Nhiếp ảnh gia quân đội Nguyễn Ngọc Hạnh qua đời
Một nhiếp ảnh gia mà tên tuổi gắn liền với những bức ảnh nổi tiếng về chiến tranh Việt Nam vừa qua đời.
Nhiếp ảnh gia quân đội Việt Nam Cộng Hòa, Trung Tá Nguyễn Ngọc Hạnh, thuộc Binh chủng Nhảy dù, từ trần vào lúc 5 giờ 30 sáng thứ Ba 11 tháng 4, 2017 tại San Jose Health Care and Wellness Center, thọ 90 tuổi, theo tin của báo Người Việt.
Ông Hạnh được thế giới biết đến vì những bức ảnh về chiến tranh Việt Nam. Ông được nhiều giải thưởng cao quý do các hội nhiếp ảnh trên thế giới trao tặng. Là một quân nhân trong một binh chủng lừng danh của Việt Nam, ông đã chứng kiến nhiều cảnh tượng hào hùng và đau thương của người lính cũng như dân chúng trong vùng lửa đạn, nên những bức ảnh qua ống kính của ông làm xúc động hàng triệu người trên thế giới.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, cũng như các quân cán chính cao cấp của Việt Nam Cộng Hòa, ông bị cầm tù hơn 8 năm trong các trại tù ở cả hai miền nam, bắc. Những người từng ở tù chung với ông tại trại Nam Hà A, trên đường đi từ Phủ lý (Nam Định) đến Chi Lê (Ninh Bình) vẫn chưa quên một Nguyễn Ngọc Hạnh giàu lòng nhân ái. Ông thường đi xin khoai sắn của những anh em tù vừa mới được thăm nuôi, không ăn thức ăn trại phát, để mang cho các tù hình sự, bệnh hoạn, ốm đói, bị nhốt riêng trong một phòng gần bệnh xá của trại.
Được trả tự do về lại miền Nam nhờ sự can thiệp của các hội nhiếp ảnh và các tổ chức nhân quyền quốc tế, nhiếp ảnh gia quân đội Nguyễn Ngọc Hạnh đã từ chối lời mời cộng tác của hội nhiếp ảnh thành phố và kiếm sống bằng nghề đạp xích lô.
Sang Mỹ định cư, ông bắt tay ngay vào việc tổ chức các lớp nhiếp ảnh và thành lập Hội Nhiếp ảnh Việt Nam tại San Jose vào năm 1990, đến năm 2000 trở thành Hội Nhiếp ảnh Việt Nam Bắc California.
Ông từng chia sẻ với đài VOA rằng nhờ đạp xích lô đi các nơi trong thành phố, ông gặp những bạn tù cũ và cùng nhau tổ chức vượt biên thành công đến Philippines vào năm 1989 và sau đó định cư tại Mỹ.
Ông say mê nhiếp ảnh đến nhiều khi quên cả gia đình. Ông Đỗ Lịnh Dzũng, chủ tịch Hội Nhiếp ảnh Việt Nam thời bấy giờ cho biết: “Một lần ông tâm sự với tôi là nghề nhiếp ảnh không phải là nghề làm giàu, ông kể là lúc trước ông đam mê nhiếp ảnh bỏ bê cả gia đình. Ông say mê quá sức, bao nhiêu tiền của đổ vào máy ảnh, thi cử, in ảnh. Có một hôm ông đi chụp về ông hỏi vợ hôm nay có gì ăn không thì bà mới lấy một rổ huy chương của ông bà gom hết, đổ vào chảo và nói ‘Đây này ăn đi.’”
Trong lời phát biểu tại Lễ kỷ niệm 20 năm ngày thành lập Hội Nhiếp ảnh vùng Hoa Thịnh Đốn 4/11/2012, ông Hạnh từng chia sẻ:
“Lời nhắn của tôi sau chót hết, là yêu ảnh phải đồng nghĩa với yêu quê hương đất nước. Quốc gia ta đang cần gì trong giai đoạn này? Quốc gia đang cần những trang thanh niên có tấm lòng son dạ sắt hòng nâng đỡ quốc gia đang nghiêng ngã. Tôi xin nhắn lại quý vị nhiếp ảnh gia của VNPS vùng Hoa Thạnh Đốn rằng một cái click máy ảnh của quý vị có thể cứu quê hương trong 5 phút cuối cùng. Xin quý vị quan niệm như vậy và tôi nhắn đi nhắn lại ban quản trị rằng phong cách của một người nhiếp ảnh phải đi kèm theo phong cách của một người Việt Nam yêu nước vì quốc gia ta đang nghiêng ngã. Tâm huyết của tôi là các anh đã được trời phú cho nhìn ra cái đẹp, những cái đẹp của quê hương, của cô gái đồng ruộng, của thành phố. Tốt! Nhưng phải kèm theo cái đẹp điêu linh của quê hương hiện tại. Mất nước đến nơi rồi, thức tỉnh lại vì một cái click của anh cứu được quê hương hay mất quê hương.”
Chắn chắn lời nhắn nhủ của nhiếp ảnh gia quân đội Nguyễn Ngọc Hạnh sẽ mãi mãi ở trong lòng những người bạn say mê nhiếp ảnh dù giờ đây ông không còn bên cạnh các học trò mến yêu của ông nữa.
Theo tờ Người Việt, linh cữu của ông hiện được quàn tại Oak Hill Memorial Park, thành phố San Jose, bang California và sẽ được an táng vào khoảng cuối tháng Tư vì gia đình còn phải chờ một vài người con từ Na Uy về Mỹ dự tang lễ
Nhiếp ảnh gia quân đội Việt Nam Cộng Hòa, Trung Tá Nguyễn Ngọc Hạnh, thuộc Binh chủng Nhảy dù, từ trần vào lúc 5 giờ 30 sáng thứ Ba 11 tháng 4, 2017 tại San Jose Health Care and Wellness Center, thọ 90 tuổi, theo tin của báo Người Việt.
Ông Hạnh được thế giới biết đến vì những bức ảnh về chiến tranh Việt Nam. Ông được nhiều giải thưởng cao quý do các hội nhiếp ảnh trên thế giới trao tặng. Là một quân nhân trong một binh chủng lừng danh của Việt Nam, ông đã chứng kiến nhiều cảnh tượng hào hùng và đau thương của người lính cũng như dân chúng trong vùng lửa đạn, nên những bức ảnh qua ống kính của ông làm xúc động hàng triệu người trên thế giới.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, cũng như các quân cán chính cao cấp của Việt Nam Cộng Hòa, ông bị cầm tù hơn 8 năm trong các trại tù ở cả hai miền nam, bắc. Những người từng ở tù chung với ông tại trại Nam Hà A, trên đường đi từ Phủ lý (Nam Định) đến Chi Lê (Ninh Bình) vẫn chưa quên một Nguyễn Ngọc Hạnh giàu lòng nhân ái. Ông thường đi xin khoai sắn của những anh em tù vừa mới được thăm nuôi, không ăn thức ăn trại phát, để mang cho các tù hình sự, bệnh hoạn, ốm đói, bị nhốt riêng trong một phòng gần bệnh xá của trại.
Được trả tự do về lại miền Nam nhờ sự can thiệp của các hội nhiếp ảnh và các tổ chức nhân quyền quốc tế, nhiếp ảnh gia quân đội Nguyễn Ngọc Hạnh đã từ chối lời mời cộng tác của hội nhiếp ảnh thành phố và kiếm sống bằng nghề đạp xích lô.
Sang Mỹ định cư, ông bắt tay ngay vào việc tổ chức các lớp nhiếp ảnh và thành lập Hội Nhiếp ảnh Việt Nam tại San Jose vào năm 1990, đến năm 2000 trở thành Hội Nhiếp ảnh Việt Nam Bắc California.
Ông từng chia sẻ với đài VOA rằng nhờ đạp xích lô đi các nơi trong thành phố, ông gặp những bạn tù cũ và cùng nhau tổ chức vượt biên thành công đến Philippines vào năm 1989 và sau đó định cư tại Mỹ.
Ông say mê nhiếp ảnh đến nhiều khi quên cả gia đình. Ông Đỗ Lịnh Dzũng, chủ tịch Hội Nhiếp ảnh Việt Nam thời bấy giờ cho biết: “Một lần ông tâm sự với tôi là nghề nhiếp ảnh không phải là nghề làm giàu, ông kể là lúc trước ông đam mê nhiếp ảnh bỏ bê cả gia đình. Ông say mê quá sức, bao nhiêu tiền của đổ vào máy ảnh, thi cử, in ảnh. Có một hôm ông đi chụp về ông hỏi vợ hôm nay có gì ăn không thì bà mới lấy một rổ huy chương của ông bà gom hết, đổ vào chảo và nói ‘Đây này ăn đi.’”
Trong lời phát biểu tại Lễ kỷ niệm 20 năm ngày thành lập Hội Nhiếp ảnh vùng Hoa Thịnh Đốn 4/11/2012, ông Hạnh từng chia sẻ:
“Lời nhắn của tôi sau chót hết, là yêu ảnh phải đồng nghĩa với yêu quê hương đất nước. Quốc gia ta đang cần gì trong giai đoạn này? Quốc gia đang cần những trang thanh niên có tấm lòng son dạ sắt hòng nâng đỡ quốc gia đang nghiêng ngã. Tôi xin nhắn lại quý vị nhiếp ảnh gia của VNPS vùng Hoa Thạnh Đốn rằng một cái click máy ảnh của quý vị có thể cứu quê hương trong 5 phút cuối cùng. Xin quý vị quan niệm như vậy và tôi nhắn đi nhắn lại ban quản trị rằng phong cách của một người nhiếp ảnh phải đi kèm theo phong cách của một người Việt Nam yêu nước vì quốc gia ta đang nghiêng ngã. Tâm huyết của tôi là các anh đã được trời phú cho nhìn ra cái đẹp, những cái đẹp của quê hương, của cô gái đồng ruộng, của thành phố. Tốt! Nhưng phải kèm theo cái đẹp điêu linh của quê hương hiện tại. Mất nước đến nơi rồi, thức tỉnh lại vì một cái click của anh cứu được quê hương hay mất quê hương.”
Chắn chắn lời nhắn nhủ của nhiếp ảnh gia quân đội Nguyễn Ngọc Hạnh sẽ mãi mãi ở trong lòng những người bạn say mê nhiếp ảnh dù giờ đây ông không còn bên cạnh các học trò mến yêu của ông nữa.
Theo tờ Người Việt, linh cữu của ông hiện được quàn tại Oak Hill Memorial Park, thành phố San Jose, bang California và sẽ được an táng vào khoảng cuối tháng Tư vì gia đình còn phải chờ một vài người con từ Na Uy về Mỹ dự tang lễ
http://www.voatiengviet.com/a/nhiep-anh-gia-quan-doi-nguyen-ngoc-hanh-qua-doi/3806599.html
Cách đây ba năm, lần đầu tiên Nguyễn Ngọc Hạnh đến với dutule.com. Tôi chọn được hai bài lục bát và một bài bảy chữ, làm thành bài “giới thiệu chân dung” tiếng thơ xa, lạ, nhưng đã mang đến cho tôi ít, nhiều bất ngờ.
Một ngày cuối năm, tôi không nghĩ lại nhận được tập bản thảo “Phơi Cơn Mưa Lên Chiều” của anh. Thật tình, khi mở tập thơ, tôi không chờ đợi anh sẽ đem đến cho thơ những biến-động-chữ-nghĩa gì đáng kể, nhiều hơn thơ trước. Bởi lần đầu đọc thơ anh, từng khiến tôi phải chú ý với những câu thơ khá mới, như:
hình như ai vấp chân mình
hớ hênh chân bước gập ghềnh bàn chân
Hay:
ai gõ mạn thuyền trên sông vắng
mà mái chèo cằn cựa đến xa xăm
Tôi vẫn có xu hướng thiếu tin tưởng vào đường bay thi ca của những nhà thơ trung-niên, trước hiệu-ứng-thời-gian. Đó là hiện tượng thời gian bào mòn cảm xúc, khô, sần rung động; khi sung mãn tuổi trẻ như thủy triều rút đi, xa lần bờ bãi…
Riêng với Nguyễn Ngọc Hạnh: Tôi lầm.
Qua tập thơ “Phơi Cơn Mưa Lên Chiều,” tôi cảm tưởng, dù có thêm bao nhiêu năm, tháng qua đi, dòng sông thi ca có dễ vẫn đem phù-sa-chữ-nghĩa về cho thơ của anh, như đã. Cảm tưởng vừa nói, nơi tôi, sớm dấy lên khi nhận ra:
Ngay từ những “cơn-mưa-trí-tuệ” đầu tiên trong “…phơi lên chiều” của anh, cho thấy từ bệ phóng chiêm nghiệm nhân sinh, lao lung kiếm tìm cái mới mà, chữ, nghĩa của anh luôn là “biểu-tâm-đồ-thi-ca” chân-thiết nhất, dù vẫn trong cái khung nền thất-tình muôn đời của nhân loại:
không rực rỡ cầu vồng bảy sắc
mây in đời em vào tôi xanh biếc…vét cạn lòng giếng ấy
chỉ nghe tiếng gầu rơi…khi có thơ in lần đầu
tôi tìm tôi trong bài thơ ấy
đến bài thơ cuối đời
lại đọc lòng tôi vậy.”…sẽ không còn lặn lội bờ sông
như cánh cò trong lời ru của mẹ
mới viết được đôi dòng như thế
bỗng bàng hoàng gặp lại nỗi đau xưa
Ở “Phơi Cơn Mưa Lên Chiều,” nơi chốn và hình ảnh người mẹ, không chỉ như hai ngọn hải đăng lớn trong biển nghiệp thi ca anh mà, với tôi, nó còn mang tính song-sinh của tâm-lượng thi sĩ giữa con người và đất nước nữa…
Lịch sử thi ca thế giới, nhất là thi ca Việt Nam, dường như chưa tác giả nào quên nói về mẹ. Nhưng cách nói về mẹ của Nguyễn Ngọc Hạnh, là cách nói trước đây, ta chưa hề thấy:
Mẹ sinh ra trong rơm rạ
Nên hương đồng còn thơm mãi đời anh
Hoặc trong bài “Qua Đò, Nhớ Mẹ,” anh viết:
Không gọi đò, con gọi mẹ ơi
Trên bến sông này
ngày xưa mẹ tắm
Nước tận đầu nguồn
chảy ra biển lớn
mang theo phù sa
từ sữa mẹ ngọt ngào…
Không gọi đò, con gọi mẹ ơi!
Sông thì hẹp
mà vô bờ đến vậy
Con đi qua hết một thời trai trẻ
Từ chiếc đò lòng mẹ
Qua sông
Ôi con đò lòng mẹ
mênh mông!
Hoặc nữa, bài “Quê Mẹ:”
Con đường quê dài như đời mẹ
Tuôỉ thơ buồn trôi giữa mù khơi
Mẹ nhớ ai như sông nhớ suối
Sông dạt dào lòng mẹ, đời tôi
Có những đêm tôi nằm thức trắng
Chênh chếch đời một nửa vầng trăng
Trăng nghiêng bóng mẹ trên đầu rẫy
Như gửi niềm đau xuống đất này…”
Về nơi chốn, anh cũng có những câu thơ đẹp. Cái đẹp của những hình ảnh, tên gọi, đã ẩn tàng trong máu huyết:
Cái làng ấy ra đi cùng tôi
mà tôi nào hay biết
Chỉ mỗi điều giữa câu thơ tôi viết
con sông quê bóng núi cứ chập chờn
Mấy câu thơ trên của anh, khiến tôi liên tưởng tới hai câu thơ nổi tiếng của Chế Lan Viên: “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở/ Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn.” Nhưng “đất hóa tâm hồn” là một liên tưởng phiếm định vì tính mơ hồ của hình tượng. Ở Nguyễn Ngọc Hạnh thì đất của làng, rất cụ thể. Nó được chỉ danh rõ ràng:
– Thứ nhất: Đất đây là “cái làng.”
– Thứ hai: Cái làng ấy “nó” đi theo tác giả.
– Thứ ba: “Con sông quê, bóng núi cứ chập chờn” trong anh, dù nhà thơ đi đâu, ở bất cứ nơi đâu. Tới hôm nay, tôi chưa được đọc câu thơ nào nói về sự gắn bó thịt, xương giữa nơi chốn và con người cảm động hơn thế.
Lại nữa, nơi chốn trong thơ Nguyễn Ngọc Hạnh còn được chỉ đích danh, như xác định tính… “sở hữu” người yêu của mình:
Đà Nẵng nơi này gió se lòng
Mây dưới chân đồi như dòng sông
Ai đứng bên kia bờ Vọng Nguyệt
Trăng ngàn năm cũ nay còn không
Dường như tình yêu mẹ và tình yêu nơi chốn, với anh, là một cặp song sinh? Nên đôi khi tình yêu mẹ và nơi chốn chỉ là một.
Là một, ngay trong những bài lục bát vốn là một trong vài thể thơ được coi là “điểm mạnh” của cõi-giới thơ anh. Mặc dù thơ sáu, tám của anh vẫn còn phong-cách kể chuyện. Nhưng đó là chuyện kể với ngôn ngữ mới và, sự giàu có của những xúc động tự nguồn:
Chiều buồn phố rất nên thơ
Qua sông mà cứ mong chờ hoàng hôn
Chiều lên nửa phố chiều trông
Người đi từ phía bão giông chưa về!
Tảo tần đời mẹ chân quê
Bao năm lặn lội đi, về triền sông
Nón che không hết mùa Đông
Phố che không hết nỗi buồn trần gian
Soi bóng mẹ xuống sông Hàn
Trời không xanh vẫn sáng trong một màu
Biết tìm đâu giữa mai sau…
Nếu trong mấy bài thơ của anh tôi được đọc cách đây nhiều năm là tính mới mẻ trong so sánh, liên tưởng thì ở thi phẩm “Phơi Cơn Mưa Lên Chiều” những đặc tính ấy của thơ anh, có phần phong phú, sâu, lắng hơn nữa. Thí dụ:
Khi em cầm ngọn gió cuối Thu
Chiếc lá vàng rơi vào bài thơ tình phai nhạt…
Tới đây, tôi thấy không thể tiếp tục quan điểm “chỉ gợi ý” với những dòng thơ chọn được mà, xin phép bạn đọc, cho tôi được nói rõ hơn, cảm nhận của mình về hai câu thơ trên của anh.
Đứng về phương diện kỹ thuật, tôi không biết Nguyễn Ngọc Hạnh cố ý hay vô tình nhân cách hóa “ngọn gió cuối Thu,” cho người con gái cầm trên tay? Để, vì là ngọn gió cuối thu, nên hình ảnh chiếc lá vàng hiện ra ở câu thơ kế tiếp rất ứng hợp với ngữ-cảnh. Và, chiếc lá vàng lại “rơi” trong một ngữ-cảnh cũng không thể thích hợp hơn là: “bài thơ tình phai nhạt” (như sự thôi xanh của những chiếc lá cuối mùa).
Tôi gọi đó là kỹ thuật liên-tưởng-gián-cách. Không cần chiếc cầu nối “liên từ” (conjunction) nào. Một thi sĩ khác, để “hiển thị” hoặc, muốn đem sự dễ hiểu đến cho người đọc, có thể sẽ viết “Khi em cầm ngọn gió cuối thu, ‘khiến’ anh nghĩ tới lá vàng. Và chiếc lá vàng ấy, đã rơi vào ‘bài thơ tình phai nhạt.’”
Biết lấy gì để tặng cơn mưa
Cứ lất phất bay như gió nhẹ
Cứ rơi rơi trong chiều lặng lẽ
Mưa cứ mưa đan chéo nỗi buồn
Biết lấy gì để tặng hoàng hôn
Ai đã nhuộm màu trời huyền ảo
Đâu dễ vẽ nên chiều quyến rũ
Dễ pha chiều vào giữa hồn tôi
Biết lấy gì để tặng đêm trôi
Lấy gì lấp đầy hao khuyết
Khi yêu ai nói lời hối tiếc
Thôi đừng bịn rịn với chiều buông
Biết lấy gì để tặng nỗi buồn
Xin trích đời tôi ngày gió bão
Trích phận em phập phù thiếu nữ
Chẳng có ngày vui đàn bà…
Lấy gì đây để tặng đời tôi
Khi giấc mơ sắp khép lại rồi
Biết trích vào đâu mà gửi lại
Câu thơ còn nợ phía bèo trôi…
Tôi trộm nghĩ, nếu Nguyễn Ngọc Hạnh băn khoăn về món nợ tinh thần của anh với “phía bèo trôi,” thì, những người đọc thơ anh, rồi đây, sẽ lấy gì để trả món nợ mà, một đời anh đã tự nguyện hiến, tặng qua thi ca?
(Garden Grove, Tháng Tư 2017)
—–
Chú thích:
(1) Mời đọc thêm “Một Mảng Trời Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh,” dutule.com ngày 17 Tháng Mười Một, 2014.(2) Có bản chép thơ Chế Lan Viên: “Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn.” (Nguồn Wikipedia)
http://www.nguoi-viet.com/van-hoc-nghe-thuat/lan-theo-buoc-chan-thi-ca-nguyen-ngoc-hanh/
Lần dò theo bước chân thi ca Nguyễn Ngọc Hạnh
Du Tử Lê/Người Việt
Một ngày cuối năm, tôi không nghĩ lại nhận được tập bản thảo “Phơi Cơn Mưa Lên Chiều” của anh. Thật tình, khi mở tập thơ, tôi không chờ đợi anh sẽ đem đến cho thơ những biến-động-chữ-nghĩa gì đáng kể, nhiều hơn thơ trước. Bởi lần đầu đọc thơ anh, từng khiến tôi phải chú ý với những câu thơ khá mới, như:
hình như ai vấp chân mình
hớ hênh chân bước gập ghềnh bàn chân
Hay:
ai gõ mạn thuyền trên sông vắng
mà mái chèo cằn cựa đến xa xăm
Tôi vẫn có xu hướng thiếu tin tưởng vào đường bay thi ca của những nhà thơ trung-niên, trước hiệu-ứng-thời-gian. Đó là hiện tượng thời gian bào mòn cảm xúc, khô, sần rung động; khi sung mãn tuổi trẻ như thủy triều rút đi, xa lần bờ bãi…
Riêng với Nguyễn Ngọc Hạnh: Tôi lầm.
Qua tập thơ “Phơi Cơn Mưa Lên Chiều,” tôi cảm tưởng, dù có thêm bao nhiêu năm, tháng qua đi, dòng sông thi ca có dễ vẫn đem phù-sa-chữ-nghĩa về cho thơ của anh, như đã. Cảm tưởng vừa nói, nơi tôi, sớm dấy lên khi nhận ra:
Ngay từ những “cơn-mưa-trí-tuệ” đầu tiên trong “…phơi lên chiều” của anh, cho thấy từ bệ phóng chiêm nghiệm nhân sinh, lao lung kiếm tìm cái mới mà, chữ, nghĩa của anh luôn là “biểu-tâm-đồ-thi-ca” chân-thiết nhất, dù vẫn trong cái khung nền thất-tình muôn đời của nhân loại:
không rực rỡ cầu vồng bảy sắc
mây in đời em vào tôi xanh biếc…vét cạn lòng giếng ấy
chỉ nghe tiếng gầu rơi…khi có thơ in lần đầu
tôi tìm tôi trong bài thơ ấy
đến bài thơ cuối đời
lại đọc lòng tôi vậy.”…sẽ không còn lặn lội bờ sông
như cánh cò trong lời ru của mẹ
mới viết được đôi dòng như thế
bỗng bàng hoàng gặp lại nỗi đau xưa
Ở “Phơi Cơn Mưa Lên Chiều,” nơi chốn và hình ảnh người mẹ, không chỉ như hai ngọn hải đăng lớn trong biển nghiệp thi ca anh mà, với tôi, nó còn mang tính song-sinh của tâm-lượng thi sĩ giữa con người và đất nước nữa…
Lịch sử thi ca thế giới, nhất là thi ca Việt Nam, dường như chưa tác giả nào quên nói về mẹ. Nhưng cách nói về mẹ của Nguyễn Ngọc Hạnh, là cách nói trước đây, ta chưa hề thấy:
Mẹ sinh ra trong rơm rạ
Nên hương đồng còn thơm mãi đời anh
Hoặc trong bài “Qua Đò, Nhớ Mẹ,” anh viết:
Không gọi đò, con gọi mẹ ơi
Trên bến sông này
ngày xưa mẹ tắm
Nước tận đầu nguồn
chảy ra biển lớn
mang theo phù sa
từ sữa mẹ ngọt ngào…
Không gọi đò, con gọi mẹ ơi!
Sông thì hẹp
mà vô bờ đến vậy
Con đi qua hết một thời trai trẻ
Từ chiếc đò lòng mẹ
Qua sông
Ôi con đò lòng mẹ
mênh mông!
Hoặc nữa, bài “Quê Mẹ:”
Con đường quê dài như đời mẹ
Tuôỉ thơ buồn trôi giữa mù khơi
Mẹ nhớ ai như sông nhớ suối
Sông dạt dào lòng mẹ, đời tôi
Có những đêm tôi nằm thức trắng
Chênh chếch đời một nửa vầng trăng
Trăng nghiêng bóng mẹ trên đầu rẫy
Như gửi niềm đau xuống đất này…”
Về nơi chốn, anh cũng có những câu thơ đẹp. Cái đẹp của những hình ảnh, tên gọi, đã ẩn tàng trong máu huyết:
Cái làng ấy ra đi cùng tôi
mà tôi nào hay biết
Chỉ mỗi điều giữa câu thơ tôi viết
con sông quê bóng núi cứ chập chờn
Mấy câu thơ trên của anh, khiến tôi liên tưởng tới hai câu thơ nổi tiếng của Chế Lan Viên: “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở/ Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn.” Nhưng “đất hóa tâm hồn” là một liên tưởng phiếm định vì tính mơ hồ của hình tượng. Ở Nguyễn Ngọc Hạnh thì đất của làng, rất cụ thể. Nó được chỉ danh rõ ràng:
– Thứ nhất: Đất đây là “cái làng.”
– Thứ hai: Cái làng ấy “nó” đi theo tác giả.
– Thứ ba: “Con sông quê, bóng núi cứ chập chờn” trong anh, dù nhà thơ đi đâu, ở bất cứ nơi đâu. Tới hôm nay, tôi chưa được đọc câu thơ nào nói về sự gắn bó thịt, xương giữa nơi chốn và con người cảm động hơn thế.
Lại nữa, nơi chốn trong thơ Nguyễn Ngọc Hạnh còn được chỉ đích danh, như xác định tính… “sở hữu” người yêu của mình:
Đà Nẵng nơi này gió se lòng
Mây dưới chân đồi như dòng sông
Ai đứng bên kia bờ Vọng Nguyệt
Trăng ngàn năm cũ nay còn không
Dường như tình yêu mẹ và tình yêu nơi chốn, với anh, là một cặp song sinh? Nên đôi khi tình yêu mẹ và nơi chốn chỉ là một.
Là một, ngay trong những bài lục bát vốn là một trong vài thể thơ được coi là “điểm mạnh” của cõi-giới thơ anh. Mặc dù thơ sáu, tám của anh vẫn còn phong-cách kể chuyện. Nhưng đó là chuyện kể với ngôn ngữ mới và, sự giàu có của những xúc động tự nguồn:
Chiều buồn phố rất nên thơ
Qua sông mà cứ mong chờ hoàng hôn
Chiều lên nửa phố chiều trông
Người đi từ phía bão giông chưa về!
Tảo tần đời mẹ chân quê
Bao năm lặn lội đi, về triền sông
Nón che không hết mùa Đông
Phố che không hết nỗi buồn trần gian
Soi bóng mẹ xuống sông Hàn
Trời không xanh vẫn sáng trong một màu
Biết tìm đâu giữa mai sau…
Nếu trong mấy bài thơ của anh tôi được đọc cách đây nhiều năm là tính mới mẻ trong so sánh, liên tưởng thì ở thi phẩm “Phơi Cơn Mưa Lên Chiều” những đặc tính ấy của thơ anh, có phần phong phú, sâu, lắng hơn nữa. Thí dụ:
Khi em cầm ngọn gió cuối Thu
Chiếc lá vàng rơi vào bài thơ tình phai nhạt…
Tới đây, tôi thấy không thể tiếp tục quan điểm “chỉ gợi ý” với những dòng thơ chọn được mà, xin phép bạn đọc, cho tôi được nói rõ hơn, cảm nhận của mình về hai câu thơ trên của anh.
Đứng về phương diện kỹ thuật, tôi không biết Nguyễn Ngọc Hạnh cố ý hay vô tình nhân cách hóa “ngọn gió cuối Thu,” cho người con gái cầm trên tay? Để, vì là ngọn gió cuối thu, nên hình ảnh chiếc lá vàng hiện ra ở câu thơ kế tiếp rất ứng hợp với ngữ-cảnh. Và, chiếc lá vàng lại “rơi” trong một ngữ-cảnh cũng không thể thích hợp hơn là: “bài thơ tình phai nhạt” (như sự thôi xanh của những chiếc lá cuối mùa).
Tôi gọi đó là kỹ thuật liên-tưởng-gián-cách. Không cần chiếc cầu nối “liên từ” (conjunction) nào. Một thi sĩ khác, để “hiển thị” hoặc, muốn đem sự dễ hiểu đến cho người đọc, có thể sẽ viết “Khi em cầm ngọn gió cuối thu, ‘khiến’ anh nghĩ tới lá vàng. Và chiếc lá vàng ấy, đã rơi vào ‘bài thơ tình phai nhạt.’”
***
Tới đây, tôi nghĩ không nên viết thêm điều gì nữa, về cõi-giới thơ mênh mông kênh, mạch của Nguyễn Ngọc Hạnh. Vì có viết thêm bao nhiêu, cũng sẽ không đủ. Nên, tôi xin khép lại bài viết này, bằng bài “Còn Nợ Phía Bèo Trôi.” Một bài thơ cho thấy tấm lòng biết ơn đời, biết ơn người và, biết ơn luôn cả rác rến (phía bèo trôi) của cuộc sống, một khi tác giả phải đi xa, khuất, biệt cuộc đời này:Biết lấy gì để tặng cơn mưa
Cứ lất phất bay như gió nhẹ
Cứ rơi rơi trong chiều lặng lẽ
Mưa cứ mưa đan chéo nỗi buồn
Biết lấy gì để tặng hoàng hôn
Ai đã nhuộm màu trời huyền ảo
Đâu dễ vẽ nên chiều quyến rũ
Dễ pha chiều vào giữa hồn tôi
Biết lấy gì để tặng đêm trôi
Lấy gì lấp đầy hao khuyết
Khi yêu ai nói lời hối tiếc
Thôi đừng bịn rịn với chiều buông
Biết lấy gì để tặng nỗi buồn
Xin trích đời tôi ngày gió bão
Trích phận em phập phù thiếu nữ
Chẳng có ngày vui đàn bà…
Lấy gì đây để tặng đời tôi
Khi giấc mơ sắp khép lại rồi
Biết trích vào đâu mà gửi lại
Câu thơ còn nợ phía bèo trôi…
Tôi trộm nghĩ, nếu Nguyễn Ngọc Hạnh băn khoăn về món nợ tinh thần của anh với “phía bèo trôi,” thì, những người đọc thơ anh, rồi đây, sẽ lấy gì để trả món nợ mà, một đời anh đã tự nguyện hiến, tặng qua thi ca?
(Garden Grove, Tháng Tư 2017)
—–
Chú thích:
(1) Mời đọc thêm “Một Mảng Trời Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh,” dutule.com ngày 17 Tháng Mười Một, 2014.(2) Có bản chép thơ Chế Lan Viên: “Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn.” (Nguồn Wikipedia)
http://www.nguoi-viet.com/van-hoc-nghe-thuat/lan-theo-buoc-chan-thi-ca-nguyen-ngoc-hanh/
Geen opmerkingen:
Een reactie posten