rất nhiều thử nghiệm lâm sàng giống vậy để xác định xem các chất bổ sung chống oxy hóa có tác động ra sao tới sức khỏe và tuổi tác của con người.
Kết quả hoàn toàn chẳng có gì khả quan.
Chưa hết, một số nghiên cứu còn cho thấy việc uống bổ sung vitamin trong lúc cơ thể không thiếu hụt chất này có thể còn gây những tác hại chết người.
Mời quý vị đọc phần tiếp theo, Hiểm họa chết người từ việc uống vitamin bổ sung.
Bài tiếng Anh đã đăng trên BBC Future.

Tin liên quan

Geen opmerkingen:

Een reactie posten