vrijdag 7 juli 2017

Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn Từ phụ bếp thành giáo sư đại học danh tiếng thế giới ở Uc

Thứ bảy, 8/7/2017 | 01:00 GMT+7

Giáo sư gốc Việt thành danh ở Australia

Giáo sư gốc Việt thành danh ở Australia

Từ phụ bếp, ông Tuấn học đại học, làm trợ lý nghiên cứu rồi theo đuổi chương trình tiến sĩ, trở thành giáo sư danh tiếng thế giới.

Bất kỳ bác sĩ nào ở Việt Nam và trên thế giới điều trị bệnh loãng xương hay nghiên cứu về nó đều làm quen hoặc sử dụng mô hình đánh giá nguy cơ gãy xương tên "Garvan Fracture Risk Calculator". Nhưng ít người biết tác giả mô hình là người Việt - giáo sư Nguyễn Văn Tuấn. Ông vừa được Đại học New South Wales (Australia) trao học vị tiến sĩ cao nhất vì những đóng góp xuất sắc cho chuyên ngành loãng xương thế giới. Nhưng đằng sau vinh dự đó là quãng thời gian đầy gian truân và vượt lên nghịch cảnh của ông.
Giáo sư Tuấn sinh ra trong gia đình làm nghề nông ở Kiên Giang, quê gốc Bình Định. Đầu năm 1982, ông sang Australia định cư. Khi được viên chức tòa đại sứ Australia hỏi lý do muốn đến đất nước này, sau một vài vấp váp, ông hồn nhiên: "Tôi muốn nhìn thấy con Kangaroo". Người phỏng vấn bật cười và nói: "Ok, tôi nhận anh. Qua bên kia làm thủ tục".
Sau 8 giờ bay, ông đặt chân đến thành phố Sydney đúng vào ngày Quốc khánh. Trong khi mọi người mang theo hành lý sang trọng thì ông chỉ có một túi xách chứa hai bộ quần áo; chân đi bata, mặc áo màu trắng và quần tây màu đen. "Hai Lúa còn hơn tôi, vì lúc đó tôi chẳng có nổi một đồng xu", ông nhớ lại.
Bắt đầu là phụ bếp
Đến Australia, việc đầu tiên ông làm là học tiếng Anh, nhưng ông thấy chán khi ngày nào cũng "How are you", "I am fine, thank you", "I am looking for a job". Bỏ học, ông quyết tâm tự học, mỗi ngày chỉ một từ nhưng tìm hiểu tường tận về nó. Từ nào không hiểu ông lại lôi từ điển ra tra.
Khi tự tin hơn trong giao tiếp với người bản địa, ông bắt đầu đi tìm việc và được nhận vào làm phụ bếp trong bệnh viện nổi tiếng St Vincent's. Công việc hàng ngày là rửa nồi niêu, chén bát và thái hành tây. "Tôi chưa bao giờ nhìn thấy đống hành tây lớn như vậy. Vừa gọt nước mắt vừa chảy giàn giụa vì cay quá, nhưng tôi không dám kêu, bởi có một công việc lúc đó là may mắn lắm rồi", ông nói.
Xong công việc chính, ông tiếp tục lau chùi nhà bếp và gần như không có thời gian nghỉ. Mỗi ngày hai lần được nghỉ giải lao thì mỗi lần chỉ 15 phút để ăn sáng hoặc uống cà phê. Nếu nghỉ quá giờ, dù là 5 phút nhân viên đó sẽ bị trừ lương. "Con người ở đây làm việc như cái máy, rất mệt nhưng tôi lại thấy vui vì vừa có việc làm lại có tiền gửi về Việt Nam", ông nói. Công việc này cũng giúp ông định hình tính cách - dù là việc nhỏ nhưng phải rất cẩn thận và làm cho tốt, gọt củ hành cũng phải cho dễ nhìn, sắp xếp chén bát sao cho đẹp mắt.
Sau thời gian ở St Vincent's, với kinh nghiệm phụ bếp, ông tìm thêm việc làm thứ hai trong nhà bếp của một khách sạn 5 sao mới mở, mức lương cao gấp đôi. Chỉ thời gian ngắn, ông đã tích góp đủ tiền mua được ôtô.
Không yên phận là phụ bếp, ông xin vào học Đại học Sydney bán thời gian nhưng không được nhận vì cho rằng ông không có khả năng học. Sau đó, ông ghi danh học ở Đại học Macquarie, nơi mới mở môn dịch tễ học và thống kê học mà ông muốn theo đuổi, vì có liên quan trực tiếp với công việc mới - trợ lý nghiên cứu ở Phòng nghiên cứu và kế hoạch thuộc Bộ Y tế bang New South Wales.
Quá trình theo học, ngôn ngữ chính là yếu tố gây khó khăn nhất cho chàng sinh viên gốc Việt. Ông chỉ biết dựa vài dòng giảng viên ghi trên bảng để đoán xem ông ta đang nói gì. Để theo kịp các bạn, hàng đêm ông thường ngồi lại thư viện đọc sách và làm bài. Suốt 3 năm liền, đêm nào ông về đến nhà cũng 22-23h.
giao-su-goc-viet-thanh-danh-o-australia
Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn. Ảnh: NVCC.
Giáo sư tại trường danh tiếng 
Sau khi hoàn tất luận án masters ở trường Macquarie, ông quay lại Đại học Sydney để làm trợ giảng và theo chương trình tiến sĩ. Đầu năm 1990, ông được "chiêu dụ" về làm tại Viện nghiên cứu y khoa Garvan (Garvan Institute of Medical Research), thuộc Bệnh viện St Vincent's. Viện là trung tâm đào tạo chuyên khoa cho Đại học New South Wales và Bệnh viện St Vincent's - nơi ông làm đầu bếp hơn 9 năm trước.
Lúc đó, Viện Garvan đang thực hiện nghiên cứu quy mô lớn về loãng xương. Họ cần người điều hành nghiên cứu, thu thập và phân tích dữ liệu phục vụ cho công bố quốc tế. Ông làm cùng giáo sư hàng đầu trong chuyên ngành, cũng là người sau này hướng dẫn luận án cho ông. Suốt 8 năm, ông dồn tâm trí vào việc học hành và nghiên cứu về nội tiết, xương và bệnh loãng xương, từ các vấn đề căn bản sinh học tới di truyền lâm sàng.
Năm 1994, trong một khám phá tình cờ, ông và một nghiên cứu sinh sau tiến sĩ nảy ra ý tưởng nghiên cứu vai trò của di truyền tố thụ thể vitamin D (gọi tắt là VDR gene) trong xương. Nghiên cứu được công bố trên nhiều tạp chí hàng đầu thế giới và mở ra hướng đi mới trong chuyên ngành. Ông và thầy nhận được nhiều giải thưởng quốc tế từ công trình nghiên cứu về di truyền loãng xương.
Năm 2007, ông và một nghiên cứu sinh gốc Việt sử dụng các thành tựu nghiên cứu trước đây để xây dựng mô hình tiên lượng nguy cơ gãy xương, dựa trên nguyên lý "cá nhân hóa". Mô hình có tên là "Garvan Fracture Risk Calculator" hay "Nguyen's Model", được giới bác sĩ khắp thế giới sử dụng trong quản lý lâm sàng bệnh nhân loãng xương. Mới đây, ông cùng nghiên cứu sinh khác tạo ra một "chữ ký gen" để tiên lượng gãy xương ở phụ nữ sau mãn kinh, và công trình được giải thưởng năm 2017. Năm 2015 khi Viện Garvan kỷ niệm 50 năm ngày thành lập, ông là một trong 25 người được ghi nhận công trạng.
Năm 2008, sau nhiều năm phấn đấu cùng các thành tựu, ông được Hội đồng Quốc gia y khoa và y tế Australia (NHMRC) thưởng một "ghế nghiên cứu" gọi là research fellowship, trong 5 năm được cấp tiền để nghiên cứu khoa học. Mỗi năm chỉ 50-70 người trong số 2.000 ứng viên được nhận "ghế nghiên cứu" và ông là người Việt duy nhất ở Australia được trao.
Tiếp đó, Đại học New South Wales - tốp 50 thế giới - bổ nhiệm giáo sư cho ông. "Thời kỳ đó, người châu Á được phong giáo sư khó lắm. Tôi luôn đặt mục tiêu phải cố gắng làm sao cao hơn người bản xứ gấp 2 lần. Tức là, nếu tiêu chuẩn của họ đòi hỏi x thì mình cố gắng đạt 2x", ông nói.
Hiện ông đồng thời là giáo sư ở Đại học Công nghệ Sydney (UTS) và Đại học Notre Dame Australia, nhận được nhiều lời mời giảng và hợp tác nghiên cứu từ các trường, viện của Mỹ, châu Âu, Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Hong Kong, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản. Ông có hơn 250 công trình khoa học công bố trên các tập san danh tiếng thế giới và là một trong những giáo sư y khoa được trích dẫn nhiều nhất thế giới.
Luôn hướng về Việt Nam
Dù mang quốc tịch Australia nhưng chưa bao giờ ông xem mình là người Australia. "Tôi nghiệm ra bản thân đang ở vị trí chông chênh giữa một bên là quê hương và một bên là nơi an cư lạc nghiệp. Australia đã cho tôi tất cả và tôi cũng đóng góp cho đất nước này hết mình, song vẫn khó gọi đất nước này bằng hai chữ quê hương", ông nói.
Vì vậy khi có cơ hội, ông đều muốn đóng góp cho quê hương. Giáo sư Tuấn đã dùng kinh nghiệm cùng với nghiên cứu sinh viết bài về dioxin và công bố trên tập san y khoa quốc tế. Những bài viết đó sau này giúp cho vụ kiện dioxin ở Mỹ và được tổng hợp in thành sách.
Ngoài hàng chục lớp học chuyên ngành giảng dạy cho hàng nghìn bác sĩ trong nước, ông còn dành thì giờ hướng dẫn nghiên cứu sinh Việt Nam. Ông đã giúp đồng nghiệp và nghiên cứu sinh trong nước công bố hơn 35 bài báo khoa học trên các tập san hàng đầu trong thế giới y khoa.
Năm 2015, được Đại học Tôn Đức Thắng mời thành lập phòng thí nghiệm nghiên cứu về xương và cơ, ông cùng đồng nghiệp trong nước đã thực hiện công trình nghiên cứu loãng xương lớn nhất ở Việt Nam - "Vietnam Osteoporosis Study". Ông muốn giải mã toàn bộ hệ gen cho 200 người Việt từ công trình nghiên cứu này. Và một trong những mục tiêu hướng tới là xây dựng mô hình tiên lượng bệnh tật cho người Việt dựa trên gen và các yếu tố môi trường, từ đó có những đóng góp mang tính đột phá mang tên Việt Nam cho y học thế giới.
Hàng ngày ông vẫn theo dõi tin tức từ Việt Nam. Ông tin rằng nếu hàng triệu người Việt Nam có được cơ hội và điều kiện học hành thì sẽ là ngôi sao của thế giới khoa học. "Tôi rời quê hương không phải là sự chối bỏ, mà bắt đầu cho việc trở về tốt đẹp hơn. Tôi tin một ngày không xa, tôi sẽ quay về quê nhà, để làm tròn bổn phận của một người được sinh ra và lớn lên ở Việt Nam", ông nói.
Phạm Hương   |  
Xem thêm:

Nguyễn Văn Tuấn: từ phụ bếp trở thành giáo sư

Từ một chân phụ bếp rồi phụ tá trong bệnh viện để mưu sinh, Nguyễn Văn Tuấn đã tự vươn lên, trở thành Giáo sư, Tiến sĩ, là nhà nghiên cứu khoa học giỏi về xương, dịch tễ học.
Thông qua báo Sinh viên ViệtNam, ông đã chia sẻ với độc giả trong nước những nỗ lực phấn đấu của một nhà khoa học Việt Nam nơi xứ người.
Để vượt lên “nghịch cảnh”
Hỏi:
Sang Úc và làm công việc phụ bếp tại một bệnh viện lớn rồi trở thành một giáo sư có tiếng. Con đường này diễn ra thế nào, thưa ông? 
Trả lời:
Các bạn trẻ kể từ thời sau chiến tranh sang đây học tập quả là có nhiều thuận lợi và suôn sẻ.
Còn với mỗi người Việt Nam thuộc thế hệ của tôi thì đều có một “lịch sử”, hiểu theo nghĩa thăng trầm trong cuộc đời.
Khi mới sang đây định cư, tôi vừa làm đủ thứ nghề để kiếm sống vừa đi học.
Thời gian đầu tôi làm phụ bếp, rồi làm phụ tá trong phòng thí nghiệm sinh học, trong xưởng,…
Trong thời gian đi làm như thế, tôi đi học ban đêm, gọi là học bán thời gian.
Suốt gần 5 năm liền, đêm nào cũng về nhà lúc 10 hay 11 giờ đêm.
Lúc đó cuộc sống cực nhọc lắm.  Nhưng có lẽ vì còn trẻ nên tôi chẳng thấy khổ cực gì cả!
Hỏi:
Sinh viên ngoài công việc chính là học thường dành thời gian rảnh rỗi để làm một công việc part-time, trong khi ông thì ngược lại, học vào thời gian không phải làm.
Bí quyết vượt lên “nghịch cảnh” của ông là gì?
Trả lời:
Tôi chẳng có bí quyết nào cả.
Tất cả chỉ là cố gắng và quyết tâm học hành thôi.
Nếu có “bí quyết” thì tôi nghĩ lúc đó tôi có quyết tâm đạt được mục tiêu mình đề ra, sử dụng quỹ thời gian nghiêm chỉnh, và chọn môi trường học tốt.
Khi làm trong nhà bếp Bệnh viện St Vincent’s (nơi tôi đang làm hiện nay), tôi được biết rất nhiều phụ bếp đều xuất thân là chuyên gia đến từ các nước Liên Xô (cũ), Đông Âu, Trung Quốc, nhưng vì hoàn cảnh nên đã làm trong nhà bếp cả 10, 20 năm trời.
Lúc đó tôi rất “ngán”, và nghĩ đến chuyện phải làm sao thoát khỏi hoàn cảnh này.
Do đó, tôi tự hứa với lòng là bằng mọi giá phải đi học lại.
Cũng may, lúc đó còn trẻ, nên dễ dàng vượt qua hoàn cảnh, chứ nếu như bây giờ tôi chẳng biết mình sẽ làm thế nào.
Vì vừa làm vừa học, nên tôi phải quản lý quỹ thời gian rất nghiêm chỉnh, rất ít đi chơi, dứt khoát không có chuyện… nghỉ hè, và dồn tất cả thời gian trống vào việc học hành.
Thật ra, lúc đó, chương trình học nặng lắm, nên có muốn đi chơi cũng không được!
Cái khó của một người trẻ muốn khẳng định mình nơi xứ người là gì?
Phải phấn đấu học nhiều hơn, làm việc nhiều hơn và tốt hơn so với người bản xứ.
Khi tôi mới vào học, tôi không bao giờ nghĩ đến chuyện mình sẽ trở thành giáo sư, vì trong môi trường ở Úc, chuyện đó nằm ngoài tầm tay của mình.
Thời đó, ở Úc, các bạn tôi qua đây trước cho tôi biết rằng nên cố gắng học hành xong và tìm việc làm, chứ đừng mơ đến vị trí giáo sư hay thậm chí giảng viên cao cấp, vì đã mấy mươi năm qua số giáo sư gốc Á châu trong đại học Úc chỉ đếm đầu ngón tay.
Có một anh bạn thân với tôi khuyên rằng nếu mình (người Á châu) muốn bằng họ (người bản xứ) thì mình phải “cao” hơn họ hai cái đầu, chứ ngang hàng hay cao hơn một cái đầu vẫn chưa đủ!
Tôi nghiệm ra câu này hết sức đúng.
Do đó, có thể nói lúc nào tôi cũng đặt mục tiêu gấp 2 lần những tiêu chuẩn dành cho người bản xứ.
Hỏi:
Việc học của ông có do ảnh hưởng của những người đi trước?
Trả lời:
Có lẽ người ảnh hưởng đến tôi nhiều nhất là anh Hai tôi.
Thời gian “lên thành” học, tôi ở chung với anh ấy và chịu nhiều “cực hình” về học hành.
Lúc đó, tôi nghĩ mình học không đến nỗi tệ, nhưng anh ấy không bao giờ khen tôi, mà lúc nào cũng chê bai, so sánh với những bạn học giỏi hơn.
Lúc đó tôi rất khổ tâm, vì nếu anh ấy “báo cáo” về nhà tôi học dở là rất dễ bị khiển trách và cúp tài trợ!
Nhưng thật ra, anh ấy chỉ đặt ra những cái ngưỡng để tôi vượt qua, chứ chẳng có ý chê trách gì.
Anh Hai tôi dạy rằng học cái gì là phải học từ căn bản, chứ đừng có “học lớt lớt”, và câu đó trở thành phương châm học hành của tôi.
Một anh bạn người Huế, tuy không chỉ dạy gì cho tôi, nhưng thái độ học của anh có ảnh hưởng rất lớn đến tôi.
Lúc đó, chúng tôi tự học tiếng Anh.
Mỗi ngày, anh ôm sách và báo ngồi một góc ở thư viện, và nguyên ngày anh chỉ học một chữ tiếng Anh, nhưng học từ nguồn gốc của chữ, ý nghĩa, cách sử dụng,… Anh ấy “rủ” tôi đi học kiểu đó, khuyến khích tôi làm theo anh ấy, và tôi thấy rất hiệu quả.
Cách học này tuy chậm, nhưng rất vững chắc.
Tiến sĩ… nhiều chuyện
Hỏi:
Công việc hiện nay của ông là gì? 
Trả lời:
Hiện nay, công việc chính của tôi là lãnh đạo một nhóm nghiên cứu về loãng xương tại Viện nghiên cứu y khoa Garvan.
Tôi còn giữ chức giáo sư tại trường y và trường y tế cộng đồng thuộc Đại học New South Wales.
Nhóm nghiên cứu của tôi có hai chương trình nghiên cứu chính là di truyền học và dịch tễ học lâm sàng liên quan đến xương.
Vài việc chính của tôi là suy nghĩ về những định hướng nghiên cứu cho nhóm, tìm tài trợ cho chương trình nghiên cứu, và hướng dẫn nghiên cứu sinh tiến sĩ.
Ngoài ra, tôi còn phải làm vài việc ngoài phạm vi quốc gia, như tham gia các hội đồng chuyên ngành quốc tế; tham gia biên tập các tập san y khoa liên quan đến ngành xương; bình duyệt bài báo khoa học, đề cương nghiên cứu, luận án tiến sĩ,…
Hỏi:
Vậy thời gian nào ông dành cho báo chí và quê nhà?
24 giờ/1 ngày của ông được phân bổ thế nào? 
Trả lời:
Ngày của tôi hơi dài so với nhiều người khác.
Tôi thức sớm, khoảng 6 giờ 30 mỗi sáng, chuẩn bị đi làm.
Mỗi ngày tôi có một danh sách việc phải làm.
Tôi đi làm bằng xe điện nên có thì giờ soạn ra những việc phải làm trong ngày và đọc sách, đọc tài liệu, đọc bài báo khoa học… trên xe điện.
Nhiều khi tôi duyệt bài báo khoa học trên xe điện!
Do đó, khi đến cơ quan, tôi cứ căn cứ vào danh sách việc cần làm trong ngày mà làm.
Tối về, tôi lại làm việc tiếp, nhưng phần lớn là việc liên quan với Việt Nam, như trả lời thắc mắc các bạn trong nước về nhiều vấn đề, viết bài cho báo chí, cập nhật trang web cá nhân,…
Ngày làm việc của tôi thường kết thúc vào khoảng 23h30.
Tôi hay nói đùa rằng ban ngày thì làm việc cho Úc và cho thế giới, ban đêm làm việc cho Việt Nam.
Nói tóm lại, bây giờ nhìn lại, tôi thấy thời gian tôi dành cho làm việc hơi nhiều, có lẽ tôi phải thay đổi nay mai.
Hỏi:
Nếu ông trở về tuổi hai mươi, việc đầu tiên ông làm là…?
Trả lời:
Tôi theo đuổi ngành Y học vì muốn tìm hiểu chuyên sâu về lĩnh vực loãng xương và nội tiết mà tôi đã ham thích từ lúc tôi tham gia vào các dự án nghiên cứu lâm sàng trong Viện nghiên cứu y khoa Garvan.
Tôi nghĩ theo đuổi nghiên cứu như chúng tôi đang làm có thể giúp nhiều người mà cũng hợp với ý nguyện cá nhân, nên không có gì phải nhìn lại cuộc đời mình với chữ “nếu”.
Tuy nhiên, nếu được trở về tuổi đôi mươi, tôi khẳng định mình vẫn đi học.
Nhưng sẽ học thêm làm phóng viên báo chí.
Tôi thích làm phóng viên để được đi đây, đi đó, lắng nghe và suy nghiệm những câu chuyện của thế giới.
Hỏi:
Có người nói Nguyễn Văn Tuấn hơi… nhiều chuyện vì ông tham gia ở đủ các lĩnh vực như y khoa, báo chí và cả văn học.
Ông nghĩ sao về ý kiến này? 
Trả lời:
Tôi nghĩ mình quan tâm đến nhiều chuyện, hơn là “nhiều chuyện”.
Tôi đam mê về văn học từ lúc còn nhỏ, nên nếu có viết lách gì về lĩnh vực này thì cũng là chuyện bình thường, như là một thú tiêu khiển.
Hơn nữa, một người làm khoa học cần phải có cái nhìn tổng thể, chứ không chỉ giới hạn vào chuyện chuyên môn hằng ngày, mà văn học và văn chương là lĩnh vực rất có ích cho khoa học.
Albert Einstein từng nói rằng:
“Nếu bạn có logic, thì bạn có thể đi từ A đến B nhưng nếu bạn có tưởng tượng, bạn có thể bay bổng bất cứ nơi nào”.
Tôi nghĩ văn học và văn nghệ nói chung làm cho cuộc sống thêm phong phú, gieo sự tưởng tượng trong đầu, và làm cho mình bay bổng, và đó là một điều rất có ích cho khoa học.
Tôi là đồ đệ của cụ Nguyễn Khắc Viện, là “fan” của cụ Nguyễn Hiến Lê, những người bàn về nhiều vấn đề chẳng dính dáng gì đến chuyên môn của họ.
Hỏi:
Giá trị sống mà ông theo đuổi, tôn thờ nhất là gì?
Trả lời:
Theo tôi, giá trị sống là những gì mình hành động để gặt hái được và giữ được trong sự giới hạn về thời gian của một đời người.
Hiểu như thế, tôi thấy giá trị sống của mình gần với triết lý nhà Phật, dựa vào triết lý “từ bi” của Phật.
“Từ bi” ở đây phải hiểu theo nghĩa “từ” là giúp đỡ người khác, làm cho người khác hạnh phúc, an lành hơn; và “bi” là diệt khổ.
Đó chính là tiêu chí làm việc hằng ngày của tôi.
Mỗi ngày, phải để ý đến cái mà giới khoa học gọi là “tỉ số thiền” (Zen ratio).
Tử số của tỉ số thiền là những việc làm đem lại niềm vui và phúc lợi cho cộng đồng, và mẫu số là những việc làm hay hành động gây ảnh hưởng tiêu cực đến người khác, là những điều mình làm nhưng chưa đạt.
Bởi vì mỗi hành động mình làm dù có ý định tốt, nhưng có tiềm năng gây tổn hại đến người khác, cho nên mẫu số của tỉ số thiền không thể nào là 0 được.
Do đó, trong mỗi việc làm và mỗi thời khắc, tôi tâm niệm làm sao duy trì tỉ số thiền này phải là 10 hay trên 10 thì càng tốt.
Tôi làm nhiều việc như chia sẻ thông tin với mọi người cũng vì cái giá trị sống mà tôi mô tả trên.
Vài thông tin thêm về Giáo sư Tiến Sĩ Nguyễn Văn Tuấn:
– Giảng viên cao cấp tại ĐH New South Wales, Úc.
– Trưởng nhóm nghiên cứu, Viện nghiên cứu Y khoa Garvan, Úc.
– Nghiên cứu viên cao cấp Hội đồng quốc gia về nghiên cứu y khoa và y tế Úc (NHMRC).
– 1987-1997: Thạc sĩ Đại học Macquarie (Úc); Tiến sĩ thống kê, chuyên về dịch tễ học ĐH Sydney (Úc); Tiến sĩ y khoa ĐH New South Wales (Úc), Nghiên cứu sinh sau tiến sĩ (postdoc) tại ĐH Basle, Trung tâm nghiên cứu lâm sàng Sandoz  (Thụy Sĩ) và Bệnh viện St Thomas (Anh).
– 1998: Được bổ nhiệm Phó Giáo sư y khoa ĐH Wright States (Mỹ).
– 2009: Được bổ nhiệm Giáo sư Đại học New South Wales (Úc)
 Nguồn: Sinh viên Việt Nam

https://vietnamesecommunity.wordpress.com/2011/07/09/nguy%e1%bb%85n-van-tu%e1%ba%a5n-t%e1%bb%ab-ph%e1%bb%a5-b%e1%ba%bfp-tr%e1%bb%9f-thanh-giao-s%c6%b0/ 

Geen opmerkingen:

Een reactie posten