zondag 26 april 2015

Sài Gòn trưa 30/4/1975 trong hồi ức phóng viên chiến trường AP Peter Arnett

Thứ năm, 23/4/2015 | 09:49 GMT+7
Chia sẻ bài viết lên facebook Chia sẻ bài viết lên twitter Chia sẻ bài viết lên google+ |
Thứ năm, 23/4/2015 | 09:49 GMT+7

Sài Gòn trưa 30/4/1975 trong hồi ức phóng viên chiến trường

"Sài Gòn thất thủ! George, gọi New York đi", Peter Arnett, tim đập thình thịch, thét lên với trưởng văn phòng hãng thông tấn AP tại Sài Gòn, lúc 11h43 ngày 30/4/1975.
Đồng nghiệp của Arnett, anh Matt Franjola, vừa đi thám thính một vòng quanh thành phố, trở về và kể rằng anh suýt va phải chiếc xe jeep. "Trên xe có một thanh niên trẻ tuổi mặc bộ đồ đen, mang súng trường của Nga. Mặt anh ta rất hân hoan", Franjola cho biết.
"Đồ đen ư? súng Nga ư?" vừa nghĩ Arnett vừa lao xuống đường Tự Do. Ông nghe thấy tiếng gầm rú của các chiến xa hạng nặng hướng về phía nhà thờ cổ của Pháp. Trên mỗi chiếc xe đều có các binh sĩ miền Bắc mặc quân phục. Chiếc mũ xanh trên đầu họ ngả ra phía sau mỗi khi họ chăm chú nhìn những tòa nhà cao ngất bên đường. "Có thể đó là lần đầu tiên họ trông thấy các tòa nhà như thế", Arnett nghĩ.
Một vài người dân Việt Nam đứng gần Arnett, chăm chú dõi theo đoàn xe, không thốt nên lời. Arnett trông thấy một lá cờ lớn của quân Giải phóng được kéo lên từ một căn phòng ở khách sạn Caravelle gần đó. Ông cũng để ý một nhóm lính Cộng hòa chạy xuống một phố nhỏ, vứt bỏ quân phục, quăng cả vũ khí vào ô cửa các cửa hiệu.
"Tôi chạy vội về văn phòng, tim như nhảy ra ngoài theo mỗi bước leo lên cầu thang. Trên hành lang, hơn mười người Việt níu chặt lấy quần áo tôi, xin giúp đỡ. Tôi lao vào văn phòng và hét lên: "'George! Sài Gòn thất thủ, gọi trụ sở New York đi'. Khi ấy đồng hồ chỉ 11h43 ngày 30/4/1975", Arnett kể qua email gần đây gửi VnExpress, khi ông chuẩn bị tới TP HCM dự các hoạt động kỷ niệm 40 năm thống nhất Việt Nam.
Peter Arnett từng có 13 năm tuổi trẻ lăn lộn đưa tin ở chiến trường Việt Nam. Ông giành được giải thưởng danh giá Pulitzer nhờ hơn 3.000 bài báo phản ánh cuộc chiến suốt những năm đầu thập niên 60. Ông đi khắp các chiến trường miền nam Việt Nam trong vòng 13 năm. Sau 30/4/1975, Arnett còn lưu lại Sài Gòn để tiếp tục đưa tin những ngày đầu sau giải phóng.
Sài Gòn 30/4/1975
Sau khi hét lên với George, Arnett vội vàng viết một bản tin về những gì mình chứng kiến, chuyển cho người phụ trách điện tín người Việt tên là Tammy. Anh này đọc nhưng cứ nhấp nhổm, nhìn ra cửa, Arnett ấn anh xuống ghế và yêu cầu gửi bản tin đi, Tammy thực hiện xong thì lao vọt khỏi văn phòng và Arnett không bao giờ gặp lại anh nữa.
Trước đó không lâu, George Esper, trưởng văn phòng AP tại Sài Gòn, nghe đài phát thanh cùng người phiên dịch, người này la lên "Đầu hàng, đó là đầu hàng". Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Dương Văn Minh khi đó tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, miền Nam Việt Nam chính thức được chuyển giao cho quân Giải phóng miền Bắc. Esper chạy nhanh vào phòng điện tín và gửi cho trụ sở New York. "Tin về đầu hàng của AP nhanh hơn UPI 5 phút. Trong chiến trận hay thời bình, các dịch vụ chuyển tín hiệu đóng một vai trò cạnh tranh đặc biệt", Arnett kể.
Esper trông hốc hác, ánh mắt lộ rõ vẻ xanh xao. Ông đã không rời khỏi văn phòng trong nhiều ngày. Chỉ ít phút sau khi ra ngoài, Esper trở về với vẻ bối rối. Anh kể khi đang đi qua khu vực gần Quảng trường Lam Sơn, một sĩ quan cảnh sát Việt Nam Cộng hòa trông như mất trí mặc nguyên quân phục, nói với Esper: "Thế là hết". Viên sĩ quan đó bước đi được khoảng 3 m thì  giơ tay chào một bức tượng tưởng niệm rồi giơ khẩu súng lục lên bắn thẳng vào đầu mình. Trong giây lát Esper tưởng rằng mình là mục tiêu của phát đạn đó. Ông chạy về văn phòng viết bài mà đôi tay run lên cầm cập.          
Sau khi gửi tin về Mỹ, Arnett cùng Franjola lại đi thăm dò các phố. Xe tăng do Nga sản xuất tiến vào nhiều hơn. Người dân miền Nam tràn ra các vỉa hè, nỗi lo sợ của họ về đổ máu đã biến mất. Arnet gặp Neil Davis, một phóng viên quay phim người Australia, đang đi ra từ Dinh Tổng thống. Anh ta nói Tổng thống Minh đã bị dẫn giải đi.
pe2-1510-1429708755.jpg
Peter Arnett (thứ ba từ trái sang), viên sĩ quan miền Bắc (giữa), tại văn phòng AP ở Sài Gòn đầu giờ chiều ngày 30/4/1975. Ảnh: Nhân vật cung cấp
"Tôi trở về văn phòng. Không lâu sau, các phóng viên ảnh cộng tác với chúng tôi bước vào cùng một sĩ quan miền Bắc cùng trợ lý. Người sĩ quan này tỏ ra nhã nhặn và cảm ơn khi chúng tôi mời đồ ăn vặt", Arnett kể. Viên sĩ quan và các phóng viên đã trao đổi trong hai giờ.
Bất chấp nỗ lực của Arnet gửi thêm tin bài về Mỹ, hệ thống truyền tin không hoạt động nữa, chính quyền mới đã làm nó ngưng, Arnett nói với Esper "Thế đấy, George. Cuộc chiến đã chấm dứt".
13 năm lăn lộn trên chiến trường
Arnett được hãng tin AP cử đến miền Nam Việt Nam hồi tháng 6 năm 1962, khi đó ông mới 27 tuổi. Trước đó bốn năm, ông từng đến thăm Sài Gòn với tư cách khách du lịch.
"Khi còn ở Indonesia, nhờ gặp gỡ nhiều phóng viên phương Tây đưa tin về chiến tranh chống Pháp ở Đông Dương và chiến sự ở miền Nam Việt Nam nên tôi hiểu khá rõ về lịch sử hiện đại của Việt Nam và vị trí của họ trong suy tính của Mỹ", Arnett nói.
pe1-1467-1429708755.jpg
Arnett chụp ảnh trong một cuộc giao tranh giữa đơn vị bộ binh Mỹ với "Việt Cộng" gần Củ Chi năm 1966. Ảnh do ông cung cấp.
Trong thời gian từ tháng 6/1962 đến tháng 5/1975, Arnett viết khoảng 3.000 bài báo, có mặt ở hầu hết các trận chiến ác liệt giữa quân đội Mỹ và Việt Nam Cộng hòa với lực lượng của Mặt trận Giải phóng miền nam Việt Nam. Trong số các trận chiến Arnett đưa tin có trận Ấp Bắc vào tháng 1 năm 1962, Phong trào Phật giáo ở Sài Gòn và Huế năm 1963, cuộc đảo chính lật đổ Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm tháng 11 năm 1963. Trong bốn năm tiếp theo ông đưa tin quân đội Mỹ giao tranh với lực lượng miền Bắc Việt Nam, Chiến dịch Mậu Thân năm 1968, chiến trường Campuchia năm 1970, Chiến dịch Xuân hè 1972.
"Những bài viết của chúng tôi từ miền Nam Việt Nam rất quan trọng, bởi sự can dự của Mỹ ngay từ đầu đã gây nên tranh luận và vấp phải sự phản đối ở chính nước Mỹ. Công việc của chúng tôi là viết sự thật về cuộc chiến như chính những gì chúng tôi chứng kiến. Vì thế các tác phẩm của chúng tôi thường bị phê bình là quá chỉ trích chính phủ Mỹ", Arnet cho hay.
Vào lúc cao điểm của cuộc chiến, chẳng hạn như Chiến dịch Mậu Thân năm 1968, AP có đến 20 phóng viên viết và phóng viên ảnh làm việc tại Sài Gòn. 
Trong suốt 13 năm ấy, Arnett từng trải qua rất nhiều thời khắc nguy hiểm đến tính mạng, ông thường xuyên có mặt ở chiến trường nơi lính Mỹ đánh giáp lá cà với lực lượng miền Bắc, những lần ra trận kéo dài từ một đến hai tuần.
"Mỗi lần như vậy, tôi rất sợ hãi. Bạn hỏi tôi có nguy cơ bị chết không. Có, nhưng tôi tin rằng việc viết những câu chuyện chiến tranh như vậy rất đáng giá dù phải chịu hiểm nguy, bởi vì độc giả ở Mỹ muốn biết sự thật về điều đang xảy ra ở Việt Nam", Arnett nói.
Tuy nhiên, Arnett cũng không tránh khỏi việc phải chứng kiến bạn bè, đồng nghiệp thiệt mạng. Hồi tháng 1 năm 1966, người bạn của ông tên là George Eyster, một sĩ quan Mỹ, bị trúng đạn ngay bên cạnh ông khi họ đang xem bản đồ tại khu vực gần địa đạo Củ Chi. Bốn phóng viên ảnh của AP, một trong số đó có Huỳnh Thanh Mỹ, anh trai của phóng viên chiến trường Nick Út, thiệt mạng.
Sự kiện 30/4/1975 làm thay đổi cục diện thế giới 
dung-6270-1429752155.jpg
Ông Peter Arnett, phải, năm 1985 được gặp Đại tướng Văn Tiến Dũng, người chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh. Ảnh: NVCC
"Tôi chứng kiến thế giới thay đổi đáng kể sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc năm 1975. Chiến tranh Lạnh giữa chủ nghĩa Cộng sản trên toàn cầu và phương Tây chấm dứt năm 1991", Arnett nhận định.
Cuộc chiến ở Việt Nam hoàn toàn khác với các những cuộc chiến mà Mỹ can dự, như ở Afghanistan và Iraq. Thứ nhất, theo Arnett, đây là cuộc chiến cuối cùng của thời kỳ "Chiến tranh Lạnh", mà Mỹ nỗ lực chống lại cái họ cho rằng lan truyền ảnh hưởng của chủ nghĩa Cộng sản với chủ nghĩa Tư bản. Cuộc chiến đầu tiên của mô hình này là chiến tranh Triều Tiên, chia cắt hai miền Nam và Bắc của bán đảo này.
Mặc dù gọi chiến tranh Việt Nam là "có giới hạn", Tổng thống Mỹ Lyndon Johnson đã phải điều đến hơn 500.000 lính tới tham chiến. Trong nhiều năm miền Nam Việt Nam được coi là có tầm quan trọng lớn với lợi ích quốc gia của Mỹ.
Sự khác biệt thứ hai là cả chiến tranh ở Iraq và Afghanistan đều được Mỹ thực hiện với các mục tiêu rất giới hạn. Chiến tranh Afghanistan năm 2001 cơ bản để đáp trả những kẻ tấn công khủng bố ngày 11/9/2001 khiến 3.000 người chết. Mục tiêu chính là trùm khủng bố Osama bin Laden. Chiến tranh Iraq đầu tiên năm 1991 cũng có mục tiêu hạn chế là đẩy quân của Saddam Hussein ra khỏi Kuwait, nhằm ngăn chặn việc lấy dầu. Cuộc chiến Iraq thứ hai năm 2003 cũng cơ bản là do lo ngại về khủng bố. "Cả hai cuộc chiến này đều có thương vong thấp, và dân chúng Mỹ ít quan ngại hơn so với sự phản đối kịch liệt của họ với Chiến tranh Việt Nam", Arnett cho hay.
Hiện nay, theo Arnett, các nước đang phải đối diện với những thách thức của thời đại mới, khủng bố ở Trung Đông trở thành mối quan ngại chung, Mỹ phải tính toán lợi ích của mình ở nhiều khu vực, an ninh châu Á bị đe dọa khi Trung Quốc thể hiện tham vọng của mình ở Đông Nam Á và Đông Bắc Á. Các nhà ngoại giao và quân sự Mỹ cũng thể hiện sự quan tâm ngày càng tăng ở khu vực này.
pe3-5836-1429708755.jpg
Arnet gặp gỡ Tướng Giáp tại Hà Nội năm 1995 khi là phóng viên của CNN. Ảnh: NVCC
Trở lại
Lần đầu tiên Arnett trở lại TPHCM năm 1985, với tư cách phóng viên của CNN. Trước đó ông đến thăm Hà Nội năm 1979, cũng với tư cách phóng viên tháp tùng chuyến thăm của tổng thư ký Liên Hợp Quốc Kurt Waldheim. Arnett có cơ hội gặp đại tướng Võ Nguyên Giáp năm 1995 khi ông cùng đồng nghiệp ở CNN đến Việt Nam lần thứ ba.
Theo Arnett, lúc đó Việt Nam cho phép nhiều phóng viên nước ngoài đến thăm hơn, các câu chuyện của họ cũng góp phần thuyết phục chính phủ Mỹ cải thiện quan hệ với Việt Nam. Và hai bên đã thực sự bình thường hóa quan hệ.
"Điều thú vị với tôi là mối quan hệ của Mỹ với Việt Nam đã thay đổi mạnh mẽ sau chiến tranh. Thất bại năm 1975 dẫn tới thắng cử của Tổng thống Mỹ Jimmy Carter, người ngay sau khi nhậm chức, năm 1978, đã gửi một phái đoàn cấp cao đến Hà Nội để thảo luận về cải thiện quan hệ hai nước", Arnet nói.
Là một trong 5 phóng viên có mặt trong đoàn đó, Arnett chứng kiến hai bên chưa đạt được thỏa thuận khi Mỹ không sẵn sàng trả khoản tiền 2 tỷ USD bồi thường chiến tranh như Tổng thống Richard Nixon cam kết trước khi ông từ chức năm 1974.
Mặc dù vậy, chuyến thăm do ông Carter sắp xếp cũng giúp thiết lập một khuôn khổ cho phép Việt Nam và Mỹ hợp tác trong việc tìm kiếm các lính Mỹ mất tích trong chiến tranh.
"Trong chuyến đi đó, tôi chứng kiến tận mắt hậu quả phá hoại của bom ở Hà Nội và các khu vực lân cận, dù công việc tái thiết đang được thực hiện", Arnett nói.
Suy nghĩ thời hậu chiến
Sau chiến tranh, Arnett vẫn giữ liên lạc với những người từng chứng kiến một giai đoạn lịch sử của Việt Nam. Các nhà ngoại giao từng làm việc với chính  phủ Việt Nam Cộng hòa nay vẫn làm việc cho chính phủ Mỹ, thậm chí thăng tiến lên cấp bậc cao hơn, như hàm đại sứ. John Negroponte, người từng là cố vấn cho thành phố Cần Thơ, sau đó giúp đàm phán để chấm dứt chiến tranh ở Bosnia những năm 1990. David Brown, làm việc ở Đại sứ quán Mỹ tại Sài Gòn đầu những năm 1970, hiện thường xuyên đến Việt Nam và viết về lịch sử hiện đại.
"Tất cả những người này, nói chung đều có suy nghĩ thực tế về những sai lầm của Mỹ trong chiến tranh và một cách tự nhiên thừa nhận rằng con đường dẫn tới chiến tranh là lầm lẫn. Họ tin rằng Mỹ không nên dính dáng vào cuộc chiến ở Việt Nam. Hoặc khi đã can dự, Mỹ nên có một giải pháp chính trị thỏa đáng", theo Arnett.
Arnett cũng thường xuyên gặp gỡ các cựu sĩ quan Mỹ. Họ ở tầm tuổi ông, từng ở cùng chiến trận với nhau. "Họ đều đến thăm Việt Nam thời bình và gặp gỡ các cựu chiến binh Việt Nam, những người từng ở phía bên kia chiến tuyến", ông cho biết.
Theo Arnett, hầu hết 58.000 lính Mỹ đã thiệt mạng ở Việt Nam khi tuổi đời mới 18, 19. Nhiều cựu chiến binh còn sống sót trở về hiện nay đều cảm thấy cay đắng vì sự hy sinh của mình, họ vẫn thấy bất an vì chính phủ, quân đội, nhà ngoại giao và truyền thông Mỹ đã can dự vào cuộc chiến ở Việt Nam và để nó kéo dài quá lâu.
Trong 5 năm qua, Arnett sống ở Fountain Valley, thuộc Quận Cam, California, gần Westminster, nơi có đông người Việt sinh sống ở Mỹ. Nhiều người trong số này sau khi rời Việt Nam năm 1975 có cuộc sống thành công, họ là luật sư, bác sĩ và doanh nhân. "Họ đang sống cuộc sống mà chúng ta hay gọi là Giấc mơ Mỹ".
Tuy nhiên, có một số cựu quan chức của chính quyền cũ ở miền Nam Việt Nam và doanh nhân vẫn còn bất mãn. "Họ bất mãn vì Mỹ đã không gửi thêm quân đến hỗ trợ năm 1975. Họ cảm thấy mình là nạn nhân của sự thờ ơ của người Mỹ, khiến họ mất cơ hội sống cuộc sống ở miền Nam Việt Nam. Một số người đã trở lại thăm quê hương, nhưng họ vẫn buồn. Có thể họ sẽ giữ thái độ đó cho tới lúc lìa đời", Arnett nói.
"Khi vai trò của những người Việt của thế hệ trước nhòa dần đi, có thể các Việt kiều ở Mỹ sẽ có xu hướng chấp nhận một Việt Nam ngày nay hơn, bởi vì họ sẽ hấp thụ xu hướng chủ đạo trong cách nhìn nhận của người Mỹ".
pe4-3804-1429708755.jpg
Arnett cùng vợ người Việt và con gái. Ảnh: NVCC
Duyên nợ với Việt Nam
Trong từng ấy năm lăn lộn trên chiến trường ở Việt Nam, Arnett đã từ một thanh niên 27 tuổi trở thành một người đàn ông trưởng thành. Dấu mốc đáng kể nhất trong cuộc đời ông là việc ông kết hôn với người vợ Việt Nam Nina Nguyen năm 1964. Họ gặp nhau khi bà vừa học từ Mỹ về. Ông bà có hai con là Andrew và Elsa.
"Sự hiện diện của họ có nghĩa rằng Việt Nam luôn luôn là một phần của cuộc đời tôi", Arnett nói.
Những tác phẩm trong chiến tranh ở Việt Nam cũng giúp Arnett gặt hái được thành công rực rỡ trong sự nghiệp làm báo. Ông được trao giải thưởng danh giá Pulitzer năm 1966 cùng nhiều giải thưởng khác. 
Trở lại với ký ức về ngày 30/4/1975, Arnett vẫn còn như nguyên cảm giác sững sờ khi đó. "Trong 13 năm đưa tin về chiến tranh Việt Nam, tôi chưa từng mường tượng rằng nó sẽ kết thúc như buổi trưa ngày 30/4 năm ấy. Tôi đã nghĩ các kịch bản, nó phải chấm dứt với một thỏa thuận chính trị như ở Lào, hay thậm chí theo kiểu ngày tận thế với một thành phố bị phá nát hoang tàn", Arnett viết.
"Nhưng trên thực tế, đã có sự đầu hàng vô điều kiện, tiếp nối bằng hai giờ gặp với các quân nhân vũ trang của miền bắc trong văn  phòng AP ở Sài Gòn, nói chuyện và uống Coca với bánh quy. Với tôi, cuộc chiến đã kết thúc như thế đấy".
Peter Arnett vừa hoàn thành cuốn sách mới mang tên "Sài Gòn thất thủ" (Sai Gon has falled), nói về cuộc đời làm phóng viên của ông ở Việt Nam. Một vài ngày tới Arnett sẽ xuất bản cuốn sách trên cả bản in và bản ebook.
Ông là một trong ba phóng viên AP còn lại ở Sài Gòn vào ngày quân đội miền Bắc tiến vào thành phố ngày 30/4/1975.
Những năm cuối thập niên 1970, Arnett là phóng viên chiến trường ở Trung Đông, đưa tin về chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất từ Baghdad, Iraq cho CNN.  Ông từng phỏng vấn Saddam Hussein trong cuộc chiến đó, vào năm 1991; phỏng vấn truyền hình trùm khủng bố Osama bin Laden ở Afghanistan năm 1997. Ông ngừng sự nghiệp phóng viên chiến trường năm 2006, sau một thời gian đưa tin về cuộc chiến Iraq.
Việt Anh 

http://vnexpress.net/tin-tuc/the-gioi/tu-lieu/sai-gon-trua-30-4-1975-trong-hoi-uc-phong-vien-chien-truong-3204036.html

Thứ ba, 21/4/2015 | 09:14 GMT+7
Chia sẻ bài viết lên facebook Chia sẻ bài viết lên twitter Chia sẻ bài viết lên google+ |
Thứ ba, 21/4/2015 | 09:14 GMT+7

48 giờ cuối cùng của chiến tranh Việt Nam

Sài Gòn những giờ phút cuối của cuộc chiến tranh bao trùm một không khí "vừa thanh thản vừa sợ hãi" khi hàng nghìn người tìm cách rời thành phố, nhưng ở những góc khác, cuộc sống thường nhật vẫn tiếp diễn.
Ngày 28/4/1975, Sài Gòn được đặt dưới lệnh giới nghiêm khi quân giải phóng ngày càng tiến gần thành phố. Phóng viên của tạp chí Time ghi nhận, bao trùm lên tất cả là một cảm giác "vừa thanh thản vừa sợ hãi". Washington ráo riết thực hiện chiến dịch di tản bằng máy bay trực thăng. Trong ảnh, một số người Sài Gòn đang xếp hàng lên chiếc máy bay trực thăng của CIA đậu trên nóc nhà số 22 Gia Long để tới Mỹ, ngay trước khi cuộc chiến tranh Việt Nam kết thúc.
 
Trực thăng đưa lính thủy đánh bộ Mỹ tới sân bay Tân Sơn Nhất nhằm bảo vệ và phong tỏa các khu vực quan trọng để tiến hành di tản những người Mỹ cuối cùng khỏi Sài Gòn.
 
Những viên chức làm việc cho các cơ quan của Mỹ cùng người thân xếp hàng chờ đợi trước cổng Đại sứ quán Mỹ.
 
Máy bay trực thăng di tản của lực lượng lính thủy đánh bộ Mỹ.
 
Những công dân Mỹ cuối cùng, trong đó có cả các phóng viên báo chí, chuẩn bị di tản khỏi Sài Gòn vào buổi trưa.
 
Một phụ nữ cùng ba người con chờ lên trực thăng của lính thủy đánh bộ Mỹ.
 
Người dân vào đại sứ quán ngay sau khi lực lượng an ninh Mỹ rời đi. Mặc dù lệnh giới nghiêm 24/24 được ban bố nhưng hàng nghìn người vẫn tràn xuống đường. Nhiều đường phố bị tắc nghẽn bởi những đoàn xe đạp, xích lô và xe tải rời Sài Gòn. Tuy nhiên, ở những góc khác, cuộc sống vẫn tiếp diễn như thường nhật.
 
Một vài phụ nữ xách theo những thùng đồ đạc lấy được sau khi lính Mỹ rút lui.
 
Lính thủy đánh bộ Mỹ nằm rạp trên boong chiến hạm USS Blue Ridge để tránh những mảnh vỡ kim loại văng ra từ một máy bay trực thăng khi nó hạ cánh và va chạm với một chiếc trực thăng khác. Chiếc trực thăng chở đầy phụ nữ và trẻ em này suýt rơi xuống biển nhưng cuối cùng được cứu thoát và không có ai bị thương.
 
Lính hải quân Mỹ trên chiến hạm USS Blue Ridge đẩy một chiếc trực thăng xuống biển để dọn chỗ đón những chuyến bay chở người di tản khác từ Sài Gòn tới.
 
Phi công Mỹ bế một em bé đến nơi trú ẩn an toàn trên chiến hạm USS Blue Ridge sau khi chiếc trực thăng chở em cùng nhiều người khác va chạm trong lúc hạ cánh trên boong tàu.
 
Bờ sông Sài Gòn những ngày cuối tháng 4/1975 chật kín người chờ di tản trên những con tàu.
 
Xe tăng của quân giải phóng tiến vào Sài Gòn, hướng tới Dinh Độc lập.
 
Xe tăng Quân đội Nhân dân Việt Nam húc đổ cánh cổng Dinh Độc lập, tiến thẳng vào dinh trưa ngày 30/4/1975, báo hiệu sự kết thúc của chính quyền Sài Gòn, chấm dứt cuộc chiến tranh kéo dài hai thập kỷ.
 
Tướng Dương Văn Minh (người ngồi bên phải) chuẩn bị đọc lời tuyên bố đầu hàng vô điều kiện tại Đài phát thanh Sài Gòn.
 

Vũ Hoàng (Theo Time)

http://vnexpress.net/photo/tu-lieu/48-gio-cuoi-cung-cua-chien-tranh-viet-nam-3203730.html

Thứ bảy, 18/4/2015 | 07:58 GMT+7
Chia sẻ bài viết lên facebook Chia sẻ bài viết lên twitter Chia sẻ bài viết lên google+ |
Thứ bảy, 18/4/2015 | 07:58 GMT+7

Những bức ảnh biểu tượng cho chiến tranh Việt Nam

Những bức ảnh lột tả cuộc chiến khốc liệt tại Việt Nam được thế giới ghi nhớ và trao những giải thưởng danh giá.
Bức ảnh của phóng viên người Đức Horst Faas đoạt giải Pulitzer năm 1965. Ảnh chụp ngày 19/3/1964, ghi lại cảnh một người ôm xác con khi toán lính Việt Nam Cộng hòa nhìn xuống từ xe thiết giáp. Em bé chết khi quân đội Sài Gòn truy đuổi du kích Giải phóng đến một ngôi làng gần biên giới Campuchia. Ảnh: AP
 
Bức ảnh chụp người lính Mỹ Larry Wayne Chaffin đội mũ có dòng chữ "Chiến tranh là địa ngục" ngày 18/6/1965 là một bức ảnh nổi tiếng khác của Horst Faas. Ảnh: AP
 
Phóng viên Nhật Kyoichi Sawada năm 1965 ghi lại cảnh một bà mẹ Việt Nam cùng 4 đứa con lội qua một dòng sông ở Bình Định để chạy trốn bom Mỹ. Bức ảnh này năm đó đoạt giải Pulitzer và được World Press Photo (WPP), tổ chức có trụ sở tại Hà Lan, chọn là Ảnh Báo chí Thế giới của năm. Ảnh: UPI
 
Ngày 24/2/1966, xe thiết giáp của quân đội Mỹ kéo lê thi thể của một chiến sĩ quân Giải phóng để đem đến chỗ chôn. Chiến sĩ hy sinh trong cuộc tấn công ác liệt của nhiều tiểu đoàn Giải phóng quân nhằm vào lực lượng Mỹ và Australia tại trận Long Tân, phía nam Vũng Tàu, ngày 18/8/1966. Bức ảnh này cũng do Sawada chụp và được WPP vinh danh là Ảnh Báo chí Thế giới của năm. Ảnh: UPI
 
Bức ảnh chụp chỉ huy xe tăng M48 Patton của Mỹ nhìn qua ống kính do phóng viên Hà Lan Co Rentmeester thực hiện, đạt giải Ảnh Báo chí Thế giới năm 1967. Ảnh: Co Rentmeester
 
"Mơ về một thời tốt đẹp hơn" là tên bức ảnh của phóng viên Nhật Toshio Sakai, trong đó một lính Mỹ nằm nghỉ ngơi trong mưa lớn khi đồng đội của anh ta vẫn thức để canh gác ngày 17/6/1967. Bức ảnh này nhận giải Pulitzer năm 1968. Ảnh: UPI
 
Hòa thượng Thích Quảng Đức ngày 11/6/1963 tự biến mình thành một ngọn đuốc sống tại một ngã tư đông đúc ở Sài Gòn, nhằm phản đối sự đàn áp Phật giáo của chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Bức ảnh của phóng viên Mỹ Malcolm Browne đoạt giải Ảnh Báo chí Thế giới năm 1963. Ảnh: AP
 
Phóng viên Mỹ Eddie Adams ghi lại cảnh tượng Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan, Giám đốc Nha An ninh Quân đội Việt Nam Cộng hòa, cầm súng bắn vào đầu chiến sĩ quân Giải phóng Nguyễn Văn Lém ngày 1/2/1968. Bức ảnh được giải Ảnh Báo chí Thế giới năm 1968 và giải Pulitzer năm 1969. Ảnh: AP
 
Bức ảnh cô bé 9 tuổi Phan Thị Kim Phúc bị cháy hết quần áo, chạy trốn bom napalm trên con đường ở Trảng Bàng, Tây Ninh ngày 8/6/1972 trở thành một trong những hình tượng ám ảnh nhất của Chiến tranh Việt Nam. Tác giả Nick Út được trao giải Pulitzer và bức ảnh được chọn làm Ảnh Báo chí Thế giới năm 1972. Tạp chí New Statesman của Anh năm 2010 bình chọn đây là ảnh thời sự ấn tượng nhất mọi thời đại. Ảnh: AP
 
Một lính dù Mỹ ra hiệu cho trực thăng cứu thương đón đồng đội bị thương tại khu rừng ở tây nam Huế tháng 4/1968 trong ảnh của Art Greenspoon. Phóng viên chiến trường nổi tiếng của TIME-LIFE David Douglas Duncan gọi đây là "bức ảnh về Chiến tranh Việt Nam tuyệt vời nhất". Ảnh: AP
 
Phóng viên Mỹ David Hume Kennerly năm 1972 giảnh giải Pulitzer khi ghi lại hình ảnh một lính Mỹ tại một ngọn đồi, thể hiện sự cô độc và tiêu điều của chiến tranh năm 1971. Ảnh: UPI
 
Mary Ann Vecchio gào khóc khi cô quỳ bên thi thể Jeffrey Miller trong cuộc biểu tình phản đối chiến tranh Việt Nam tại Đại học Kent State, Mỹ tháng 5/1970, sau khi Vệ binh Quốc gia Ohio nổ sung vào đám đông, giết 4 sinh viên và làm thương 9 người. Nhiếp ảnh gia John Filo đoạt giải Pulitzer với bức ảnh này năm 1970. Ảnh: Valley Daily News/Daily Dispatch
 
Phóng viên Hà Lan Hubert Van Es chụp bức ảnh này vào ngày 29/4/1975, khi một số người Sài Gòn lên máy bay của CIA để đến Mỹ, ngay trước khi chấm dứt Chiến tranh Việt Nam. Ảnh: Corbis
 
Bức ảnh "Niềm vui vỡ òa" được Slava "Sal" Veder chụp ngày 17/3/1973 tại căn cứ không quân Travis, California đoạt giải Pultizer năm 1974 đã trở thành biểu tượng cho sự kết thúc quá trình can thiệp của Mỹ tại Việt Nam. Trong ảnh, tù binh chiến tranh Robert L. Stirm đoàn tụ với gia đình sau khi trở về từ Việt Nam. Ảnh: AP
 
Xe tăng Quân đội Nhân dân Việt Nam tiến vào Dinh Độc Lập ngày 30/4/1975. Ảnh: AP
 
Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện tại Đài phát thanh Sài Gòn ngày 30/4/1975. Ảnh do phóng viên Phạm Kỳ ghi lại. Ảnh: AP
 

Phương Vũ

http://vnexpress.net/photo/tu-lieu/nhung-buc-anh-bieu-tuong-cho-chien-tranh-viet-nam-3201377.html

Geen opmerkingen:

Een reactie posten