Căn bệnh ung thư nào thường “đeo bám” trẻ?
(Kienthuc.net.vn) - Ung thư là bệnh lý ác tính của tế bào có thể gặp ở mọi cơ quan trong cơ thể, xảy ra ở mọi lứa tuổi kể cả trẻ mới sinh (do đột biến gen từ lúc trong bào thai). Dưới đây là một số bệnh ung thư thường hay gặp nhất ở trẻ em.
Ung thư là bệnh lý ác tính của tế bào có thể gặp ở mọi cơ quan trong cơ thể, xảy ra ở mọi lứa tuổi kể cả trẻ mới sinh (do đột biến gen từ lúc trong bào thai). Trên thế giới, mỗi năm có thêm 160.000 trẻ bị ung thư và khoảng 90.000 trẻ chết do ung thư. Ở các nước đang phát triển (trong đó có Việt Nam), bệnh ung thư là nguyên nhân thứ hai gây tử vong ở trẻ em dưới 14 tuổi. Dưới đây là một số bệnh ung thư thường gặp ở trẻ em và các triệu chứng nhận biết khi mắc các bệnh ung thư này.
1. Bệnh bạch cầu cấp: Bệnh bạch cầu cấp là bệnh ung thư của dòng bạch cầu. Có 2 loại bạch cầu: bạch cầu dòng tuỷ và bạch cầu dòng lympho. Bạch cầu ảnh hưởng tới các tế bào dòng lympho và là thể ung thư phổ biến nhất ở trẻ em, chiếm tới 23% tỉ lệ ung thư được chẩn đoán ở trẻ dưới 15 tuổi.
Do các tế bào bạch cầu không thể chống các bệnh viêm nhiễm và thường có xu hướng tụ lại ở nhiều nơi trên cơ thể, và trẻ thương bị thiếu hồng cầu và tiểu cầu (gây ra thiếu máu). Trẻ bị bạch cầu cấp thường có nhiều triệu chứng như sau: Sốt; Mệt mỏi; Viêm nhiễm thường xuyên; Sưng hạch bạch huyết, gan hoặc lách; Da xanh; Dễ bị chảy máu hoặc thâm tím; Có những đốm xuất huyết dưới da; Đau xương hoặc khớp
2. Bệnh Bạch cầu cấp dòng tuỷ: Bệnh bạch cầu cấp dòng tuỷ là loại ung thư của mô tạo máu, đó chính là tuỷ xương và hạch bạch huyết. Khi bạch cầu phát triển, tuỷ xương sẽ sản sinh ra một lượng lớn các tế bào bất thường - thường là bạch cầu. Các tế bào máu bất thường, không có khả năng chống lại viêm nhiễm này sẽ lan toả toàn bộ dòng máu và hệ bạch huyết và có thể xâm nhập các cơ quan nội tạng quan trọng.
Ảnh minh họa. |
Các dấu hiệu sớm của bệnh bạch cầu dòng tuỷ là: Sốt; Cảm thấy mệt hoặc yếu; Ớn lạnh; Viêm nhiễm thường xuyên; Sưng hạch bạch huyết, gan to, lách to; Triệu chứng giống bệnh cúm; Dễ bị chảy máu hoặc thâm tím; Đau nhức xương hoặc khớp
3. Bệnh u nguyên bào thần kinh: U nguyên bào thần kinh là một khối u ung thư có tính chất cứng. Khối u bắt đầu từ mô thần kinh ở cổ, ngực, bụng hoặc chậu hông, nhưng thông thường (1/3 trường hợp) khối u có gốc ở mô tuyến thượng thận trong ổ bụng. Khối u này đặc trưng ở trẻ nhỏ và chiếm khoảng 50% các ca ung thư được chẩn đoán ở trẻ sơ sinh. Bất kỳ triệu chứng đơn lẻ hoặc kết hợp sau cũng có thể là dấu hiệu của u nguyên bào thần kinh như: Khối u/cục bất thường, thường xuất hiện ở cổ, ngực, bụng hoặc chậu hông; Đau bụng hoặc khó chịu ở bụng; Đau xương hoặc mềm xương; Sốt; Mắt lồi ra và có vòng thâm quanh mắt
4. Bệnh ung thư thận: Gặp nhiều nhất ở lứa tuổi 3-4. Khoảng 1-2% trường hợp có tính chất gia đình (ở thể di truyền, bệnh xuất hiện sớm hơn). Thường kết hợp với nhiều dị tật bẩm sinh như: dị tật tiết niệu (4,5%), tật không mống mắt (2%), phì đại nửa người (3%). Do đó, những trẻ có các dị tật trên cần được theo dõi cho tới 6 tuổi mới có thể yên tâm về nguy cơ ung thư thận. Có khối u ở bụng kèm theo rối loạn tiêu hóa, toàn thân suy sụp nhanh, đôi khi kèm theo sốt.
Ngoài ra thì còn có triệu chứng như: U bụng to nhưng có dấu hiệu chạm thận (đặt bàn tay vào hố thắt lưng thì có cảm giác như cả một khối to đè nặng lên bàn tay) và bập bềnh thận (đẩy bàn tay từ dưới lên thì khối u sẽ đụng vào bàn tay đặt phía trước bụng). Dùng cả 2 bàn tay thăm khám phía trước, phía sau khối u thì thấy u tròn, chắc, bờ đều; dái máu toàn bãi, viêm đường tiết niệu, giãn tĩnh mạch thừng tinh; tăng huyết áp.
5. Ung thư hạch (hay bệnh ulymphô ác tính không Hodgkin): Thường gặp độ tuổi từ 7 - 11, Do các tế bào lymphô tập trung nhiều tại các hạch bạch huyết nên triệu chứng tại hạch thường gặp và rõ ràng nhất. Tức là: Hạch càng ngày càng to ra, lúc đầu chỉ có thể một hạch sau lan ra một hay nhiều nhóm hạch, cuối cùng là hạch toàn thân. Hạch lúc đầu không đau hoặc chỉ đau nhẹ, càng về sau người bệnh có thể đau nhức nhiều do tế bào ung thư xâm lấn các tổ chức xung quanh. Hạch to thường dễ phát hiện nếu là hạch cổ, hạch nách, hạch bẹn.
Ngoài ra, nếu U lymphô xuất hiện ngoài hạch như ở dạ dày thì sẽ có triệu chứng như viêm lóet dạ dày, xuất huyết tiêu hóa (đi cầu phân đen), ở vùng bụng thì có triệu chứng đau vùng bụng, đau lưng. Bệnh thường kèm theo các triệu chứng toàn thân như: sốt kéo dài nhưng không có dấu hiệu nhiễm trùng, đổ mồ hôi ban đêm, sụt cân hơn 10% trọng lượng cơ thể trong vòng 6 tháng.
6. Bệnh Hodgkin: Bệnh phần lớn tấn công trẻ nhỏ (trên 3 tuổi) và thanh thiếu niên. Bệnh Hodgkin là một dạng ung thư mô bạch huyết, gây sưng hạch ở cổ, nách, háng, ngực..., kèm theo các triệu chứng như Sốt kéo dài, Yếu mệt, sụt cân dù việc ăn uống vẫn bình thường, ho hoặc khó thở, có thể có ngứa ngáy ngoài da ra mồ hôi ban đêm.
7. U nguyên bào võng mạc: Hay gặp dưới 3 tuổi; triệu chứng của bệnh là có điểm trắng ở mắt, thấy rõ khi mắt chuyển động …
8. U xương: Bệnh u xương thường có hiện tượng đau nhức trong xương; nổi gồ trên mặt da bờ không rõ, không đau; thường gặp ở độ 12-16 tuổi.
9. Bệnh Sacôm cơ vân: là sacôm mô mềm phổ biến nhất ở trẻ em, thường gặp dưới 6 tuổi và tuổi dậy thì. Sacôm mô mềm thường xuất hiện như một cục hoặc một khối, nhưng hiếm khi chúng gây đau, sưng, hoặc các triệu chứng khác. Một cục hay một khối có thể không phải là một sacôm, nó có thể là lành tính (không ung thư), một loại khác của ung thư hoặc một bệnh khác. Điều quan trọng là phải đi khám bệnh khi có một thay đổi bất kỳ trên cơ thể, chẳng hạn như một cục hay một khối xuất hiện, vì chỉ có bác sĩ mới có thể chẩn đoán.
10. Bệnh ung thư gan: Đa số trẻ ung thư gan thường vào viện với tình trạng bụng to bất thường và có bướu sờ được trong bụng. Khối u có thể ở vùng dưới bờ sườn bên phải hoặc chiếm cả ½ bên phải bụng, chắc, không gây đau.
TIN LIÊN QUAN
Cho con bú giúp giảm nguy cơ ung thư
(Kienthuc.net.vn) - Theo các nhà khoa học, cho con bú có thể làm giảm nguy cơ mắc ung thư buồng trứng ở mẹ tới 63%.
Cho con bú có khả năng giảm thiểu nguy cơ ung thư buồng trứng ở người mẹ. |
Người mẹ càng kéo dài thời gian nuôi con bằng sữa mẹ thì khả năng phòng bệnh lại càng cao. Ngoài ra, nghiên cứu cũng đưa thêm bằng chứng cho thấy quá trình mẹ cho con bú sẽ làm giảm nguy cơ ung thư vú.
Mỗi năm có hơn 6.000 bệnh nhân ở Anh được chẩn đoán ung thư buồng trứng và số người tử vong vì căn bệnh này chiếm 5% lượng người tử vong do ung thư.
Nguy cơ mắc bệnh sẽ tăng cao nếu mẹ, chị gái hoặc con gái bạn bị ung thư buồng trứng, thậm chí căn bệnh có thể tới từ cả họ bên ngoại và bên nội. Tỷ lệ này còn cao hơn nếu bạn có nhiều người thân mắc bệnh hơn. Ngoài ra, nguy cơ còn tăng cao nếu tiền sử bệnh trong gia đình, từng mắc ung thư vú, kinh nguyệt sớm và thừa cân. Ung thư buồng trứng có thể di truyền trong gia đình.
Căn bệnh này được coi là "kẻ giết người thầm lặng" vì các triệu chứng không rõ rệt và bệnh thường không được chẩn đoán cho tới khi đã tiến triển khá nhiều.
Trong nghiên cứu mới nhất đăng tải trên Đặc san American Journal of Clinical Nutrition, các nhà khoa học Úc đã nghiên cứu 493 phụ nữ được chẩn đoán với ung thư buồng trứng và so sánh họ với 472 người khoẻ mạnh cùng độ tuổi.
Những người tham gia nghiên cứu phải trả lời các câu hỏi về số lượng con cái và thời gian họ nuôi con bằng sữa mẹ. Kết quả cho thấy, những người cho con bú ít nhất 13 tháng thì ít có nguy cơ bị ung thư buồng trứng hơn.
Theo đó, họ càng có nhiều con thì hiệu quả của việc này lại càng cao. Nguy cơ mắc bệnh ở các mẹ có 3 con với tổng thời gian cho con bú từ 31 tháng trở lên còn giảm tới 91%. Số liệu này được tổng hợp khi đem so sánh họ với những người nuôi con bằng sữa mẹ dưới 10 tháng.
Người ta cho rằng, cho con bú sẽ làm trì hoãn quá trình rụng trứng, thời điểm buồng trứng chứa lượng dịch giàu estrogen cao nhất. Nhiều nhà khoa học tin rằng số lượng rụng trứng càng nhiều thì nguy cơ hình thành tế bào đột biến càng cao và đây là yếu tố gây bệnh.
Theo khảo sát, Anh là một trong những nước có tỷ lệ nuôi con bằng sữa mẹ thấp nhất châu Âu. Trong 10 người, có 8 người cho con bú sau khi đứa trẻ ra đời và tỷ lệ này giảm xuống còn 1 nửa sau 6 tuần. Trong khi đó, cho con bú trong 6 tháng thì nguy cơ mắc ung thư buồng trứng chỉ giảm được 26%.
TIN LIÊN QUAN
TIN LIÊN QUAN
http://kienthuc.net.vn/khoe-tin-tuc/cho-con-bu-giup-giam-nguy-co-ung-thu-184340.html
Mắc bệnh ung thư vì dùng ... vitamin
(Kienthuc.net.vn) - Vitamin có tác dụng tuyệt vời cho sức khỏe, tuy nhiên nhiều nghiên cứu cho thấy không phải tất cả vitamin đều tốt, thậm chí một số loại có thể gây hại.
Vitamin đang trở thành ngành công nghiệp triệu đô
Tiến sĩ Leslie Mendoza thuộc Đại học Y Temple cho biết, hầu hết những bệnh nhân đều bổ sung vitamin bằng viên uống trong khi điều đó không thực sự cần thiết.
Vitamin D có tác dụng tốt trong việc chống lại bệnh ung thư và kích thích hấp thụ canxi cho xương, vitamin C có tác dụng tăng cường hệ miễn dịch, làm chậm quá trình lão hóa...Dựa trên những tác dụng tuyệt vời đó, vitamin đang bị lạm dụng để trở thành ngành công nghiệp triệu đô.
Theo nhiều nghiên cứu, mỗi người Mỹ hàng năm phải bỏ ra 30 USD một tháng cho việc mua vitamin dạng viên bổ sung. Mỗi năm trung bình người Mỹ tốn 7,5 tỷ USD cho việc bổ sung vitamin với hy vọng kéo dài tuổi thọ, chậm lão hóa và bảo vệ cơ thể chống lại bệnh tật.
Vitamin không tốt như bạn nghĩ
Tuy nhiên, đại đa số các loại vitamin được bày bán trên thị trường không cung cấp đầy đủ dưỡng chất như vitamin tự nhiên có trong thực phẩm, thậm chí chúng còn có thể gây hại cho sức khỏe.
Tiến sĩ Mendoza cho hay: “Bổ sung liều cao vitamin A và beta carotene ở những người hút thuốc lá có thể làm tăng nguy cơ ung thư phổi”.
Các nghiên cứu mới nhất cũng cho thấy, vitamin E quá nhiều sẽ dẫn đến ung thư tuyến tiền liệt.
Một nghiên cứu khác gần đây cho thấy tỷ lệ tử vong tăng cao ở phụ nữ nếu dùng quá liều vitamin. Do đó, quan niệm càng nhiều vitamin càng tốt là hoàn toàn sai lệch.
“Nếu quá nhiều vitamin D, sự kích thích canxi hấp thụ ngày nhiều, nguy cơ hình thành sỏi thận sẽ cao hơn do lượng canxi thừa tích tụ trong nước tiểu và lắng cặn thành sỏi ở thận”, Tiến sĩ Mendoza nói thêm.
Một báo cáo được đăng tải trên Tạp chí của Hiệp hội Y học Mĩ phát hiện ra rằng việc dùng vitamin chống oxy hóa quá nhiều có thể làm tăng nguy vơ tử vong lên tới 16%.
Vào năm 2011, một nghiên cứu được đăng trên tạp chí Archives of Internal Meddicine chỉ ra rằng vitamin tổng hợp, acid folic, sắt, đồng, magie, kẽm và vitamin bổ sung B16 có thể làm tăng nguy cơ tử vong ở người lớn tuổi. Nghiên cứu đã được thực hiện trên 16.000 phụ nữ tham gia.
Quan niệm sai lầm
Những năm gần đây, các nhà khoa học đã thực hiện nhiều nghiên cứu và phát hiện ra tác dụng thực tế của vitamin không phải như nhiều người từng nghĩ.
Chúng ta hoàn toàn có thể bỏ qua vitamin bổ sung và tập trung vào chế độ ăn uống lành mạnh. |
Một nghiên cứu năm 2008 trên khoảng 15.000 người cho thấy vitamin E và C không ảnh hưởng đến việc giảm tỷ lệ ung thư.
Một nghiên cứu khác ở 35.000 người đàn ông cho thấy uống vitamin E và Selen không có tác động tích cực đến việc dừng tiến triển ung thư, thậm chí còn khiến bệnh ung thư và tiểu đường tăng nhẹ.
Theo nghiên cứu được đăng tải trên Website y tế JAMA, các nhà nghiên cứu kết luận rằng việc bổ sung vitamin B12 không có hiệu quả trong việc ngăn ngừa đột quỵ, đau tim hoặc tử vong ở những người có tiền sử bệnh tim. Nghiên cứu này được kết luận từ 12 nghiên cứu nhỏ trên 16.598 người tham gia.
Sau đó, trong tháng 11/2008, một kết luận của nghiên cứu gần 8 năm trên gần 15.000 người tham gia chỉ ra rằng uống vitamin C hoặc E không có tác động nhiều đến tỷ lệ mắc bệnh nhồi máu cơ tim, suy tim sung huyết hoặc đau thắt ngực đột quỵ.
Một nghiên cứu mới nhất cũng cho thấy vitamin D không có tác dụng nhiều trong giảm đau, sưng khớp gối do viêm khớp dạng thấp gây nên.
Do đó, đôi khi việc bổ sung vitamin là không cần thiết và chúng ta hoàn toàn có thể bỏ qua vitamin bổ sung và tập trung vào chế độ ăn uống lành mạnh.
TIN LIÊN QUAN
TIN LIÊN QUAN
Cẩm Linh (Theo Forbes, Chicago.cbslocal)
http://kienthuc.net.vn/khoe-tin-tuc/mac-benh-ung-thu-vi-dung-vitamin-184012.html
http://kienthuc.net.vn/khoe-tin-tuc/mac-benh-ung-thu-vi-dung-vitamin-184012.html
Geen opmerkingen:
Een reactie posten