Tiến trình đàm phán bí mật Thành Đô 1990 (Kỳ 7)
Huỳnh Tâm (Danlambao) - Việt Nam có Vịnh Bắc Bộ là một vịnh nửa kín, được bao quanh bởi đất liền giữa Việt Nam và đảo Hải Nam của Trung Quốc. Vịnh Bắc Bộ là tuyến đường biển phía Tây Nam của Biển Đông, có diện tích khoảng 126.250 km2 (36.000 hải lý vuông), chiều ngang nơi rộng nhất khoảng 310 km (176 hải lý), nơi hẹp nhất ở cửa Vịnh rộng khoảng 207,4 km (112 hải lý).
Bờ Vịnh Bắc Bộ thuộc 10 tỉnh, thành phố của Việt Nam với tổng chiều dài 763 km, Vịnh có hai cửa: eo biển Quỳnh Châu nằm giữa bán đảo Lôi Châu và đảo Hải Nam với bề rộng 35,2 km (19 hải lý) và cửa chính của vịnh từ đảo Cồn Cỏ (Việt Nam) tới đảo Hải Nam (Trung Quốc) rộng 207,4 km (112 hải lý).
Phần vịnh của Việt Nam có khoảng 2.300 đảo, đá ven bờ, đặc biệt có đảo Bạch Long Vĩ nằm cách đất liền Việt Nam khoảng 110 km, cách đảo Hải Nam Trung Quốc khoảng 130 km. Phía Trung Quốc có một số ít đảo nhỏ ở phía Đông Bắc vịnh như đảo Vị Châu, Tà Dương.
Trước đó vào ngày 07 tháng 7 năm 1955. Hồ Chí Minh đã ký bán cho bành trướng 35% Vịnh Bắc Bộ, gọi là "Hiệp ước nhượng lãnh hải và Vịnh Bắc Bộ Vạn Niên" giá trị 10.000 năm, để xóa mất đường ranh giới biển của Hiệp ước Pháp-Thanh (Thiên Tân 1885). Bành trướng không thể ngồi yên trước một miến mồi Vịnh Bắc Bộ quá hấp dẫn, gây sóng giótình tình thêm phức tạp là điều không trách khỏi.
Theo lời của Nguyễn Duy Niên tuyên bố:
"Hiệp ước phân định Vịnh Bắc Bộ" đã ký tại Việt Nam lần này, Việt Nam được hưởng 53,23% tổng diện tích của vịnh Bắc Bộ, Trung Quốc được hưởng 46,77%. Theo kết quả công bằng trong các cơ sở pháp lý và hoàn cảnh cụ thể của Vịnh Bắc Bộ. Hiệp ước phân định Vịnh Bắc Bộ đã ký tại Việt Nam cho phép mối quan hệ Việt Nam-Trung Quốc là một sự kiện quan trọng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý Vịnh Bắc Bộ và duy trì sự ổn định mở rộng vùng Vịnh Bắc Bộ, để tăng sự tin tưởng lẫn nhau và thúc đẩy hợp tác toàn diện giữa hai nước để đóng góp thịnh vượng cho.....
Nói chung, đảng của Nguyễn Duy Niên tráo trở không thua "Bác", Vịnh Bắc Bộ mà "Bác" bán trước đó là 35%, thế hệ sau của "Bác" bán thêm 12,77%, nâng lên tổng số 46,77% về tài nguyên của bành trướng trong Vịnh Bắc Bộ.
"Hiệp ước phân định Vịnh Bắc Bộ" đã ký tại Việt Nam lần này, Việt Nam chỉ được hưởng 53,23% tổng diện tích của vịnh Bắc Bộ; Vịnh Bắc Bộ mà "Bác" bán trước đó là 35%, thế hệ sau của "Bác" bán thêm 12,77%, nâng lên tổng số 46,77% về tài nguyên của bành trướng trong Vịnh Bắc Bộ. Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.
Vịnh Bắc Bộ là nơi lưu trữ tài nguyên thiên nhiên, có một trữ lượng dầu khí, khí đốt tiềm năng phong phú, sinh vật, khoáng sản vô lượng "bạc biển", một kho tàng tài nguyên chưa khai thác dưới lòng Vịnh, nó còn nguyên sinh của địa cầu. Tiếp theo Việt Nam còn có hai trữ lượng thiên nhiên ưu đãi lớn nhất Đông Dương, một Vịnh Bắc Bộ có nhiều ngư trường hải sản và vựa lúa 6 tỉnh miền Nam Việt Nam.
Vịnh Bắc Bộ có vị trí chiến lược quan trọng, cũng là cửa ngõ giao lưu từ lâu đời của Việt Nam ra thế giới, có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự nghiệp phát triển kinh tế, thương mại quốc tế, ngoại giao, lẫn quốc phòng an ninh của Việt Nam.
Trước những năm 1970, Vịnh Bắc Bộ bởi thuộc chủ quyền của Việt Nam theo Hiệp ước Pháp-Thanh (Thiên Tân 1885). Ngư dân Việt Nam đánh bắt cá trong Vịnh Bắc Bộ gọi là ngư trường Đông, ngư dân Trung Quốc đánh bắt cá bên ngoài đảo Hải Nam gọi là ngư trường phía Tây biển Đông. Dân cư trong Vịnh có câu ví von: Ngư dân Việt Nam-Trung Quốc sinh cư đôi miền "nước sông-biển không xâm phạm lẫn nhau". Hai cộng đồng ngư dân Việt-Hoa chưa bao giờ hợp tác đánh bắt cá với nhau trong Vịnh Bắc Bộ. Tuy Hồ Chí Minh có bán vùng đảo Bạch Long Vĩ và một phần Vịnh giá trị 10.000 năm, nay "Bác" đã có tội cướp nước không dung thứ, hết đời "Bác" đảng tiến hành bán cửa biển cửa sông của Vịnh Bắc Bộ. [1]
Đến những năm 1970, quan hệ Trung-Việt Nam xấu đi, Trung Cộng có nhiều lợi thế thượng phong đã từng viện trợ toàn bộ chiến tranh cho Việt Cộng, và chiến thắng nhờ xâm lược Việt Nam 1969 tại biên giới, chiếm Hoàng Sa Biển Đông 1974, ngày 17 tháng 2 năm 1979 chiếm biên giới 6 tỉnh phía Bắc, chiếm tranh Lão Sơn 1984, chiếm đảo Gạc Ma Trường Sa Biển Đông 1988 và Hội nghị bí mật Thành Đô 1990, Việt Cộng khởi động bước đầu rước Trung Cộng vào Vịnh Bắc Bộ chiếm vùng đảo Bạch Long Vĩ. Loạn tình thế đưa ngư dân vào tranh chấp khai thác vùng Vịnh, cộng đồng ngư dân Trung Quốc trang thiết bị tàu đánh bắt cá chuyên nghiệp, một thách đố mới đem đến bất lợi cho ngư dân Việt Nam. Trung Cộng cũng đã có máu bành trướng, bắt đầu chơi trội luật pháp rừng Cộng sản, sử dụng biện pháp kiểm soát ngư dân Việt Nam, bắn phá ghe thuyền, tịch thu tàu đánh cá, thảm sát ngư dân trong thềm lục địa Việt Nam, một lịch sử biển cả hãi hùng nhất nhân loại tại Vịnh Bắc Bộ chưa ai biết đến, bao nhiêu tội ác đó người Việt Cộng đừng vội cho mình có tính chính đáng khai tử dân tộc Việt Nam và Hồ Chí Minh là nguồn gốc sự khởi sinh những tội ác đó.
Sau những năm 1990, quan hệ Trung-Việt được cải thiện, nhưng hai bên mượn ngư dân làm phương tiện tranh chấp, Trung Cộng thừa cơ hội đảng "Bác" tự nhu nhược tấn công tới tấp, từ đó tiến hành cướp Biển Đông và kết quả thằng anh em Việt Cộng chiến thắng vẻ vang, đất nước Việt Nam ngã gục trong vòng tay Việt Cộng, một linh hồn sống của Trung Cộng từ khi có đảng có "Bác".
Năm 1974, Trung Quốc và Việt Nam bắt đầu tổ chức các cuộc đàm phán về phân định Vịnh Bắc Bộ, đặc biệt chiến lược của Cộng sản "bình thường hóa quan hệ song phương". Năm 1999 hai nước ký hiệp ước đầu tiên về biên giới đất liền để tiến đến "bình thường hóa song phương", nói chung mỗi lần ký hiệp ước Việt Nam phải dâng hiến đất cho Hán. Sau đó gia tốc đàm phán Vịnh Bắc Bộ, Hoàng Sa, Trường Sa thuộc Biển Đông. Việt Cộng đã hứa thi công cắm mốc phân định lãnh thổ, lãnh hải và Biển Đông trước năm 2020.
Buổi lễ ký phê chuẩn Hiệp ước phân định Vịnh Bắc Bộ. Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị (L) và đối tác Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam Vũ Dũng (R). 3 tài liệu được phê duyệt cùng ngày gồm "Hiệp ước phân định lãnh hải", "vùng đặc quyền kinh tế" và "thềm lục địa trong Vịnh Bắc Bộ". Ký ngày 30 tháng 6 năm 2004 tại Hà Nội Việt Nam. Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.
Chùng tôi xin gửi đến công luận, tìm hiểu nguyên nhân Việt Cộng tạo ra những điêu linh cho dân tộc Việt Nam mang thân phận nhục hèn, dưới góc độ vô căn "bình trị thiên" của Việt Cộng. Và hôm nay một trong nhiều hồ sơ bằng sự thật đã chứng minh Việt Nam nhượng lãnh thổ, lãnh hải và Biển Đông cho Trung Cộng. Hy vọng công luận Việt Nam bình tĩnh trước khi tự giải mã:
Trung Quốc-Việt Nam, Hiệp định phân chia lãnh hải, bao gồm cả lãnh thổ, vùng Vịnh Bắc Bộ và Biển Đông
Việt Cộng lưu bản Việt ngữ:
Ngày 25 tháng 12 năm 2000, hai nước đã ký hiệp ước "Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam hiệp ước trong lãnh hải Vịnh Bắc Bộ, vùng đặc quyền kinh tế" và "hiệp ước phân định ranh giới thềm lục địa". Ngoài lời mở đầu của hiệp ước, có đính kèm bản đồ xác minh 11 điểm đảo, lần đầu tiên xác nhận sự phân chia phía Bắc của Vịnh Bắc Bộ có cả hai cơ sở pháp lý và ranh giới, rõ ràng nhất về phạm vi của Hiệp định này, thứ 2-5 với 21 xác định điểm quan trọng phân định ranh giới lãnh hải ở phía Bắc Vịnh, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa; hiệp ước cũng xác định dầu khí qua biên giới, khí đốt và phát triển tài nguyên khoáng sản khác, cũng như các nguyên tắc của hiệp ước về các vấn đề bảo tồn và sử dụng tài nguyên sinh học. Bây giờ, hai cơ quan lập pháp đã thông qua hiệp ước này đánh dấu biên giới biển ở Vịnh Bắc Bộ theo mô tả.
Ngày 25 tháng 6 năm 2004, Cuộc họp của Quốc hội Nhân dân Trung Quốc lần thứ X, đã bỏ phiếu thông qua quyết định phê chuẩn hiệp định "Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam về hợp tác trong lãnh hải Vịnh Bắc Bộ, vùng đặc quyền kinh tế" và "hiệp ước phân định ranh giới thềm lục địa". Trước đó, Việt Nam đại hội XI của trong cuộc họp thứ 5, vào ngày 15 tháng 6 đã thông qua nghị quyết phê chuẩn thỏa thuận các hiệp ước. Hiện nay, Trung Quốc và Việt Nam đang hoàn tất thủ tục tố tụng, có hiệu lực pháp luật của "Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ".
Trung Cộng kiểm soát chặt chẽ phân định lãnh hải và thủy sản.
Tranh chấp đánh bắt cá là một tranh chấp quan trọng giữa Trung Quốc và Việt Nam, nay mở rộng Vịnh Bắc Bộ, vì vậy ngoài việc xác định ranh giới, việc sắp xếp thủy sản là một phần quan trọng đàm phán biên giới của khu vực phía Bắc Vịnh. Hai bên sẽ có được phân định và giải quyết vấn đề thủy sản gắn liền với lợi ích của cả hai bên để tìm kiếm một điểm thỏa hiệp, được ký kết cùng một thời điểm "trong Hiệp định hợp tác nghề cá Vịnh Bắc Bộ" và "Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ". Sau khi có hiệu lực "Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ" và "Hiệp định hợp tác nghề cá", điều kiện các lực lượng hai bên thi hành.
Việc ký kết những hiệp ước, cho sự lợi ích ổn định lâu dài của biên giới giữa Trung Quốc và Việt Nam trong khu vực Vịnh Bắc Bộ, cùng nhau thúc đẩy phát triển lành mạnh của quan hệ song phương phù hợp với lợi ích căn bản của Trung Quốc. Tuy nhiên, phía Việt Nam phải rút số lượng lớn tàu cá ra khỏi ngư trường truyền thống, cũng là tác động phát triển 3 tỉnh thủy sản Quảng Đông, Quảng Tây và Hải Nam của Trung Quốc. Trên 6000 tàu thuyền đánh bắt cá hoạt động ở phía Tây vùng Vịnh, và bây giờ họ được quyền trở lại phần phía Đông của vùng biển Vịnh Bắc Bộ, riêng tỉnh Hải Nam có 59% tàu thuyền đánh bắt cá trong vùng biển Vịnh Bắc Bộ, theo "Hiệp định hợp tác nghề cá", Hải Nam lên kế hoạch từ năm 2003, mỗi năm phát triển 570 thuyền đánh bắt cá. 2002-2006 có 1,2 triệu ngư dân và phát triển 2471 thuyền đánh cá. Để đáp ứng với sự thay đổi này, nhà nước Trung Cộng đã xây dựng kế hoạch ngư dân, một phần kinh phí dành xây dựng cơ sở ngư nghiệp.
Trung Cộng cho ra đời một kế hoạch ranh giới ngoài khơi Vịnh Bắc Bộ, Việt Cộng chấp nhận dâng hiến Vịnh Bốc Bộ. Từ đó Việt Nam có Biển cũng như không, ngày nay nhân dân không có cá để ăn, muốn ăn phải mua cá của ngư dân Hán. Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.
Trung Cộng làm chủ quần đảo Trường Sa.
Vấn đề phân định ranh giới giữa Trung Quốc và Việt Nam, bao gồm cả đất liền, vịnh Bắc Bộ và Biển Đông thành ba phần. Đàm phán biên giới đất liền Việt Nam kéo dài 22 năm, vào ngày 30 tháng 12 năm 1999 đã ký "Hiệp ước biên giới đất liền Việt-Trung". Đến cuối năm 2003, quá trình phân giới cắm mốc hơn một nửa đã được dựng lên, hai bên phấn đấu để xác định nửa còn lại của năm nay, các những cột mốc lớn thay cho đài tưởng niệm.
Cho đến nay, lãnh hải đang tranh chấp tại vùng biển Biển Đông. Vào năm 1995 phía Việt Nam đã thành lập một tiểu tổ chuyên gia trên biển. Cuộc đàm phán về tranh chấp vấn đề quần đảo Trường Sa. Ban tư vấn hàng hải hiện nay vẫn tiếp tục hoạt động. Tuân thủ các nguyên tắc của cơ chế, các vấn đề phía trước đã qui định, phấn đấu thông qua đàm phán hòa bình và tìm ra giải pháp lâu dài.
Bản phối kế hoạch ranh giới lãnh thổ và ranh giới trên đường Biển Đông 1/9 điểm.
Điểm 1 quan trọng vĩ độ 21 độ 28 phút 12,5 giây, kinh độ 108 độ 06 phút 04.3 giây;
Điểm 2 quan trọng vĩ độ 21 độ 28 phút 01,7 giây, kinh độ 108 độ 06 phút 01,6 giây;
Điểm 3 quan trọng vĩ độ 21 độ 27 phút 50,1 giây, kinh độ 108 độ 05 phút 57,7 giây;
Điểm 4 quan trọng vĩ độ 21 độ 27 phút 39,5 giây, kinh độ 108 độ 05 phút 51,5 giây;
Điểm 5 quan trọng vĩ độ 21 độ 27 phút 28,2 giây, kinh độ 108 độ 05 phút 39,9 giây;
Điểm 6 quan trọng vĩ độ 21 độ 27 phút 23,1 giây, kinh độ 108 độ 05 phút 38,8 giây;
Điểm 7 quan trọng vĩ độ 21 độ 27 phút 08,2 giây, kinh độ 108 độ 05 phút 43,7 giây;
Điểm 8 quan trọng vĩ độ 21 độ 16 phút 32 giây kinh độ đông 108 độ 08 phút 05 giây;
Điểm 9 quan trọng vĩ độ 21 độ 12 phút 35 giây kinh độ đông 108 độ 12 phút 31 giây;
Vùng đặc quyền kinh tế của Trung Cộng:
Điểm 10 ranh giới vĩ độ 20 độ 24 phút 05 giây kinh độ đông 108 độ 22 phút 45 giây;
Điểm 11 ranh giới vĩ độ 19 độ 39 phút 33 giây kinh độ đông 107 độ 55 phút 47 giây;
Điểm 12 ranh giới vĩ độ 19 độ 39 phút 33 giây kinh độ đông 107 độ 31 phút 40 giây;
Điểm 13 ranh giới vĩ độ 19 độ 25 phút 26 giây kinh độ đông 107 độ 21 phút 00 giây;
Điểm 14 ranh giới vĩ độ 19 độ 25 phút 26 giây kinh độ đông 107 độ 12 phút 43 giây;
Điểm 15 ranh giới vĩ độ 19 độ 16 phút 04 giây kinh độ đông 107 độ 11 phút 23 giây;
Điểm 16 ranh giới vĩ độ 19 độ 12 phút 55 giây kinh độ đông 107 độ 09 phút 34 giây;
Điểm 17 ranh giới vĩ độ 18 độ 42 phút 52 giây kinh độ đông 107 độ 09 phút 34 giây;
Điểm 18 ranh giới vĩ độ 18 độ 13 phút 49 giây kinh độ đông 107 độ 34 phút 00 giây;
Điểm 19 ranh giới vĩ độ 18 độ 07 phút 08 giây kinh độ đông 107 độ 37 phút 34 giây;
Điểm 20 ranh giới vĩ độ 18 độ 04 phút 13 giây kinh độ đông 107 độ 39 phút 09 giây;
Điểm 21 ranh giới vĩ độ 17 độ 47 phút 00 giây kinh độ đông 107 độ 58 phút 00 giây;
Phía Trung Cộng, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhân dân toàn quốc quyết định phê duyệt "Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam về hiệp ước trong lãnh hải Vịnh Bắc Bộ, vùng đặc quyền kinh tế và hiệp ước phân định thềm lục địa".
Hiệp ước thông qua 25 tháng 6 năm 2004.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhân dân toàn quốc lần thứ X đã quyết định họp lần thứ X: chấp thuận của Bộ trưởng Ngoại giao Đường Gia Triền thay mặt nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vào ngày 25 tháng 12 năm 2000, ký tại Bắc Kinh với nước "Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, hợp tác với Trung Quốc", phân chia lãnh hải trong Vịnh Bắc Bộ, cùng 2 Hiệp ước "Đặc quyền kinh tế vùng Vịnh Bắc Bộ" và "Hiệp ước phân định thềm lục địa".
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc hợp tác trong lãnh hải Vịnh Bắc Bộ, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa thỏa thuận theo phân định.
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (sau đây gọi là "các Bên ký kết"), nhằm củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị truyền thống và láng giềng tốt mối quan hệ giữa hai nước và dân tộc, để duy trì và thúc đẩy sự ổn định, phát triển ở phía Bắc Vịnh, tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, nguyên tắc không xâm lược (nonaggression) lẫn nhau, không can thiệp công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi, sống chung hòa bình dựa trên các nguyên tắc của tinh thần hiểu biết lẫn nhau và tham vấn thân thiện, giải pháp công bằng cho vấn đề phân chia tinh thần Vịnh Bắc Bộ, đồng ý như sau:
Điều khoản I
Đầu I - Vào năm 1982, theo các Chính phủ đã ký kết "Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển" [2], công nhận những nguyên tắc của luật pháp quốc tế và thực tiễn quốc tế, trong việc xem xét đầy đủ của tất cả các trường hợp có liên quan của vịnh Bắc Bộ, dựa trên nguyên tắc công bằng, thông qua hiệp thương hữu nghị để xác định hai nước chủ quyền vùng lãnh hải phía Bắc Vịnh, các đường phân chia giữa các vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
Đầu II - Trong Hiệp định này, "Vịnh Bắc Bộ" có nghĩa là phía Bắc của Trung Quốc và Việt Nam, hai lãnh thổ đất ven biển, bán đảo Lôi Châu đảo Hải Nam phía Đông Trung Quốc và phía Tây bờ biển đất liền Việt Nam bao quanh bởi vịnh nửa kín, ranh giới phía Nam của nó có kể từ khi tọa độ địa lý của các vĩ độ 18 độ 30 phút 19 giây, kinh độ đông 108 độ 41 phút 17 giây, của đảo Oanh Ca Hải Nam Trung Quốc, trên miệng của rìa ngoài cùng của những điểm nổi bật ở Việt Nam bằng cách bờ biển Việt Nam mờ nhạt với tọa độ địa lý vĩ độ 16 độ 57 phút 40 giây, kinh độ 107 độ kết nối 08 phút thẳng giữa điểm 42 giây. Các bên đã ký kết xác định phạm vi của khu vực này tạo thành hiệp ước phân định lãnh hải.
Điều khoản II
Các Bên ký kết đồng ý rằng hai vùng lãnh hải trong Vịnh Bắc Bộ, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa ranh giới bao gồm 21 điểm ranh giới sau tuần tự kết nối trong một đường thẳng để xác định tọa độ địa lý của nó như sau:
Điểm 1 quan trọng vĩ độ 21 độ 28 phút 12,5 giây, kinh độ 108 độ 06 phút 04.3 giây;
Điểm 2 quan trọng vĩ độ 21 độ 28 phút 01,7 giây, kinh độ 108 độ 06 phút 01,6 giây;
Điểm 3 quan trọng vĩ độ 21 độ 27 phút 50,1 giây, kinh độ 108 độ 05 phút 57,7 giây;
Điểm 4 quan trọng vĩ độ 21 độ 27 phút 39,5 giây, kinh độ 108 độ 05 phút 51,5 giây;
Điểm 5 quan trọng vĩ độ 21 độ 27 phút 28,2 giây, kinh độ 108 độ 05 phút 39,9 giây;
Điểm 6 quan trọng vĩ độ 21 độ 27 phút 23,1 giây, kinh độ 108 độ 05 phút 38,8 giây;
Điểm 7 quan trọng vĩ độ 21 độ 27 phút 08,2 giây, kinh độ 108 độ 05 phút 43,7 giây;
Điểm 8 quan trọng vĩ độ 21 độ 16 phút 32 giây kinh độ đông 108 độ 08 phút 05 giây;
Điểm 9 quan trọng vĩ độ 21 độ 12 phút 35 giây kinh độ đông 108 độ 12 phút 31 giây;
Điểm 10 quan trọng vĩ độ 20 độ 24 phút 05 giây kinh độ đông 108 độ 22 phút 45 giây;
Điểm 11 biển giới vĩ độ 19 độ 57 phút 33 giây kinh độ đông 107 độ 55 phút 47 giây;
Điểm 12 biển giới vĩ độ 19 độ 39 phút 33 giây kinh độ đông 107 độ 31 phút 40 giây;
Điểm 13 biển giới vĩ độ 19 độ 25 phút 26 giây kinh độ đông 107 độ 21 phút 00 giây;
Điểm 14 biển giới vĩ độ 19 độ 25 phút 26 giây kinh độ đông 107 độ 12 phút 43 giây;
Điểm 15 biển giới vĩ độ 19 độ 16 phút 04 giây kinh độ đông 107 độ 11 phút 23 giây;
Điểm 16 biển giới vĩ độ 19 độ 12 phút 55 giây kinh độ đông 107 độ 09 phút 34 giây;
Điểm 17 biển giới vĩ độ 18 độ 42 phút 52 giây kinh độ đông 107 độ 09 phút 34 giây;
Điểm 18 biển giới vĩ độ 18 độ 13 phút 49 giây kinh độ đông 107 độ 34 phút 00 giây;
Điểm 19 biển giới vĩ độ 18 độ 07 phút 08 giây kinh độ đông 107 độ 37 phút 34 giây;
Điểm 20 biển giới vĩ độ 18 độ 04 phút 13 giây kinh độ đông 107 độ 39 phút 09 giây;
Điểm 21 biển giới vĩ độ 17 độ 47 phút 00 giây kinh độ đông 107 độ 58 phút 00 giây.
Điều khoản III
Điều I - Các qui định của Hiệp định, điểm ranh giới đầu tiên đến 9 điểm đường biên giới phân chia giữa hai nước trong ranh giới lãnh hải trong Vịnh Bắc Bộ.
Điều II - Theo đoạn đầu tiên của đường ranh giới lãnh hải phân chia hai nước theo hướng thẳng đứng trên vùng lãnh hải, đáy biển và lòng đất dưới đáy.
Điều III - Trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác, bất kỳ thay đổi địa hình không thay đổi điểm quan trọng đầu tiên đến 7 điểm ranh giới quy định trong đoạn đầu tiên của văn bản này, theo ranh giới lãnh hải giữa hai nước.
Điều khoản IV
Hiệp định, thứ hai theo yêu cầu của phần 9 vòng tròn trỏ đến các điểm quan trọng của các điểm 21 là đường phân chia giữa hai nước ở phía Bắc Vịnh vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
Điều khoản V
Điều II - Theo yêu cầu của các điểm ranh giới đầu tiên đến 7 điểm của hai đường tròn ranh giới lãnh hải với các đường màu đen vẽ trên 2 bên ký kết hợp đồng hợp tác quy mô hệ thống đo cho 10.000 của cảng sông Bắc Luân, bản đồ chuyên đề các điểm ranh giới đầu tiên 7-21 điểm giữa hai nước tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa ranh giới với một đường màu đen, âm mưu của các Bên ký kết khiến cùng đo quy mô 1/500000 Vịnh Bắc Bộ trên toàn bản đồ. Trên đường thẳng của đất liền.
Sông Bắc Luân trên bản đồ chuyên đề và phía Bắc Vịnh vẽ hình đầy đủ của Hiệp định này. Itrf-96 sử dụng bản đồ tọa độ.
Điều II - Hiệp định cung cấp cho các tọa độ địa lý của tất cả các tầng lớp xã hội là tất cả các vị trí trên số tiền lấy từ bản đồ. Hiệp định này chia đường vẽ trên bản vẽ của Hiệp định này, chỉ nhằm mục đích minh họa.
Điều khoản VI
Các Bên ký kết sẽ tôn trọng lẫn nhau được xác định theo quy định của Hiệp định này, hai vùng lãnh hải tương ứng trong vùng Vịnh Bắc Bộ, vùng đặc quyền kinh tế, chủ quyền thềm lục địa và chủ quyền tài phán.
Điều khoản VII
Nếu bất kỳ dầu khí và khí đốt, khoáng sản khác điều Hiệp định biên độ mở rộng kiến tạo, các bên sẽ xây dựng hoặc thông qua tham vấn thân thiện đối với tiền gửi của việc chia sẻ hiệu quả nhất và công bằng của các thỏa thuận phát triển để phát triển doanh thu [3].
Điều khoản VIII
Các Bên đồng ý tham vấn về việc sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên sinh học ở vùng Vịnh Bắc Bộ và phát triển bền vững và các vấn đề liên quan về hợp tác song phương trong vùng đặc quyền kinh tế của miền Bắc Vịnh bảo tồn tài nguyên sinh học, quản lý và sử dụng.
Điều khoản IX
Theo thỏa thuận giữa hai nước trên các vùng lãnh hải phía Bắc vịnh, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa phân định ranh giới giữa các bên về các quy tắc của pháp luật quốc tế về vị trí các luật biển không có bất kỳ ảnh hưởng hoặc làm phương hại.
Điều khoản X
Đối với các bên có tranh chấp liên quan đến việc giải thích hoặc áp dụng Hiệp định này, khi phát sinh phải được giải quyết thông qua hiệp thương hữu nghị và đàm phán.
Điều khoản XI
Hiệp định này phải được sự chấp thuận của các Bên ký kết, và ngày hiệu lực lúc trao đổi văn kiện đã phê chuẩn của đại diện Chính phủ. Phê chuẩn tại Hà Nội và hai bên đồng hoán đổi cho nhau.
Hiệp định này làm thành 2 bản
Ngày 25 tháng 12 năm 2004 tại Bắc Kinh.
Mỗi bản có cả hai ngôn ngữ Trung Quốc và Việt Nam, hai văn bản giá trị như nhau.
Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc (中华人民共和国)
Ngoại trưởng Trung Quốc
(Ký tên)
Đường Gia Triền (唐家璇)
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (越南社会主义共和国)
Ngoại trưởng Việt Nam
(Ký tên)
Nguyễn Duy Niên (阮怡年)
Tài liệu này liên quan một Ủy ban Thường vụ Quốc hội Nhân dân Toàn quốc phê duyệt "Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam về hiệp ước lãnh hải Vịnh Bắc Bộ", "vùng đặc quyền kinh tế" và "hiệp ước phân định ranh giới thềm lục địa".
Vùng thủy sản phổ biến trong hải đồ ngoài khơi Vịnh Bắc Bộ. Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.
Trung Cộng-Việt Cộng lưu 2 bản Việt-Hoa ngữ
中国与越南, 协议的领土划分,
包括境内, 北部湾和中国南海.
(拯救中国共产党中国:
__________________________________
Bài đã đăng:
Chú thích:
[1] Nhân dân Việt Nam muốn biết Hiệp ước hãy tìm đọc tài liệu 10 Hiệp ước bán cửa biển cửa sông của Vịnh Bắc Bộ của Trương Tấn Sang và Tập Cận Bình.
[2] Trung Cộng không chứng minh được chữ ký của "Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển", xác nhận điều này, tất cả chỉ là một dối trá giữa hai đảng Trung Cộng và Việt Cộng.
[3] Một vấn đề đen tối mới, nhân dân Việt Nam chưa bao nghe doanh thu này, và ai là nhân vật có trách nhiệm với tài khoản của dầu khí và khí đốt tại Biển Đông.
http://danlambaovn.blogspot.fr/2014/11/tien-trinh-am-phan-bi-mat-thanh-o-1990_25.html
Tiến trình đàm phán bí mật Thành Đô 1990 (Kỳ 8)
Huỳnh Tâm (Danlambao) - Hầu Hạc Tường (Hou Hexiang) gửi cho chúng tôi bài viết của phóng viên Bổn Khan Tấn (Ben Kanxun) nội dung cuộc phóng vấn Ngoại trưởng Việt Nam Nguyễn Duy Niên sau khi đã ký kết những thỏa thuận. Ông đồng ý trả lời, phỏng vấn liên quan đến "Thỏa thuận phân định Vịnh Bắc Bộ", "Việt Nam-Trung Quốc tăng cường tin cậy lẫn nhau" và "thúc đẩy quan hệ song phương, hợp tác đóng góp toàn diện".[1]
Những dối trá của đảng "Bác" chưa hề tiết lộ.
Phóng viên MSS Bổn Khan Tấn thân mật nhập đề:
− Trong tháng, ngày 15 tháng 6 năm 2004. Ban Tuyên Giáo của đảng ta có loan tải trên "Nhật báo Nhân Dân" một cuộc phỏng vấn khá quan trọng và nhạy cảm về Vịnh Bắc Bộ, trong Đại hội đảng XI, phê chuẩn 4 thỏa thuận "Thỏa thuận lãnh hải Vịnh Bắc Bộ", "Thỏa thuận vùng đặc quyền kinh tế" và "Thỏa thuận phân định thềm lục địa", và "Thỏa thuận hợp tác nghề đánh cá", tất cả 4 thỏa thuận này gọi tắt là "Thỏa thuận phân định Vịnh Bắc Bộ", tuy nhiên vào ngày 30 tháng 6 năm 2004) chính thức phê chuẩn văn kiện "Thỏa thuận phân định Vịnh Bắc Bộ", và đã chính thức công bố hiệu lực. [2]
Hôm nay, tôi muốn cuộc phỏng vấn này có nội dung sâu sắc, ngài cho nhân dân hiểu nhiều hơn về tình hình Việt Nam và công thức thương lượng nào đưa đến thành công cả 4 thỏa thuận chung một sự kiện và ký cùng một ngày, nhân dịp hôm nay Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Duy Niên nhận lời phát biểu, chúng tôi mượn thông điệp này gửi đến đồng nghiệp của ngài một tin vui. Thưa ngài Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Niên, xin trả lời về nguyên tắc thỏa thuận và mô tả quá trình thương lượng, chủ yếu những phần quan trọng có ý nghĩa như phương thức thỏa thuận.
Nguyễn Duy Niên gật gù phát biểu:
− Đảng cách mạng của chúng ta sinh ra đã có "tình đồng chí và tình anh em" đối với lân bang cũng thế, do đó dễ dàng thông qua 4 thỏa thuận trong một công thức tổng quát của "Thỏa thuận phân định Vịnh Bắc Bộ", Vịnh Bắc Bộ có quá trình thương lượng đối với ngành Ngoại giao của chúng tôi kinh qua rất bình thường, cũng cho thấy thể hiện cái năng động của nó, thực chất trước sau Vịnh Bắc Bộ cũng trong tay Trung Quốc, Việt Nam hay Trung Quốc tuy hai vẫn là một, ngoài mặt là cửa trong ruột là nhà.
Bổn Khan Tấn: Xin Bộ trưởng hãy cho biết về vị trí những đặc điểm tầm quan trọng của Vịnh Bắc Bộ.
Nguyễn Duy Niên: Vịnh Bắc Bộ có vị trí chiến lược quan trọng về quốc phòng an ninh, kinh tế của Việt Nam. Vịnh Bắc Bộ là một nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú của "địa phương", đặc biệt là hải sản, dầu mỏ và khí đốt. Có nhiều cảng thủy sản lớn ở Vịnh Bắc Bộ, cung cấp hải sản quan trọng đối với đời sống của nhân dân "Ta" (Trung Cộng).
Chính phủ Ta đã dự đoán dưới lòng biển Vịnh Bắc Bộ có triển vọng về tài nguyên dầu mỏ và khí đốt. Vịnh Bắc Bộ Việt Nam từ lâu đã là hàng đầu cửa ngõ giao lưu của thế giới để phát triển sự nghiệp nền kinh tế của Trung Quốc, thương mại quốc tế và an ninh Trung Quốc. Nó có một ý nghĩa đặc biệt đối với khu vực phía Nam và một vị trí quan trọng của Trung Quốc. Vì vậy, hai nước chú trọng đến việc quản lý, sử dụng và phát triển Vịnh Bắc Bộ.
Bổn Khan Tấn: Tại sao Trung Quốc và Việt Nam tiến hành các cuộc "thương lượng" và ký kết "Thỏa thuận phân định Vịnh Bắc Bộ"?
Nguyễn Duy Niên: Trong một thời gian dài, Trung Quốc chưa bao giờ được chia hải phận trong Vịnh Bắc Bộ. Điều này là do một số các thực tế khách quan như sau: Từ trước những năm 1950, luật biển quốc tế vẫn chưa được phát triển, các nước ven biển của thời kỳ đó có chủ quyền lãnh thổ chỉ 3 dặm rộng của biển (12 km), tất cả nằm ngoài lãnh hải được coi là hải phận quốc tế, không thuộc về bất cứ nước nào. Trong bối cảnh này, Hiệp ước (Pháp-Thanh 1887), trước đó nhà Thanh chỉ tập trung giải quyết việc phân định ranh giới trên đất liền giữa hai nước và hai quốc gia nằm ở phía Bắc Vịnh biển đảo chủ quyền từ sông Bắc Luân.
Ngày nay, mới đưa ra phân định mở rộng Vịnh Bắc Bộ, đặc biệt, các hải phận của Việt Nam và Trung Quốc tại Vịnh Bắc Bộ, là cơ sở vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, nhưng vào giữa những năm 1950 thế kỷ trước, sau khi luật quốc tế phát triển về biển có một số tiến bộ. Theo luật pháp quốc tế hiện đại của biển, các quốc gia ven biển được hưởng đến 12 hải lý, vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý tính từ đường cơ sở và lên đến 350 hải lý của thềm lục địa. Bởi vì cả hai nước gần bờ biển đối diện với nhau, cũng không đến 200 hải lý tại điểm rộng nhất của nó, do đó, hai bên chồng chéo lên nhau ở các vùng biển Vịnh Bắc Bộ và thềm lục địa, cần phải được chia lại, để hai nước xác định lãnh hải của mình, cũng như vùng đặc quyền kinh tế và biên giới của thềm lục địa.
Thực tế đã chứng minh rằng trong Vịnh Bắc Bộ là không có đường ranh giới rõ ràng và biên giới biển giữa hai nước, thường tranh chấp đánh bắt hải sản và thăm dò dầu khí rất phức tạp, không ổn định có ảnh hưởng xấu đến quan hệ song phương, hạn chế phát triển bền vững và hiệu quả nguồn lực ở phía Vịnh Bắc Bộ.
Do đó, Việt Nam và Trung Quốc đàm phán để giải quyết phân định mở rộng Vịnh Bắc Bộ xác định rõ ràng lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và ranh giới thềm lục địa, đã trở thành một nhu cầu tất yếu để xây dựng và phát triển sự nghiệp của Trung Quốc, còn để tăng cường quan hệ láng giềng hữu nghị giữa hai nước hầu thực hiện đóng góp tốt. Chỉ có ở phía Bắc Vịnh của hai nước đã đồng ý để có được một ranh giới rõ ràng và phù hợp với luật pháp quốc tế, đường biên giới biển giữa hai nước phải có đầy đủ cơ sở pháp lý cho việc quản lý các nguồn tài nguyên của vùng Vịnh Bắc Bộ, sử dụng, phát triển và bảo vệ chủ quyền lãnh hải.
Hiệp ước (Pháp Thanh 1887) đã có cơ sở pháp lý quá rõ ràng, chủ quyền của Việt Nam tại vùng Vịnh Bắc Bộ và toàn phần quần đảo có khoảng 2318 hòn đảo và rạn san hô, đảo Bạch Long Vĩ (Bailongwei) lớn nhất. Trong khi ấy Hiệp ước (Pháp Thanh 1887) đã qui định cắt nhượng cho nhà Thanh chỉ một mõm đá nhỏ chưa đầy 200 m² (Cap Paklung có dấu chấm đỏ), trong khi đó đảo Bạch Long Vĩ có gần 10 km². Thế mà ngày nay Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Niên trả lời với phóng viên Bổn Khan Tấn (本刊讯) rằng: Hiệp ước (Pháp Thanh 1887) chỉ tập trung giải quyết việc phân định ranh giới trên đất liền giữa hai nước. Trung Quốc chưa bao giờ được chia hải phận trong Vịnh Bắc Bộ, cho nên ngày nay Trung Quốc được chủ quyền 46,77% tại Vịnh Bắc Bộ, cho thấy đảng "Bác" chưa bao giờ biết lịch sử của Vịnh Bắc Bộ. Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.
Bổn Khan Tấn: Đàm phán phân định lãnh thổ và lãnh hải của các biên giới giữa các quốc gia là một vấn đề rất phức tạp, thông thường sau một thời gian rất dài để đơm hoa kết trái. Vui lòng mô tả ngắn gọn về quá trình phân giới cắm mốc của các cuộc đàm phán Vịnh Bắc Bộ của Việt Nam và Trung Quốc.
Nguyễn Duy Niên: Nguyên tắc phân giới cắm mốc biên giới và sự phân chia biên giới biển, bởi vì nó liên quan đến chủ quyền và quyền tài phán, lợi ích quốc gia của nhà nước của các đại dương, do đó là một vấn đề rất quan trọng và phức tạp. Vì vậy, nhiều cuộc đàm phán có thể kéo nhiều thập kỷ hoặc thậm chí nhiều thế hệ. Chúng tôi có thể trích dẫn những ví dụ về các bộ phận của thềm lục địa ở Indonesia: hai nước kể từ đầu những năm 70 của thế kỷ trước đã bắt đầu các cuộc đàm phán, nhưng đến năm 2003 đã được giải quyết.
Giữa hai nước, Việt Nam-Trung Quốc đàm phán phân định ranh giới Vịnh Bắc Bộ, bao gồm cả năm 1974, có 3 cuộc đàm phán chính thức 1977-1978 và 1992-2000, kéo dài 27 năm. 1974 (tháng 8 năm 1974 - tháng 11 năm 1974) và 1977-1978 (tháng 10 năm 1977 - tháng 6 năm 1978). Ngoài ra giữa hai nước có 2 cuộc đàm phán cấp Chính phủ vì vậy không còn xa ngày "đơm hoa kết trái". Sau khi bình thường hóa quan hệ song phương giữa hai nước trong năm 1991, Việt Nam và Trung Quốc đã quyết định giải quyết các vấn đề biên giới thông qua "thương lượng", bao gồm cả việc phân định mở rộng Vịnh Bắc Bộ. Từ năm 1992 đến năm 2000 có chín 9 năm đàm phán, còn có 7 cuộc đàm phán cấp Chính phủ. Đứng đầu những phái đoàn và nhóm đã trải qua 18 vòng đàm phán cấp chuyên viên và cấp chuyên khảo sát, lập bản đồ Bản đồ toàn diện của vùng Vịnh Bắc Bộ và chuyên gia đã gặp gỡ các nhóm v.v... (tổng cộng 49 cuộc thương lượng, trung bình 5 lần so với hàng năm. Ngày 25 tháng 12 năm 2000, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam và Trung Quốc trong thỏa thuận tại Bắc Kinh, phân chia ranh giới Vịnh Bắc Bộ đã được ký kết, kết thúc 9 năm thương lượng giữa hai nước.
Bổn Khan Tấn: Các cuộc đàm phán phân định Vịnh Bắc Bộ và cơ sở pháp lý của nguyên tắc này là gì?
Nguyễn Duy Niên: Trong quá trình thương lượng, hai bên đã thống nhất phù hợp với luật pháp và thực tiễn quốc tế, đặc biệt là trong ánh sáng của những nguyên tắc và quy định của Công ước của Liên Hợp Quốc năm 1982 về hai nước đã ký kết để giải quyết phân định Vịnh Bắc Bộ mở rộng. Phương pháp của luật pháp quốc tế và Luật biển năm 1982 của Liên Hợp Quốc, nhiều quốc gia khác liên quan đến tình hình chung kết nối bờ biển hoặc các trường hợp bắt buộc tương đối phân rẽ nước tiếp giáp trong các vùng biển.
Công ước Luật biển 1982 (Điều 15). Quy định với lãnh hải rằng, nhiều quốc gia khác không có quyền mở rộng ra ngoài lãnh thổ của đường trung tâm và các cơ sở là khoảng cách tương tự từ điểm gần nhất để tính chiều rộng lãnh hải của mỗi quốc gia, trừ khi một thỏa thuận ngược lại. Tuy nhiên, nếu vì một lý do này hay lãnh thổ lịch sử đặc khác biệt, hai nước cần phải được sự đồng thuận trên cơ sở của lãnh hải của các ranh giới phân chia theo cách khác.
Đối với các vùng kinh tế độc quyền và thềm lục địa, Công ước Luật Biển 1982 (Điều 74 và Điều 83) quy định rằng nhiều quốc gia đồng ý theo cách tiếp cận pháp luật quốc tế được chia để đạt được một giải pháp công bằng. Nếu bạn thất bại trong việc đạt được một sự đồng thuận, nó sẽ phải sử dụng các thủ tục giải quyết tranh chấp theo Công ước (thông qua Tòa án Quốc tế về Luật biển được thành lập theo quy định của Công ước, các Tòa án quốc tế, hội đồng trọng tài hoặc tòa án trọng tài đặc biệt).
Theo Công ước Luật Biển 1982 của Liên Hợp Quốc và thông lệ quốc tế, nước ta và Trung Quốc đồng ý thương lượng biên giới phân chia Vịnh Bắc Bộ, thực hiện giải quyết các nguyên tắc là: "Với tham chiếu đến luật pháp quốc tế và thực tiễn quốc tế, "thương lượng" phân chia khu vực phía Bắc Vịnh" và "theo nguyên tắc công bằng, tính đến tất cả các lãnh thổ Vịnh Bắc Bộ có liên quan lại, để đạt được một giải pháp công bằng".
Bổn Khan Tấn: Ông có thể nói về nội dung chính của Hiệp định phân định mở rộng Vịnh Bắc Bộ" và có sự bình luận phân chia Vịnh Bắc Bộ về kết quả của các cuộc thương lượng?
Nguyễn Duy Niên: Việc ký kết các "Thỏa thuận phân định Vịnh Bắc Bộ" là kết quả của quá trình đàm phán lâu dài, thể hiện sự nỗ lực của cả Việt Nam và Trung Quốc, thiện chí và sự chăm sóc thích hợp của các lợi ích cho cả hai bên, phù hợp với luật pháp quốc tế và điều kiện cụ thể của Vịnh Bắc Bộ.
"Thỏa thuận phân định Vịnh Bắc Bộ" là thỏa thuận ba ranh giới đã ký kết giữa Trung Quốc và các nước láng giềng lần thứ hai (năm 1997 tại Thái Lan và năm 2003 tại Indonesia), nhưng nó là thỏa thuận đầu tiên với một tính chất chung được ký kết giữa Trung Quốc và các nước láng giềng phân định rõ ranh giới của đường biên giới chung Việt Nam và lãnh hải của Trung Quốc trong Vịnh Bắc Bộ, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
Cả hai bên đã đồng ý về phía Nam từ cửa miệng của Vịnh Bắc Bộ và sông Bắc Luân để thiết lập một đường biên giới lãnh hải tổng cộng 21 điểm đảo trong vùng biển, và đếm từ điểm đầu tiên đến 9 điểm đảo hay 11 điểm đảo của biển tiếp giáp với biên giới (người ta gọi là đường lưỡi bò), từ 9 điểm đầu tiên đến 21 điểm là ranh giới chung của vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Theo thỏa thuận này, Việt Nam được hưởng 53,23% tổng diện tích của Vịnh Bắc Bộ, Trung Quốc được hưởng 46,77%. Đường phân định đảo Bạch Long Vĩ (Bailongwei) có 15 dặm xa biển, đó là, đảo Bạch Long Vĩ có 12 dặm lãnh hải, 3 dặm (25% của lợi ích) của vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Đảo Bạch Long Vĩ (Bailongwei) là một đảo nhỏ của Việt Nam (diện tích khoảng 2,5 km vuông), và nằm gần trung tâm của khu vực Vịnh Bắc Bộ (khoảng 110 km ngoài khơi bờ biển của Việt Nam, khoảng 130 km từ bờ biển đảo Hải Nam của Trung Quốc), trong đó tạo ra một môi trường đặc biệt, phù hợp với pháp luật và thông lệ quốc tế, (để tận hưởng những lợi ích của một thời gian giới hạn) chỉ có một phần phân giới cắm mốc.
Hòn Cỏ là một hòn đảo nhỏ, nhưng nằm gần một bờ biển Việt Nam (từ bờ biển khoảng 13 dặm biển), do đó, một hiệu suất 50% trong việc phân chia Vịnh Bắc Bộ có con dấu vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Đó là một kết quả công bằng trong các cơ sở pháp lý và hoàn cảnh cụ thể của Vịnh Bắc Bộ đạt được (đường bờ biển của chúng tôi dài hơn bờ biển của Trung Quốc, đất nước của chúng tôi so với Vịnh Bắc Bộ mở rộng của Trung Quốc trên đảo, đặc biệt là ở phần phía bắc của Vịnh gần trung tâm cũng như phần đuôi Bạch Long Vĩ (Island).
Trong thỏa thuận, hai bên cam kết sẽ tôn trọng lãnh hải của nhau ở phía Bắc Vịnh, chủ quyền vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa và quyền chủ quyền và quyền tài phán. Theo đó, các bên có thể sở hữu các nguồn tài nguyên khoáng sản của thềm lục địa trong phạm vi thăm dò và phát triển được thực hiện độc lập. Trên khắp các đường phân chia cho một đơn vị dầu khí, khí đốt, khoáng sản các kết cấu khác, hai bên thông qua hiệp thương hữu nghị để phát triển phân phối hiệu quả nhất và công bằng các lợi ích đạt được của sự phát triển, sự đồng thuận. Ngoài ra, thỏa thuận cũng sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên sinh học và phát triển bền vững ở khu vực phía Bắc Vịnh, bảo vệ, quản lý, sử dụng tài nguyên và sinh vật trong vùng đặc quyền kinh tế của hợp tác giữa hai nước đã có những quy định này.
Bổn Khan Tấn: Trong thời điểm Việt Nam-Trung Quốc ký kết "Thỏa thuận phân định Vịnh Bắc Bộ", nguyên nhân nào cùng lúc ký thêm "Hiệp ước hợp tác nghề cá trong Vịnh Bắc Bộ"?
Nguyễn Duy Niên: Những hợp tác nghề cá là một nội dung được đề cập trong nhiều yếu tố phân định Vịnh Bắc Bộ của quá trình thương lượng, vì nó liên quan đến chế độ pháp lý điều chỉnh các vùng đặc quyền kinh tế. Từ xa xưa, người Việt Nam và ngư dân Trung Quốc đã đánh bắt cá trong vùng biển hải sản ngoài lãnh hải của hai nước. Trong những năm 1950 và 1960 của thế kỷ trước, Việt Nam và Trung Quốc đã ký một số Hiệp ước hợp tác nghề cá Vịnh Bắc Bộ. Theo các thỏa thuận này, các bên sẽ có tàu đánh bắt xa bờ biển và hải đảo ba dặm biển, "Thỏa thuận đánh bắt cá năm 1957", (1957 niên phàm thuyền bộ ngư hiệp định), ký bổ sung 6 hải lý "Thỏa thuận đánh bắt cá 1957, bổ sung Nghị định thư 1961", (1961 niên đối 1957 niên phàm thuyền bộ ngư hiệp định đích bổ sung nghị định thư), và cuối cùng hiệp ước 12 hải lý, "Thỏa thuận hợp tác đánh cá 1963", (1963 niên bắc bộ loan bộ ngư hợp tác hiệp định). Lãnh hải trong vịnh bắc Bộ ngoài phạm vi nêu trên của các vùng biển khác, cả hai bên đang đánh cá miễn phí, tại thời điểm đó, luật pháp quốc tế đã xác định. Kể từ đó, các hiệp định trong năm 1970 bị mất hết giá trị, khi Liên Hợp Quốc đã bắt đầu thảo luận về việc xây dựng một bộ luật mới của Công ước Biển, sự hình thành các đặc khu kinh tế. Theo thông lệ quốc tế, có rất nhiều quốc gia đã ký kết "Thỏa thuận hợp tác song phương về nghề cá biển".
Sau khi Công ước 1982 của Liên Hợp Quốc liên quan đến vùng đặc quyền kinh tế, các quy định của vùng biển kín và nửa kín hợp tác quốc gia có liên quan, việc sử dụng và phát triển của khu vực phía Bắc Vịnh của các quá trình và các điều kiện tự nhiên của khu vực phía Bắc Vịnh nguồn tài nguyên biển, nhằm giải quyết đúng đắn các lợi ích của cả hai bên ngư dân trong vùng Vịnh Bắc Bộ, chúng ta đều đồng ý với nhau tại cùng một thời gian đàm phán ký kết "Thỏa thuận phân định Vịnh Bắc Bộ", nhưng cũng đã đàm phán và ký kết các thỏa thuận về hợp tác nghề cá.
Ngày 25 tháng 12 năm 2000, "Thỏa thuận hợp tác nghề cá Vịnh Bắc Bộ", cùng với các "Thỏa thuận phân định ranh giới vùng Vịnh Bắc Bộ" đã ký cùng một lúc. Tuy nhiên, "Thỏa thuận phân định khác nhau, "Thỏa thuận hợp tác nghề cá" giá trị 12 năm, hết thời gian hiệu quả tự động gia hạn lại 3 năm "Sau 12 năm tự động gia hạn thêm thời gian ba năm", (12 niên hòa 3 niên tự động diên trường kì) giá trị pháp lý do Chính phủ cấp.
Bổn Khan Tấn: Sau khi ký kết thỏa thuận biên giới đất liền năm 1999. Việt Nam và Trung Quốc cũng đã ký kết song phương, Bộ trưởng có cảm giác thế nào về "Thỏa thuận phân định Vịnh Bắc Bộ"?
Nguyễn Duy Niên: Việc ký kết "Thỏa thuận phân định Vịnh Bắc Bộ" để mở ra quan hệ song phương giữa Trung Quốc và Việt Nam là một sự kiện quan trọng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý và duy trì sự ổn định của phía Bắc và Vịnh Bắc Bộ, tăng sự tin tưởng giữa hai bên và thúc đẩy hợp tác toàn diện giữa hai nước. Và giải quyết các vấn đề ranh giới lãnh thổ, ký kết "Thỏa thuận phân định Vịnh Bắc Bộ" cho việc "củng cố hòa bình và ổn định trong nước của chúng tôi" để làm cho một đóng góp tích cực cho khu vực xung quanh, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng và phát triển đất nước.
Việt Nam và Trung Quốc lần đầu tiên có một giá trị về khoa học luật pháp quốc tế và cả hai bên đã đồng ý và chấp nhận của hai nước ở phía vùng lãnh hải Vịnh Bắc Bộ, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa ngoài khơi đường phân chia rõ ràng.
Điều này xác định rõ ranh giới trên biển giữa các nước để bảo vệ phát triển riêng, sử dụng, quản lý, phát triển và phạm vi kinh tế của các nước trong Vịnh Bắc Bộ và thềm lục địa của họ, và đã tạo ra một khuôn-khổ pháp lý rõ ràng quốc tế và điều kiện thuận lợi, đồng thời, nhưng cũng cho hai bên có một nền tảng để thúc đẩy hợp tác và tạo điều kiện cho sự mở rộng phát triển bền vững Vịnh Bắc Bộ, duy trì sự ổn định của vùng mở rộng Vịnh Bắc Bộ, tăng cường sự phát triển toàn diện của quan hệ song phương và sự tin cậy giữa hai nước.
Hiệp ước phân định Vịnh Bắc Bộ đã được ký kết, và một lần nữa phản ánh chính sách quốc gia của chúng tôi một cách chính xác và thiện chí. Đất nước tôi luôn sẵn sàng với các bên hữu quan, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, phù hợp với cơ sở luật pháp quốc tế và thực tiễn, thông qua thương lượng để giải quyết các vấn đề biên giới, quan hệ hữu nghị và hợp tác với tất cả các quốc gia trên lãnh thổ liên quan, các vùng biển và thềm lục địa, duy trì hòa bình và ổn định trong khu vực và đóng góp trên thế giới.
Bổn Khan Tấn: Bộ trưởng có thể miêu tả sự khó khăn trong lúc đàm phán trong "Thỏa thuận phân định Vịnh Bắc Bộ" và sẽ có hiệu lực như thế nào?
Nguyễn Duy Niên: Theo Điều 11 của "Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ" giữa hai nước kể từ ngày có sự chấp thuận trao đổi tài liệu, hiệp ước này sẽ có hiệu lực. Để thực hiện các "Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ" sẽ có hiệu lực vào cuối tháng sáu năm nay. Việt Nam và Trung Quốc đã được phù hợp với pháp luật của nước mình để xử lý các thủ tục pháp lý, và trong ngày 30 tháng 6 năm 2004 trao đổi văn bản phê chuẩn.
Sau khi có hiệu lực của "Thỏa thuận phân định Vịnh Bắc Bộ", mỗi cơ quan của Nhà nước phù hợp với năng lực của mình sẽ cần phải được sửa đổi, bổ sung và cải thiện nhiều văn bản pháp luật liên quan đến công cộng, nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc quản lý và khai thác các nguồn tài nguyên ở phía bắc Vịnh.
Kết luận.
Đồng thời, đảng ta cần phải tuyên truyền, loan tải, phổ biến sâu rộng về nội dung "Thỏa thuận phân định Vịnh Bắc Bộ" và "Thỏa thuận hợp tác nghề cá", đến cho các tầng lớp xã hội, từng người dân, từng cán bộ trong ngoài đất nước cùng hiểu biết, đặc biệt những địa phương giao tiếp ven biển phía Bắc và vùng Vịnh Bắc Bộ, thực hiện đúng nghĩa vụ công dân tốt.
Bổn Khan Tấn: Cảm ơn Ngoại trưởng.
Phía bờ Vịnh Bắc của Việt Nam có khoảng 2318 hòn đảo và rạn san hô, đảo Bạch Long Vĩ (Bailongwei) lớn nhất trong quần đảo ở giữa vĩ độ, 20 độ phút 08 vĩ độ bắc, kinh độ 107 độ phút 43 đông. Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.
Người viết bài này chưa có ý phản biện những lời phát biểu của ông Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Niên, mà chỉ giới thiệu tham khảo phần lịch sử hình thành Vịnh Bắc Bộ hầu chứng minh cho đảng "Bác" nhận thức được sự dối trá quá đáng của mình, tại sao không nói sự thật để nhân dân biết. Nếu tình trạng của đảng "Bác" lê thê mãi như Nguyễn Duy Niên đã phát biểu trên, chẳng khác nào cướp cạn, bán nước hay xa hơn phản quốc, cũng không ngoa lắm, bởi đảng "Bác" đã tạo ra mảng mùa đen cho đất nước, mới có hậu quả như ngày nay.
Lịch sử địa lý hình thành Vịnh Bắc Bộ.
Vịnh Bắc Bộ của Việt Nam có quần đảo Bạch Long Vĩ (Bailongwei), thuộc Bắc Bộ là một vịnh lớn có danh mục trên thế giới, diện tích khoảng 128.250 km² (38.000 dặm vuông) tại điểm rộng nhất của nó là 310 km về phía Bắc của Vịnh (176 nm), điểm hẹp nhất 207,4 km (112 nm). Vịnh Bắc Bộ Việt Nam với tổng chiều dài 763 km bờ biển, trong đó có 10 thành phố ven biển; có tổng chiều dài 695 km bờ biển, về phía Trung Quốc mở rộng Vịnh Bắc Bộ, bao gồm các tỉnh Hải Nam và Quảng Tây. Vịnh Bắc Bộ có hai cổng: Đảo Lôi Châu và đảo Hải Nam nằm giữa eo biển Quỳnh Châu, chiều rộng 35,2 km (19 hải lý) tính từ Việt Nam đến Trung Quốc, cổng phía Bắc chính giữa Vịnh Bắc Bộ và đảo Hải Nam có chiều rộng khoảng 207,4 km (112 nm).
Trung tâm đảo Bạch Long Vĩ cách khoảng 91 km tính từ đất liền Hải Phòng Việt Nam. Phía bờ của Hải Nam Trung Quốc tính từ đất liền cách khoảng 135 km. Những đảo ở trong vùng này gọi chung là quần đảo Bạch Long Vĩ (Bailongwei), kể cả đảo nhỏ Lôi Châu và Hải Nam, sau 1955 Trung Cộng chiếm đảo Hải Nam thành lập huyện đảo.
Đảo Bạch Long Vĩ nhô lên từ biển, là một hòn đảo lục tam giác. Phía chiều dài về hướng Tây Nam có 3.1km, phía Nam chiều dài mặt 2.3km, chiều dài phía Đông 2.2km, đường bờ biển dài 7.5km, khu vực thủy triều cao khoảng 1,78 km², diện tích đất canh tác 2,33 km², khu vực hướng Đông Bắc, thủy triều thấp 3,05 km², tổng cộng diện tích đảo gần 10 km².
Đảo Bạch Long Vĩ đã bao đời chủ quyền của Việt Nam, ngày nay Trung Quốc tranh chấp nguyên nhân Hồ Chí Minh đã ký Vạn Niên trao đổi vũ khí. Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.
Về địa hình đồi núi trung ương cao 61.5m, độ dốc 62,5% các khu vực có độ dốc ít hơn 5 độ, các phía Đông ven biển cao 10-15m. Hình thành nền tảng mặt bằng bãi biển của đảo và vùng bãi thủy triều rộng 13.000 km². Mùa mưa mỗi năm vào tháng 8, tháng 3-10 mùa khô. Nhiệt độ trung bình là khoảng 23,3°, lượng mưa trung bình hàng năm là 1031mm. Gió mạnh hay bão vận chuyển trung bình một lần hoặc hai lần một năm.
Năm 1887, Chính phủ nhà Thanh-Pháp ký "Hiệp ước Thiên Tân 1887" (tục nghị giới vụ chuyên điều), tại điểm kinh độ 108 độ 3 phút và 13 giây, thành hình phân định lãnh hải biển đảo Vịnh Bắc Bộ, trong quần đảo Bạch Long Vĩ (Bailongwei) tất cả thuộc sở hữu của Pháp.
Năm 1937, có một đơn vị của Pháp đồn trú.
Năm 1943, Nhật Bản chiếm đóng các đảo này.
Năm 1946, chiến tranh thế giới II, một lần nữa quân Pháp trở lại đồn trú.
Năm 1954, sau trận Điện Biên Phủ, Pháp ký hiệp ước Geneva, lập lại Đông Dương và trả lại cho Việt Nam vịnh Bắc Bộ bao gồm quần đảo Bạch Long Vĩ.
Năm 1955, quân đội nhân dân Bắc Việt đồn trú.
Năm 1957, Hồ Chí Minh ký nhượng đảo Bạch Long Vĩ 10.000 năm cho Trung Quốc.
Năm 1992, sau Hội nghị bí mật Thành Đô 1990, chính phủ Việt Nam tách biệt đảo Bạch Long Vĩ (Bailongwei) nhượng cho Trung Quốc kiến thiết xây dựng thị xã thủy sản trước mặt Hải Phòng. [3]
Những năm 1950, đã đánh dấu trên bản đồ quần đảo ở Biển Đông, đảo Bạch Long Vĩ (Bailongwei) lớn nhất trong vùng Vịnh Bắc Bộ của Việt Nam. Cuộc nội chiến của Việt Nam, có một hội nghị bí mật tại Hải Phòng Việt Nam. Hồ Chí Minh đã đồng ý nhượng lãnh thổ của mình, giao cho Chủ tịch Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai đổi lấy vũ khí làm phương tiện chiến tranh nhằm tiến chiếm miền Nam Việt Nam.
Sau khi "đàm phán bí mật Thành Đô 1990" người dân Trung Quốc ồ ạt nhập cư vào quần đảo Bạch Long Vĩ. Năm 2001, Việt Nam thực hiện cam kết (Kỷ yếu hội nghị bí mật Thành Đô 1990) hoàn thành cơ bản phân định Vịnh Bắc Bộ. Năm 2000, Việt Nam đã ký "Hiệp ước phân định ranh giới vịnh Bắc Bộ", Trung Cộng đã chính thức khẳng định chủ quyền tại vùng Vịnh Bắc Bộ. Năm 2009, dân Trung Hoa chính thức định cư trên đảo Bạch Long Vĩ tổng dân số 402 người. Ngày 27 tháng 3 năm 2013 Trung Quốc vẽ lại hải đồ toàn vùng Vịnh Bắc Bộ, đưa đến nhiều sự kiện Trung Quốc cướp tàu, nổ súng vào ngư dân Việt Nam, cho rằng vi phạm chủ quyền lãnh hải Trung Quốc. Bộ Ngoại giao Việt Nam không biện minh hay bác bỏ sự trịch thượng của Trung Quốc, trái lại tuyên bố tăng cường kiểm soát tránh xâm phạm lợi ích của Trung Quốc tại Vịnh Bắc Bộ.
Tình hình chung đảo Bạch Long Vĩ.
Giới thiệu.
Dữ liệu hình: Bạch Long Vĩ.
Đảo Bạch Long Vĩ là hòn đảo lớn nhất trong khu vực Biển Đông, có diện tích 9,96 km², gấp đôi đảo Ba Bình, bốn lần Vĩnh Hưng và Bạch Long Vĩ là một hòn đảo lục địa, có ngọn núi, rừng rậm và suối, nằm ở góc phía Tây Bắc của vị trí trung tâm Đông đảo Biển. Năm 1950 Trung Quốc cho in và phát hành bản đồ tiêu chuẩn, gọi là đảo Bạch Long Vĩ đảo nổi.
Tiến hóa của đảo Bạch Long Vĩ.
Đối với 2 ngàn năm trước, ngư dân Việt Nam đã sống tại trung tâm của Vịnh Bắc Bộ trên quần đảo Bạch Long Vĩ, người dân sinh cư lao động hài hòa, hành nghề thủy sản thư thái, đánh bắt cá thong dong trong vịnh qua đời thường tự tại. Hàng năm có những cơn bão tố ngư dân Trung Hoa trôi giạt vào đảo, người dân Việt ra tay cứu sống và cho nương nhờ cho qua cơn bão, tuy rằng Việt-Hán mặt trời và mặt trăng khác ánh sáng nhưng nhân đạo của người Việt xem việc cứu người hệ trọng. Trái lại lòng bành trướng Trung Quốc khác thường nổi cơn điên muốn cướp đảo Bạch Long Vĩ, vì Trung Quốc thấy đặc thù quần đảo Bạch Long Vĩ có trên 2300 đảo san hô lớn nhỏ, là nơi biển lành của "Bào ngư" phát triển mạnh, giá trị cao, có thể nói là một bí danh "Bào ngư Bạch Long Vĩ", thiên nhiên ưu đãi cho Việt Nam.
Đảo Bạch Long Vĩ, địa lý và vị trí.
Đảo Bạch Long Vĩ tính theo hướng Tây Bắc Vịnh, tại vị trí cửa sông Bắc Luân và Eo biển Quỳnh Châu với vĩ độ, 20 độ 08 phút vĩ độ bắc, 107 độ kinh đông 43 phút. Từ vịnh Hải Phòng Việt Nam cách khoảng 91 km, và đảo Hải Nam của Trung Quốc cách khoảng 135 km. Quần đảo thuộc hướng Đông Bắc - hướng Tây Nam, chiều dài 3 km, rộng 1,5 km, với tổng diện tích gần 10 km². Trung tâm của một ngọn đồi nhỏ 58 mét trên mực nước biển, được bao quanh bởi những vách đá, chu vi 6,5 km. Đảo bầu dục, 4,5 km trục dài và từ bắc tới nam trục dài 2,1 km².
Đảo Tây, phía Nam đất bằng phẳng được khoanh vùng canh tác, phía Đông Bắc vách núi, điểm cao nhất 53 mét, một phần núi cây rừng và thảo mộc. Rạn san hô gần bờ tạo thành bãi biển cạn, môi trường sống của thủy sản, bào ngư phong thú. Bên ngoài đảo nước cạn là ngư trường lớn vô tận, một mẽ lưới kéo lên cá hồi đỏ, mực, cá mú và những loại cá có giá trị cao.
Con người và đảo biển.
Vào năm 1950 dân số Việt Nam trên đảo có 628 người (382 nam, 246 nữ), năm 1955, dân số tăng lên 745 người. Cùng năm có khoảng 28 người Hoa đến từ các đảo lân cận như đảo Đàm Châu, khởi đầu họ xin thường trú. Dân cư xây dựng được một ngôi làng nhỏ, sinh hoạt "tan hôn tương tế". Chủ yếu sinh kế dựa trên nghề cá và sản xuất hàng bào ngư khô, bán cho đại lục Trung Quốc, đổi lấy thực phẩm và nhu yếu phẩm. Nông nghiệp phụ, bởi đảo chỉ có hơn 500 ha đất canh tác, trồng lúa, khoai lang, lúa miến, đậu, rau, dưa hấu.
Tranh tụng chủ quyền đảo Bạch Long Vĩ.
Năm 1887, triều đại nhà Thanh và Pháp đã ký một hiệp ước biên giới, phân chia biên giới lãnh thổ và lãnh hải giữa Trung Quốc và Đông Dương thuộc Pháp. Nhà Thanh vì lợi ích kinh doanh đổi lấy hai huyện Giang Bình Chu (Jiang Ping Chow) và Hoàng Trúc, (Wong Chuk) hai vùng đất này của Việt Nam. Đối lại việc phân chia ranh giới trên biển, người Pháp lấy quần đảo Bạch Long Vĩ tại điểm 108 độ 03 phút kinh độ Đông từ cửa sông Bắc Luân rộng xuống phía Nam thuộc vùng biển đảo vịnh Bắc Bộ. Nhà Thanh thừa nhận tất cả quần đảo Bạch Long Vĩ của Pháp.
Trung Quốc tráo trở chủ quyền đảo Bạch Long Vĩ.
Năm 1950, Hồ Chí Minh nhượng cho Quân đội Giải phóng Nhân dân Hải Nam, một cách gián tiếp, đóng mặt biển trợ chiến đất liền, Trung Quốc gửi quân đồn trú lên đảo. Năm 1954, theo thỏa thuận "Geneva", Việt Nam đối mặt với 17 độ bắc vĩ tuyến như là ranh giới. Thực dân Pháp trong tháng 8 năm 1954 còn quản lý đảo Bạch Long Vĩ có 475 người Việt Nam.
Đến vào năm 1955, Quân đội Giải phóng nhân dân Trung Quốc trở lại chiếm đóng đảo theo lời mời của Hồ Chí Minh, và thành lập các cơ quan chính quyền trên đảo, thuộc quản lý của hành chính Hải Nam tỉnh Quảng Đông.
Việt Cộng-Trung Cộng cùng đồn trú trên đảo Bạch Long Vĩ.
Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, quân đội Bắc Việt tăng cường phòng thủ cho Hải Phòng và Hà Nội. Hồ Chí Minh, Chủ tịch Mao và Chu Ân Lai, đồng ý chuyển quân Trung Cộng đến đảo Bạch Long Vĩ đồn trú và bao gồm cả lãnh thổ Bắc Việt Nam, tại đảo xây dựng các giàn radar, các vị trí phòng không, trạm thông tin liên lạc. Sinh hoạt giống như quân đội Trung Quốc tại Đại lục vào Việt Nam, binh sĩ Việt Nam có nhiệm vụ cải trang đảo thành chiến lũy duy nhất trên lãnh hải. Tháng 3 năm 1957 Trung Quốc và Mỹ tránh đối đầu quân sự trực tiếp trên đảo. Hồ Chí Minh thấy người anh cả rộng tay hào phóng chi viện tối đa, tuyên bố: "đảo Bạch Long Vĩ là một phần của Trung Quốc". Từ đó các tàu đánh cá của ngư dân Việt Nam hoạt động ngoài khơi Vịnh Bắc Bộ đều bị Trung Quốc cài vào cái tội đánh bắt cá bất hợp pháp trong vùng biển. Những năm gần đây Trung Quốc tăng cường hành vi, vi phạm quyền và lợi ích của nhân dân Việt Nam ở Biển Đông. Hành động của Trung Quốc không cần biết hợp lý hay không. Trung Quốc chưa bao giờ xem trọng và trân trọng lãnh hải của lân bang.
Đàm phán phân định Vịnh Bắc Bộ.
Tháng 12 năm 1973, khi chính phủ Bắc Việt Nam mong muốn thông qua các khu vực thăm dò dầu khí, đầu tiên công ty dầu khí của Ý trúng thầu tại Bắc Vịnh Bắc Bộ, Trung Quốc nhạy cảm buộc phải ngưng lập tức các cuộc đấu thầu và khai thác, với lý do trong vùng biển có tài khoản dầu của Trung Quốc. Ngày 18 tháng 1 năm 1974, Việt Nam đề nghị Trung Quốc tham dự đàm phán, một lần nữa chính phủ Trung Quốc yêu cầu Việt Nam đình chỉ các cuộc đàm phán với các nước thứ ba có công ty thăm dò dầu khí. Ngày 15 tháng 8 năm 1974, Trung Quốc và Việt Nam tổ chức vòng đàm phán đầu tiên tại Bắc Kinh.
Năm 1980 Việt Nam mở lại các cuộc đàm phán với phía Trung Quốc. Việt Nam công nhận quyền đánh bắt cả của ngư dân Trung Hoa vào hoạt động trong quần đảo Bạch Long Vĩ sâu 15 hải lý.
Năm 1991, Trung Quốc và Việt Nam bình thường hóa quan hệ song phương, được coi là cần thiết để giải quyết các vấn đề biên giới, bao gồm cả vịnh Bắc Bộ, những ngày đầu thành lập hội đồng đàm phán biên giới, cấp cao của chính phủ bao gồm Ngoại giao, Quốc phòng, Thủy sản, và ban lập bản đồ. Bắt đầu 3 cuộc đàm phán phân định ranh giới lãnh hải tại Vịnh Bắc Bộ. Từ năm 1992 đến năm 2000, hai bên đã tổ chức tổng cộng 7 cuộc đàm phán cấp cao đứng đầu Chính chính phủ gặp nhau 3 lần, 18 cuộc họp nhóm công tác chung.
Ngày 25 tháng 12 năm 2000, Việt Nam đã ký "Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ" và ký "thỏa thuận hợp tác Vịnh Bắc Bộ thủy sản". Sau ba năm đàm phán, ngày 29 tháng 4 năm 2004, Trung Quốc và Việt Nam ký một giao thức bổ sung tại Bắc Kinh về "thỏa thuận hợp tác nghề cá". Theo thỏa thuận nghề cá, diện tích hoạt động hơn 30.000 cây số vuông của khu vực đánh cá chung xuyên qua biên giới, có nghĩa gồm cả trong thềm lục địa của Việt Nam, trừ của biển và cửa sông trong Vinh chưa ký kết khai thác. Thời hạng sau 15 năm, hai đội ngư thuyền được phép nhập lại một (Trung Quốc ăn sống ngư nghiệp VN). Ngoài các khu vực đánh bắt cá chung tại phía Bắc Vịnh Bắc Bộ. Chuyển tiếp 4 năm, sắp xếp lại các vùng nước đánh bắt cá, Trung Quốc chủ động vẽ lại một đường xuyên biên giới biển, có nghĩa được quyền đánh bắt cá tại cửa biển và cửa sông của Việt Nam. (như đã thấy, ngày 19 tháng 6. năm 2013 Trương Tấn Sang đã ký 10 hiệp ước tại Bắc Kinh, bán trọn gói cửa biển-sông cho Trung Cộng.
Trung Quốc cướp Bạch Long Vĩ.
Vịnh Bắc Bộ chỉ có một đảo Bạch Long Vĩ không có hai: Trung Quốc âm mưu tung hô đánh tráo, đặt cho một đảo nhỏ có tên "Bạch Long Vĩ-kì nhất nghiễm tây phòng thành cảng", và cho đó là đảo Bạch Long Vĩ nổi, đảo này trước năm 1955 của Việt Nam, có đơn vị quân đội Trung Hoa quốc gia chiếm đóng, năm (1955) chiến tranh Việt Nam nổ ra, các đơn vị Quốc Dân Đảng rút đi. Năm 1957, chính phủ Trung Cộng chọn đảo này làm căn cư duyên hải.
Đi đêm bán Vịnh Bắc Bộ.
Vịnh Bắc Bộ có diện tích khoảng 128.000 km², trong lịch sử của Trung Quốc không có Vịnh Bắc Bộ. Trước thế kỷ 20, trong suốt những năm 1960, Trung Cộng và Việt Cộng công bố chung bề rộng của Vịnh Bắc Bộ, thực chất một hình thức bán lãnh hải, họ lập quyền tài phán lãnh thổ của việc chia sẻ chung các nguồn tài nguyên trong vùng Vịnh theo tinh thần "tình đồng chí và tình anh em". Ngày 14/9/1958, Phạm Văn Đồng thừa nhận biển của Trung Quốc. Vào năm 1957, năm 61 và năm 63 chính Hồ Chí Minh ký kết 3 hiệp định về nghề cá xa bờ (6-12 dặm). Điều này có nghĩa rằng 6-12 hải lý biển, ngư dân hai bên được tự do đánh bắt cá.
Kể từ đầu những năm 1970, với sự phát triển của các hệ thống hiện đại của luật biển, và Việt Nam chia các vùng biển phía Bắc vịnh lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa vấn đề được trình bày. Theo mở để ký vào năm 1982, "Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển," có hiệu lực vào năm 1994 như là cốt lõi của hệ thống hàng hải hiện đại, các quốc gia ven biển có thể có chiều rộng 12 hải lý của lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và tối đa không quá 350 hải lý của thềm lục địa. Chủ quyền đối với vùng lãnh hải của quốc gia ven biển, nhưng các tàu của các nước khác có thể đi qua vô hại. Như các vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, các quốc gia ven biển không có chủ quyền, nhưng được hưởng các quyền chủ quyền độc quyền đối với thăm dò tài nguyên thiên nhiên, phát triển, bảo tồn và quản lý các thuộc tính của nó. Điều này có nghĩa rằng một quốc gia không thể vào vùng đặc quyền kinh tế của nước đó để câu cá, trừ khi có sự đồng ý của cả nước. Vịnh Bắc Bộ là một vịnh hẹp, chiều rộng khoảng từ 110-180 dặm. Trung Quốc và Việt Nam là bên "UNCLOS" trong. Theo "Công ước", hai chồng lên nhau ở tất cả các vùng biển Vịnh Bắc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, phải được giải quyết thông qua các ranh giới.
Tình hình thực tế cũng cho thấy rằng trong quá khứ, sự vắng mặt của một đường phân chia rõ ràng giữa khu vực phía Bắc Vịnh, sự xuất hiện của các tranh chấp giữa hai nước thường xuyên, làm mất ổn định tác động của các mối quan hệ song phương. Vì vậy, hai nước đàm phán về vịnh Bắc là cả hai bộ phận tất yếu của sự phát triển hệ thống hàng hải quốc tế, mà còn là nhu cầu thực tế của tình hình vùng Vịnh Bắc Bộ.
Phân định biển của lợi ích quốc gia và tình cảm quốc gia, chủ quyền liên quan, quyền chủ quyền và quyền tài phán của một quốc gia, nó là vấn đề rất quan trọng và phức tạp. Vịnh Bắc Bộ đàm phán phân định ranh giới thông qua những nỗ lực của nhiều thế hệ, và phải mất 27 năm, trong ba giai đoạn. Đầu tiên, vào năm 1974, thứ hai 1977-1978 và thứ ba 1992-2000. Bởi vì hai vị trí đầu tiên của các bên tham gia đàm phán cho đến nay, không có kết quả. Sau năm 1991, khi bình thường hóa quan hệ song phương, hai bên tin tưởng rằng nó là cần thiết để giải quyết các vấn đề biên giới, bao gồm Vịnh Bắc Bộ, bao gồm cả việc thành lập ban đầu của một cuộc đàm phán biên giới phái đoàn chính phủ bao gồm các vấn đề đối ngoại, quốc phòng, thủy sản, lập bản đồ, chính quyền địa phương và các cơ sở, bắt đầu Vịnh Bắc Bộ ba cuộc đàm phán phân định ranh giới. Kể từ năm 1992, khi năm 2000 lịch 9 năm, hai bên đã tổ chức một cuộc đàm phán chính phủ bảy cấp, người đứng đầu phái đoàn chính phủ gặp nhau ba lần, 18 cuộc họp nhóm công tác chung và nhiều vòng của cuộc họp nhóm chuyên gia, tổ chức vào ngày 5 trung bình hàng năm khác nhau đàm phán hoặc đàm phán. Các cuộc đàm phán, hai bên đã đồng ý trên nguyên tắc phân chia ranh giới, cụ thể là: Theo luật pháp quốc tế và thực hành, bao gồm các nguyên tắc và quy định của "Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển" năm 1982, có tính đến tình hình thực tế ở Vịnh Bắc Bộ, và phân chia công bằng và bình đẳng của Vịnh Bắc. Hai nhà lãnh đạo đã cho các cuộc đàm phán liên quan để thúc đẩy sự tiến bộ của các cuộc đàm phán. Sau khi đàm phán phức tạp một cách kiên nhẫn và các bộ trưởng Việt Nam cuối cùng ngày 25 tháng 12 năm 2000 tại Bắc Kinh đã ký kết các "Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ".
Tài liệu "Bác" bán vùng đảo Bạch Long Vĩ trong Vịnh Bắc Bộ, đàm phán tháng 7 năm 1952-1957 theo thỏa thuận giá trị 10.000 năm, gọi là "Hiệp ước nhượng lãnh hải và Vịnh Bắc Bộ Vạn Niên". Hồ sơ này còn cho biết, ý của "Bác" mở ra hành trình mới cho dân tộc Việt Nam hóa thân Bắc Hán. Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.
Phơi bày mọi sự thật của Việt Cộng.
Đã từ lâu bành trướng ngắm nghía Vịnh Bắc Bộ bởi vị trí chiến lược quan trọng về an ninh quốc phòng và kinh tế, Vịnh Bắc Bộ còn cho nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú v.v.... Trong khi đó Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Duy Niên đại diện cho đảng "Bác" tuyên bố:
"Vịnh Bắc Bộ chỉ có giá trị tài nguyên địa phương", thay vì ông Niên nói bằng thực tế tài nguyên của quốc gia. Ông nói tiếp "đảo Bạch Long Vĩ là một hòn đảo nhỏ của Việt Nam có diện tích khoảng 2,5 km²", như vậy tại Vịnh Bắc Bộ có bao nhiêu ngư dân sinh sống trong một diện tích đảo quá hẹp, trong khi ấy phía Trung Cộng tuyên bố có trên 30.700 hộ ngư dân người Hoa sinh cư trên đảo Bạch Long Vĩ. Sau đó Trung Cộng thấy bị hố đính chính lại chỉ có 1200 người Hoa, cho thấy Việt Cộng-Trung Cộng đều bố láo. Và chính ông Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam cho rằng "đảo Bạch Long Vĩ có diện tích 2,5 km²", theo hồ sơ của Hiệp ước Thiên Tân 1987, đo đạt thực địa của đảo Bạch Long Vĩ có diện tích 10 km², thế thì 7,5 km² của đảo, đảng Cộng sản Việt Nam đã di dời đảo lấp biển ở nơi nào?
Nguyễn Duy Niên còn tuyên bố: "Trung tâm đảo Bạch Long Vĩ cách khoảng 110 km bờ biển của Việt Nam, bờ biển đảo Hải Nam của Trung Quốc cách khoảng 130 km", thay vì ông Niên phải tham khảo hồ sơ Pháp-Thanh để nắm con số thực tế phía Việt Nam cách 91 km và phía Trung Quốc cách 135 km.
Vịnh Bắc Bộ có giá trị và địa thế chiến lược an ninh hàng đầu phòng thủ phía Bắc của Quốc gia. Những lời tuyên bố của Nguyễn Duy Niên có nhiều âm mưu khó hiểu, chỉ vì bán nước dùng mọi thủ đoạn lừa bịp nhân dân. Nếu công bố đúng sự thật, ắt nhiên không thể tránh né điểm yếu hồ sơ của Hồ Chí Minh đã bán cho bành trướng 35% Vịnh Bắc Bộ, xóa mất đường ranh giới biển của Hiệp ước Pháp-Thanh (Thiên Tân 1887). Chính kẻ "Bác" mở cửa cho phép bành trướng nuôi hy vọng và ý niệm to lớn ngó thẳng vào tiềm lực kinh tế Việt Nam, đã bành trướng không thể ngồi yên trước một miếng mồi Vịnh Bắc Bộ quá hấp dẫn, không may cho Việt Nam đúng thời điểm kẻ trong, người ngoài, thân thuộc một nhà với bành trướng quạt gió nổi cơn phong ba. Việt Nam bị hệ lụy Cộng sản đẩy đưa cả dân tộc vào đường hoạn nạn, tránh không khỏi nhưng lòng dân có ý chí giữ nước hay không đó là điều quan trọng, nếu người dân bất cần đất nước Việt ắt nhiên mai một, như các nước cựu chư hầu biến mất trong lịch sử Trung Quốc.
Đảng Cộng sản có bán nước hay không chỉ cần thảo luận lời tuyên bố của Nguyễn Duy Niên, mọi sự kiện sẽ được giải mã dưới tấm màn âm mưu phản quốc. Ví dụ: Hai từ "thỏa thuận" thay vì "hiệp ước", và "thương lượng" thay vì "đàm phán". Lý do nào giữa hai quốc gia lại manh nha dùng từ "thỏa thuận" khi ấy trong văn kiện có tính quốc gia, theo ý nghĩa thuận chịu có tính cách gia đình và bạn bè trao đổi, mua bán một vật nào đó, thỏa thuận phân chia sản phẩm tùy theo giá trị của nó, cho nên hai từ "Hiệp ước" có tính chính đáng của quốc tế bị loại trừ không có chỗ đứng trong những văn kiện bán Vịnh Bắc Bộ. Và hai từ "đàm phán" đảng "Bác" cho thay vào đó hai từ "thương lượng", có nghĩa khi nào cần Trung Cộng đề nghị thương lượng lại. Ngày nay, đảng vẫn phải thực hiện theo chính sách của Hồ Chí Minh đã định, tuân thủ quan hệ song phương hữu nghị truyền thống giữa hai đảng Trung Cộng-Việt Cộng. Rồi đảng sẽ tiếp tục thương lượng nhượng lãnh hải vùng Vịnh Bắc Bộ và Biển Đông không thông qua 3 thủ tục "Chủ quyền và quyền tài phán Vịnh Bắc Bộ", "Tố tụng giải quyết tranh chấp" và thủ tục công nhận pháp lý "Công ước Luật biển năm 1982 của Liên Hợp Quốc".
Những hóc búa trên của Chủ nghĩa Xã hội Việt Cộng làm tai hại đến mất nước, trong những văn kiện từ xưa đến nay đã ký với Trung Cộng không bao giờ đề cập đến pháp lý của Công ước Luật biển năm 1982 của Liên Hợp Quốc. Tuy nhiên khi có dịp đảng "Bác" lập tức tuyên bố vung vãi từ ngữ nào cũng vỗ lớn tiếng, dân quyền, nhân quyền, tự do báo chí, tự do thành lập hội, tự do tín ngưỡng, bảo vệ tư hữu của nhân dân v.v... những người quốc tế vừa đi qua Việt Nam "cưỡi ngựa xem hoa", tưởng chừng quyền của người dân còn rộng hơn những nước dân chủ Phương Tây, thế nhưng về đêm thì sao, nó hiện ra quyền con người đen tối hơn mõm chó, hãy đọc qua lời tuyên bố của Nguyễn Duy Niên để thấy những điều đảng "Bác" thực hiện cho dân tộc này! Còn quá nhiều vấn đề lợn cợn khác mà Việt Cộng cố ý lờ vờ, gạt bỏ sự sống còn của đất nước trước sự bàng quan Vịnh Bắc Bộ! Do đó tại Bắc Kinh mỗi phút-giờ trong ngày không biết xuất hiện cái gọi "Việt Cộng" từ bao giờ trên báo chí truyền thông Trung Hoa loan truyền khắp cả nước.
Nguyễn Duy Niên đại diện cho đảng "Bác" thêm một lần chạy tội, tuyên bố: "Vì ngư dân Việt Nam thường bắt hải sản, thăm dò dầu khí làm mất ổn định quan hệ song phương, cho nên có tranh chấp ảnh hưởng xấu đến "tình đồng chí và tình anh em" giữa Việt Nam-Trung Quốc và Ta muốn mở rộng phát triển bền vững có hiệu quả không chi bằng hạn chế ngư dân Việt Nam hoạt động trong vùng Vịnh Bắc Bộ".
Cho thấy lời tuyên bố trên của Nguyễn Duy Niên, mới ngồi vào bàn đàm phán đã đưa ra dấu hiệu đầu hàng, chưa chi đảng "Bác" muốn đập nồi cơm của nhân dân, đổi lấy "quan hệ song phương". Và cho rằng "ký kết, thỏa thuận phân định Vịnh Bắc Bộ, củng cố hòa bình và ổn định trong nước của chúng tôi...". Đồng nghĩa Trung Cộng đứng ra làm bảo mẫu cho Việt Cộng.
Đảng "Bác" và bành trướng chỉ thị Nguyễn Duy Niên sử dụng quả đấm cắt vùng Vịnh Bắc Bộ dâng cho Bắc Kinh, thách thức cả dân tộc Việt Nam có hay biết điều này không? Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.
Nguyễn Duy Niên không ngần ngại tuyên bố lố lăng:
"− Theo thỏa thuận này, Việt Nam được hưởng 53,23% tổng diện tích của vịnh Bắc Bộ, Trung Quốc được hưởng 46,77%. Đó là một kết quả công bằng trong các cơ sở pháp lý và hoàn cảnh cụ thể của Vịnh Bắc Bộ....".
Nói chung, những học trò đời thứ mấy của đảng "Bác" tuy có tráo trở vẫn không bằng "Bác" bởi Vịnh Bắc Bộ mà "Bác" bán trước 35%, không cần hóa đơn, cũng đã thể hiện "Môi hở răng lạnh", nay Nguyễn Duy Niên thay mặt đảng công bố bán thêm 12,77%, nâng lên tổng số 46,77% cũng chỉ vì xem trọng "quan hệ song phương....".
"Kỷ yếu hội nghị bí mật Thành Đô 1990", mà Nguyễn Văn Linh đã ký kết có 5 qui ước Việt Cộng phải tuân thủ thực hiện:
1 - Xác định chủ quyền vùng đảo Bạch Long Vĩ và Vịnh Bắc Bộ.
2 - Laoshan thuộc về lãnh thổ Trung Cộng.
3 - Xác định chủ quyền biên giới Trung-Việt từ đất liền đến Biển Đông.
4 - Áp đặt luật pháp Trung Quốc vào Việt Nam.
5 - Kế hoạch đưa quân đội Trung Quốc vào Việt Nam.
Từ đó Việt Cộng tiến hành mạnh mẽ, chuyển nhượng toàn bộ vùng đảo Bạch Long Vĩ và Vịnh Bắc Bộ, lườn đáy bành trướng là nơi tiếp nhận tài sản Việt Cộng gửi vào. Cộng sản vững mạnh rộng quyền độc trị có súng đạn, nhà tù, công an mọi hành động không cần thông báo trước cho nhân dân đặng biết, hiện tại đã bán nước mở rộng cửa gọi mời bành trướng tràn vào quản lý lãnh hải Vịnh Bắc Bộ và Biển Đông, người dân cả nước nào có ai hay! bởi mọi chi tiết bán nước nhà nước công bố, đặc biệt tại bờ biển Vịnh Bắc Bộ, cho đến nay người dân Việt Nam nếu có biết cũng lờ mờ khó hiểu, và mấy ai đã được đọc 2 hiệp ước sơ khởi "Thỏa thuận phân định mở rộng Vịnh Bắc Bộ" và "Thỏa thuận hợp tác nghề đánh cá". Trong khi đó nhân dân Trung Quốc từ trẻ đến già đầu phải đọc thuộc lòng những thỏa thuận trên.
Dữ liệu hình: Lục địa đảo Bạch Long Vĩ (Bailongwei) một phần của Biển Đông, diện tích 9,96 km², núi rừng rậm, bao phủ một quần thể đảo san hô. Nằm ở góc phía tây Bắc Vịnh vị trí trung tâm, nằm giữa bờ biển Hải Phòng Việt Nam cách 91km, cách đảo Hải Nam 135 km. Năm 1950, trên bản đồ hàng hải Trung Quốc không có đảo Bạch Long Vĩ. Năm 1957, Chính phủ Hồ Chí Minh bán vùng đảo này cho Trung Quốc giá trị 10.000 năm. (1957 niên, Hồ Chí Minh thị chánh phủ tương cai đảo mại cấp trung quốc vạn niên). Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.
Đặc biệt trong nội dung của "Thỏa thuận hợp tác nghề cá", Việt Cộng cho Trung Cộng thuê bờ biển của Việt Nam, lần đầu ký giá trị 12 năm, đến khi hết hạn định, tự động đáo hạn lại 3 năm.....". Trên thế giới chưa có quốc gia nào áp dụng pháp lý ngu ngơ, cho quốc gia khác thuê bờ biển và ký hiệp ước tự động đáo hạn theo luật Việt Cộng 3 năm!
Một điều rất quan trọng khác chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải của đất nước chưa được công bố trước quốc tế và "Công ước về luật biển 1982 của Liên Hợp Quốc", như các quốc gia khác đã thực hiện. Việt Cộng không mặn mà với sức cạnh tranh chủ quyền, bởi còn tiếp tục bán từng phần bờ biển cho Trung Cộng.
Trong bài phát biểu của Nguyễn Duy Niên chỉ có mỗi câu kết luận, đọc qua rất thu phục lòng dân: "Đồng thời, đảng ta cần phải tuyên truyền, loan tải, phổ biến sâu rộng về nội dung "Thỏa thuận phân định Vịnh Bắc Bộ" và "Thỏa thuận hợp tác nghề cá", đến cho các tầng lớp xã hội, từng người dân, từng cán bộ trong ngoài đất nước cùng hiểu biết, đặc biệt những địa phương giao tiếp ven biển phía Bắc và vùng Vịnh Bắc Bộ, thực hiện đúng nghĩa vụ công dân tốt".
Thế nhưng vì lý do gì không phổ biến những chuyện quốc gia đại sự để nhân dân cùng chia sẻ với nhà nước, như những sự kiện của "Bác" nhượng đất, nhượng biển cho Trung Quốc đã 57 năm (1957-2014), những cuộc chiến tranh biên giới Việt Nam-Trung Quốc đã trôi qua 35 năm (1979-2014), Việt Nam-Trung Quốc Hội nghị bí mật tại Thành Đô 24 năm (1990-2014), Việt Nam-Trung Quốc phân định lãnh hải, lãnh thổ 14 năm (2000-2014), gần đây nhất ngày 10 tháng 11 năm 2013, Trương Tấn Sang bí mật ký 10 hiệp ước khai thác toàn diện. Tất cả sự kiện trên cho đến nay người dân vẫn không hay biết đảng hoạt động kết quả là bao ?
Người dân trông chờ thể hiện tình yêu nước đã đến lúc quá truyệt vọng, nhân dân lo ngại tình hình đất nước buộc lòng phải lên tiếng "Chúng Tôi Muốn Biết", và tiếp theo 61 đảng viên cao cấp, ký thư ngỏ vào ngày 2 tháng 9 năm 2014, đề nghị đảng cho biết về "Kỷ yếu Thành Đô 1990" và họ đưa ra 5 điểm chính đáng cần biết, cho đến nay nhà nước vẫn không trả lời. Bây giờ biết tin ai?
Nhớ lại trước năm 1975, ở miền Nam Việt Nam có cố tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu phát biểu: "Đừng tin những gì cộng sản nói, hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm".
___________________________________________
Chú thích:
[1] (Bắc Bộ loan hoa giới hiệp định vi tăng gia Việt Nam hòa Trung Quốc đích tương hỗ tín nhậm hòa xúc tiến song phương đích toàn diện hợp tác quan hệ tác xuất cống hiến).
[2] (Việt Nam xã hội chủ nghĩa cộng hòa quốc hòa Trung Hoa nhân dân cộng hòa quốc quan vu lưỡng quốc tại bắc bộ loan lĩnh hải), (chuyên chúc kinh tể khu hòa đại lục giá đích hoa giới hiệp định), (dĩ hạ giản xưng vi bắc bộ loan hoa giới hiệp định) và (Bắc Bộ loan hoa giới hiệp định).
[3] (1957年,中国政府将该岛交给越南-1957 niên, trung quốc chánh phủ tương cai đảo giao cấp việt nam).
http://danlambaovn.blogspot.nl/2014/11/tien-trinh-am-phan-bi-mat-thanh-o-1990_30.html
Friday, December 5, 2014
Tiến trình đàm phán bí mật Thành Đô 1990 (Kỳ 9)
QLB
Huỳnh Tâm (Danlambao)
Huỳnh Tâm (Danlambao)
Lo ngại cho tương lai Việt Nam
Chúng ta cần biết nhiều về đối phương Bành trướng chọn lấy ngoại giao "quan hệ song phương" và "ích lợi quyền lực chung", họ quyết định dùng phương thức đàm phán cho đến năm 2020, của một giao đoạn hòa nhập trong thế kỷ 21. Hai đảng Cộng sản tiến hành nhịp độ "mịn", cùng ăn chung trên một mẫu bánh Việt Nam. Khởi đầu ăn từ Vịnh Bắc Bộ vào năm 1991 sau khi Đỗ Mười và Võ Văn Kiệt đến Bắc Kinh. Sau 9 năm đàm phán Việt Cộng ký kết mở rộng diện tích lãnh hải vùng đảo Bạch Long Vĩ cho Trung Cộng, từ đây lãnh hải của Việt Nam bị thu nhỏ lại, quyền hoạt động ngư nghiệp của người dân Việt Nam giới hạn ven bờ Vịnh Bắc Bộ. Đoạn nửa còn lại xây dựng kế hoạch áp dụng mô hình cho đàm phán biên giới đất liền, vùng đảo Hoàng Sa, Trường Sa và Biển Đông Việt Nam-Trung Quốc. Giai đoạn sau khi ký những hiệp ước trên thành công, Trung Cộng tung ra những nhóm đàm phán dưới sự chi phối của gián điệp xây dựng quốc gia, chiến tranh, chính trị, phản gián, kinh tế, và quốc phòng để nhập Việt Nam vào đại lục Trung Quốc.
Nội dung "Kỷ yếu hội nghị bí mật Thành Đô 1990" Trung Cộng đã tiến hành được đến 4%. Đất nước đã đến hồi nguy cơ, hy vọng, những người yên nước, những tổ chức chính trị có cương lĩnh sáng suốt quá trình hoạt động tình tự dân tộc "Tự do Dân chủ Đa nguyên" và những thành viên đảng Cộng sản thức tỉnh, từ bây giờ cùng hiệp lực tiến hành cuộc cách mạng thế kỷ 21.
Nếu đảng Cộng sản Việt Nam không vì lệ thuộc bành trướng hãy cùng với nhân dân xây dựng lại chế độ mới, thực sự phục vụ vì dân tộc Việt Nam để đối phó âm mưu của Trung Cộng. Nếu mãi mê làm tay sai, "tiếp nối khôi phục lại chính sách Trung Quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh", chấp nhận "quan hệ song phương hữu nghị truyền thống giữa hai Đảng, hai nước" như BCT/TW Nguyễn Văn Linh đã thề nguyện trước đảng Trung Cộng tại hội nghị bí mật Thành Đô, đã từng tuyên bố: "Chúng tôi quyết tâm sửa chữa những sai lầm của các chính sách trước đây, chưa bao giờ vô ơn Trung Cộng", thay cho lời công bố trước nhân dân hai nước từ đây Việt Nam chấp nhận nô lệ theo kế sách chiến thuật của Trung Cộng đề ra Việt Nam thi hành.
Ngày nay, nhân dân Việt Nam cần phải thấy Trung Cộng tiến hành cướp Việt Nam bằng chiến sách "mịn", âm thầm mất nước từng đoạn, chứ không phải mất nước theo phương tiện chiến tranh, mà người ta cứ ngồi chờ đến năm 2020.
Hình thành một cuộc đấu tranh cần phải tập hợp con người, tài liệu chính trị, thúc đẩy động lực, sáng tạo ngọn cờ, nguyên nhân chính đáng, vận động quần chúng, nhân lực truyền thông, thu hút dư luận và khởi điểm xuống đường v.v...từ lúc hoạt động công khai với tinh thần bất bạo động, thông báo nhân dân biết hoạt động của mình và kêu gọi người dân hướng về chủ quyền đất nước. Nếu mọi điều đó hợp với lòng dân sẽ có những hổ trợ vô biên. Những điều vừa mới nêu ra ắt quyết mọi người yêu nước đã chuẩn bị. Nhân dịp này chúng tôi có thêm một tài liệu nữa chứng minh quá rõ ràng Việt Cộng đã lấy quyết định bán nước.
Trung Cộng đã hành động, Việt Nam mất nước trong yên tĩnh
Chúng tôi thực hiện phỏng vấn đàm phán chủ quyền lãnh hải, lãnh thổ Việt Nam-Trung Quốc. Thứ trưởng Ngoại giao Vương Nghị (Wang Yi-王毅) và người đứng đầu Ủy ban đàm phán ranh giới của Việt Nam, Thứ trưởng Ngoại giao Vũ Dũng (Wuyong) đồng chấp thuận trả lời.
Việt Nam-Trung Quốc nhấn mạnh đàm phán ranh giới phân định lãnh hải, lãnh thổ. Tuy cả hai không nói ra nhượng biển Đông nhưng trên thực tế ở trong điểm then chốt Việt Cộng đã đồng ý bán một phần lãnh hải cho bành trướng, mới có định nghĩa "mở rộng diện tích" trong "Hiệp định phân định mở rộng Vịnh Bắc Bộ" và "Hiệp định hợp tác nghề cá" đồng nghĩa Việt Cộng "hợp tác toàn diện" theo suy nghĩ của hiệp định bành trướng là hòa nhập, Việt Cộng trao ngư dân Việt Nam cho tộc Hán quản lý như "Hiệp định hợp tác nghề cá" trong vùng Vịnh Bắc Bộ đã mô tả, sau khi ký hiệp định hợp tác ngư dân trong vùng Vịnh Bắc Bộ trở thành công nhân thủy sản Bành trướng, có trên 2721 ngư dân phản đối phương thức phối hợp Hán-Việt, ngư dân tự ý từ bỏ ghe-tàu lên bờ, vào đất liền sinh kế bằng những ngành nghề khác, số còn lại chỉ vì cuộc sống phải tuân luật biển phi lý của người Hán.
Hà Nội ngày 30 tháng 6 năm 2004, trong buổi ký kết công bố hiệu lực 2 hiệp ước trên. [1] Nhân dịp đánh dấu thành quả, Tân Hoa Xã vào cho biết: Người đứng đầu phái đoàn Ngoại giao Thứ trưởng Vương Nghị, cùng với Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam Vũ Dũng sẽ gặp riêng hội ý nhiều điểm quan trọng, thúc đẩy ký kết những hiệp ước khác càng sớm càng tốt.
Trong lúc này người dân Việt Nam cần phải biết những "dây mơ rễ má" của mối quan hệ thân thiện với bành trướng, nay Việt Cộng đã hoàn toàn qui phục ngoại giao theo chính sách của Hồ Chí Minh, chấp nhận "tình đồng chí và tình anh em", như thể một tín đồ quá trung thành với một bề trên có nhiền hành vi khả hoại đức tin, tự nó trở thành nô lệ đánh mất chất tính trung thực của con người, Việt Cộng cũng thế vì Trung Quốc đánh mất tính dân tộc Việt Nam và xem đồng bào như một thứ cỏ rác để phục vụ cho bành trướng.
Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị (Wang Yi-王毅)
và Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam, Vũ Dũng (Wuyong).
Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.
và Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam, Vũ Dũng (Wuyong).
Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.
Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị (Wang Yi) trả lời cuộc phỏng vấn "Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ" và "Hiệp định về hợp tác nghề cá"
Tại sao phải phân chia Vịnh Bắc Bộ của Việt Nam?
Vương Nghị cho biết:
- Vịnh Bắc Bộ có một bán đảo Bạch Long Vĩ giữa Trung Quốc và Việt Nam bao quanh bởi một diện tích khoảng 128.000 km² và có tự bao giờ trong lịch sử đã được chia. Giữa những năm 70 của thế kỷ trước, hai nước đã bắt đầu đàm phán về phân định Vịnh Bắc Bộ mở rộng. 80 năm sau, luật hàng hải mới dần dần hình thành, Trung Quốc và Việt Nam, tương ứng, thông qua "Công ước Liên hợp quốc về Luật biển" vào năm 1994 và 1996. Theo cơ chế pháp lý mới này, ngoài 12 hải lý có ven biển ở với Việt Nam, cũng có một vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa. Nhưng ở phía Bắc Vịnh Bắc Bộ của Việt Nam, biển chỉ chia sẻ khoảng 180 dặm biển ở điểm rộng nhất của nó. Nói cách khác, toàn bộ phía Bắc Vịnh Bắc Bộ nằm trong lợi ích của khu vực chồng lấn lên nhau một yêu sách, và điều này đòi hỏi hai nước thông qua đàm phán để vẽ ranh giới rõ ràng.
Với hệ thống phân vùng đặc quyền kinh tế của mỗi quốc gia để thúc đẩy tác động dần dần của các quyền đánh cá truyền thống, tại Vịnh Bắc Bộ, hai bên tranh chấp đánh cá ngày càng tăng, không chỉ gây thiệt hại đến lợi ích của ngư dân, nhưng cũng ảnh hưởng đến sự phát triển "mịn" của quan hệ song phương, khách quan và tình hình mới đòi hỏi cả hai bên để giải quyết vấn đề càng sớm càng tốt xác định ranh giới, và thành lập mới cơ chế hợp tác nghề cá.
Trung Quốc như thế nào để đánh giá các kết quả phân giới cắm mốc?
Vương Nghị đáp rằng:
- Ranh giới của các nước tại Vịnh Bắc Bộ có liên quan đến chủ quyền lãnh thổ, chính phủ Trung Quốc và các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã luôn luôn chú trọng đến các thành phần của đoàn đàm phán của cơ quan có thẩm quyền để tham gia, thông qua cẩn thận, nghiên cứu khoa học, phát triển một giải pháp thực tế. Việt Nam cũng là sự thật. Tiến hành đàm phán, đặc biệt là vào các cuộc đàm phán thực chất từ đó, dưới sự chăm sóc cá nhân và khuyến mãi của hai nhà lãnh đạo, hai bên phù hợp với các nguyên tắc đã được thừa nhận của luật pháp quốc tế, trong đó có "Công ước Liên hợp quốc về Luật biển", trong việc xem xét đầy đủ của tất cả các trường hợp trên cơ sở "mở rộng Vịnh Bắc Bộ", theo nguyên tắc công bằng, "tinh thần hiểu biết lẫn nhau, tinh thần tham vấn thân thiện", đàm phán lâu dài, phức tạp và sự kiên nhẫn, và cuối cùng đã hoàn thành công tác phân giới cắm mốc.
Hà Nội ngày 30 tháng 6 năm 2004 ký kết
"Hiệp định phân định mở rộng diện tích Vịnh Bắc Bộ".
Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.
"Hiệp định phân định mở rộng diện tích Vịnh Bắc Bộ".
Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.
"Hiệp định phân định mở rộng diện tích Vịnh Bắc Bộ", thiết lập ranh giới các vùng biển ở phía Bắc Vịnh, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, theo phía Trung Quốc hai nước trong một địa lý chính trị của Bắc Vịnh, mối quan hệ tổng thể điểm cơ bản tương đối cân bằng, hai bên đã thực hiện một vùng biển khoảng phân loại một kết quả khá công bằng, mà còn để đạt được một phân bổ hợp lý các nguồn tài nguyên trong vùng Vịnh Bắc Bộ. Đây là thứ tự của hai bên gặp gỡ theo luật mới của biển, một giải pháp công bằng để thực hành thành công của phân định biển, và cũng cho thấy hai bên là hoàn toàn có khả năng, thông minh, thông qua hiệp thương hữu nghị để giải quyết lâu dài mối quan hệ song phương chưa được giải quyết. Cách đây không lâu, Quốc hội Nhân dân của Trung Quốc và Quốc hội Việt Nam được coi phân định lại biên giới là tốt và đã được phê duyệt thỏa thuận này, cho thấy các kết quả phân giới cắm mốc được hiểu rộng rãi và được hỗ trợ bởi tất cả các thành phần của nhân dân hai nước.
Tác động của sự phân định Vịnh Bắc Bộ sử dụng tài nguyên thủy sản?
Vương Nghị cho biết:
- Vịnh Bắc Bộ là một ngư trường truyền thống của tỉnh Quảng Tây Trung Quốc, Quảng Đông và Hải Nam (khu vực) ngư dân. Phân định là có liên quan trực tiếp đến lợi ích quan trọng của việc phân bổ và sử dụng nguồn tài nguyên thủy sản của đa số ngư dân. Để kết thúc này, sự khởi đầu của cuộc đàm phán, chính phủ Trung Quốc rất coi trọng việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của ngư dân. Trung Quốc muốn làm mọi cách để cho phân biệt rõ ràng về vấn đề nghề cá và phải được giải quyết đúng đắn, xác định và thỏa thuận thủy sản phải được ký kết thỏa thuận hợp tác, trong khi chờ đợi thời điểm có hiệu lực. Phân định Vịnh Bắc Bộ cần phải đặt một đại dương mới, thiết lập sự hợp tác lâu dài trong lĩnh vực thủy sản. Chính thẩm quyền Việt Nam đã đưa ra một sự hiểu biết đầy đủ, cuối cùng hai bên đã ký một thỏa thuận phân chia ranh giới trong cùng một ngày, cùng với việc ký kết "Hiệp định hợp tác nghề cá" Vịnh Bắc Bộ. Sau 3 năm đàm phán hai bên có được hợp tác nghề cá, để phát triển các biện pháp cụ thể và thực hiện được thỏa thuận thủy sản.
Cả hai bên đều tôn trọng chủ quyền và quyền tài phán trên cơ sở phân định hai chiếc thuyền lớn có thể nhập vào khu vực đánh cá chung qua biên giới, bao gồm gần như phần lớn các khu vực đánh bắt cá có năng suất cao ở phía Bắc Vịnh Bắc Bộ (VN), thời hạn 15 năm, còn người kia (VN) ở phía Bắc, nhưng chỉ thỏa thuận đánh cá chung từ 4-5 năm, sau đó thỏa thuận chuyển tiếp, cho phép hai tàu hợp tác đánh bắt cá chung xuyên biên giới. Trong khi đó, thỏa thuận cũng rõ ràng quy định rằng các bên cùng có tinh thần lợi chung, trong vùng nghề đánh bắt cá chung, hợp tác lâu dài. Hai bên nhất trí hợp tác với nhau để phát triển bảo tồn, quản lý và sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên sinh học, các biện pháp để bảo vệ ngư dân hoạt động nghề cá bình thường. Hai bên cũng nhất trí thành lập một ủy ban chung để thực hiện hợp tác nghề cá tại Vịnh Bắc Bộ có liên quan cụ thể. Chúng tôi có thể nói rằng những thỏa thuận được bảo vệ đầy đủ quyền lợi hợp pháp của ngư dân dọc theo Vịnh, càng đánh dấu sự khởi đầu của mô hình hợp tác nghề cá mới, cũng làm cho quá trình chuyển đổi để các luật mới về chế độ lãnh hải Biển Đông. Mặc dù nghề cá Vịnh Bắc Bộ giàu tài nguyên, nhưng nó giới hạn, trong những năm qua một số lượng lớn cá có ảnh hưởng đến nguồn tài nguyên tái tạo. Ký kết hợp đồng, nhưng cũng có lợi cho việc sử dụng bền vững nguồn lợi thủy sản trong vịnh.
Việc ký kết Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ và Hiệp định hợp tác nghề cá ý nghĩa là gì?
Vương Nghị nói rằng:
- Việc ký kết Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ và Hiệp định hợp tác nghề cá là một thành tựu quan trọng trong năm 1999, sau khi ký kết hiệp ước biên giới trên đất liền giữa Trung Quốc và Việt Nam trong việc giải quyết các vấn đề lịch sử được thực hiện. Ký kết các thỏa thuận phù hợp với lợi ích chung của hai nước và nhân dân hai nước và có lợi cho việc đạt được hòa bình và ổn định lâu dài trong khu vực Vịnh Bắc Bộ, thúc đẩy phát triển lâu dài ổn định quan hệ Trung-Việt có ý nghĩa lớn.
Là một bộ phận mới của sự đóng góp Vịnh Bắc Bộ để hòa bình và ổn định khu vực. Trung Quốc với Việt Nam cùng đối diện hoạt động chung trong lãnh hải, đang phải đối mặt với các vấn đề phân định biển. Vịnh Bắc Bộ đường ranh giới giữa Trung Quốc và các nước láng giềng đầu tiên cần đàm phán phân định biên giới trên biển, nó cho thấy rằng phía Trung Quốc giải quyết vấn đề phân định ranh giới hàng hải thông qua hòa bình các cuộc đàm phán chân thành, mà còn đối với Trung Quốc và các nước láng giềng khác trong tương lai thông qua các cuộc đàm phán biên giới biển chia được những tích lũy kinh nghiệm. Điều này không chỉ giúp tăng cường tin cậy lẫn nhau giữa Trung Quốc và các nước láng giềng, mà còn có lợi cho hòa bình và ổn định trong khu vực.
Sau khi có hiệu lực của hai thỏa thuận, hai bên cũng như các công việc tiếp theo phải làm gì?
Vương Nghị cho biết:
- Trước hết, hai bên cần đồng ý và thực hiện các biện pháp quản lý hoạt động khai thác theo hệ thống mới, theo như luật pháp để bảo vệ các hoạt động bình thường của ngư dân. Thứ hai, tăng cường bộ phận hành chính và công tác vận động ngư dân địa phương, do đó chúng tôi có thể hiểu được tinh thần và nội dung chính của thỏa thuận, có ý thức duy trì và thực hiện theo thỏa thuận. Thực hiện các thoả thuận yêu cầu một giai đoạn điều chỉnh, đặc biệt là trong những ngày đầu có hiệu lực, có thể gặp một số tình huống mới và những vấn đề mới. Điều này đòi hỏi cả hai bên xuất phát từ tình hình chung của quan hệ song phương, trong một tinh thần hiểu biết và hợp tác và xử lý đúng cách. Trong ngắn hạn, hai bên sẽ có hiệu lực hai thỏa thuận như một cơ hội để đưa "tòa nhà vào một đường ranh giới mới của hòa bình", hữu nghị và quan hệ hợp tác có lợi cho nhân dân hai nước.
Phỏng vấn nhóm đàm phán cấp Chính phủ phía Việt Nam
Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam Vũ Dũng (Wuyong) trả lời:
- Kết thúc cuộc đàm phán biên giới lãnh hải Vịnh Bắc Bộ của Việt Nam. trên danh nghĩa phê chuẩn "Thỏa thuận phân định mở rộng diện tích Vịnh Bắc Bộ", "Hiệp định đặc quyền kinh tế thềm lục địa và nghề cá". Hai cơ quan ngoại giao có chức năng đối ngoại giữa Việt Cộng-Trung Cộng, trao đổi công bố chính thức hiệu lực. "Hiệp định hợp tác thủy sản tại Vịnh Bắc Bộ".
Trước đó Phó Thủ tướng Việt Nam Vũ Khoan đi đêm gặp riêng Vương Nghị (Wang Yi), Vũ Khoan bí mật tiết lộ: "Việt Nam nhất định thỏa thuận trao đổi văn kiện phê chuẩn và có hiệu lực trong hai hiệp định trên, xem đó là sự kiện quan trọng trong lịch sử quan hệ song phương, không chỉ để tạo ra một môi trường hòa bình và ổn định trong Vịnh Bắc Bộ, mà còn thúc đẩy sự phát triển của mối quan hệ láng giềng tốt và hợp tác toàn diện giữa hai nước để tạo ra các điều kiện của Việt Nam".
Vương Nghị nói rằng:
- Việc ký kết và có hiệu lực của hai thỏa thuận, do hai Chính phủ biết lãnh đạo, chăm sóc và hướng dẫn, kết quả của nỗ lực chung có lợi cho hòa bình và ổn định ở biên giới với các khu vực Vịnh Bắc Bộ giúp hai bên thúc đẩy phát triển và quan hệ song phương. Vương Nghị nói tiếp:
- Cả hai bên hợp tác trong sự tin tưởng tốt, cùng nhau thực hiện hai thỏa thuận, và xử lý đúng đắn tình hình mới xuất hiện và sớm đưa vào hiệu lực của Hiệp định, những vấn đề mới".
Trong khi đàm phán Việt Nam có ý định thể hiện tinh thần phục tùng đã ký vào một lúc các văn bản hiệp ước "Hiệp định phân định mở rộng diện tích Vịnh Bắc Bộ" và "Hiệp định hợp tác thủy sản Vịnh Bắc Bộ giữa Cộng hòa nhân dân Trung Hoa-Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam", Hội đồng Nhà nước Trung Quốc và chính phủ Việt Nam đã phê chuẩn các hiệp định, đồng nhất trí công bố hiệu lực hai hiệp định trên, vào ngày 30 tháng 6 năm 2004.
Phân giới cắm mốc biên giới Trung-Việt trong Vịnh Bắc Bộ
Với ranh giới pháp lý của Vịnh Bắc và phân định các vấn đề thủy sản.
Đại diện hai nhà nước chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa,
Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Đồng ký kết Hiệp định về ngày 25 tháng 12 năm 2000
tại Bắc Kinh một bản gồm cả 2 tiếng Hoa và tiếng Việt,
cả hai văn bản giá trị như nhau. Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.
Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Đồng ký kết Hiệp định về ngày 25 tháng 12 năm 2000
tại Bắc Kinh một bản gồm cả 2 tiếng Hoa và tiếng Việt,
cả hai văn bản giá trị như nhau. Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.
Hiệp định hợp tác nghề cá Vịnh Bắc Bộ giữa 2 Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Duy trì và phát triển quan hệ láng giềng truyền thống tốt giữa hai chế độ, sau đây 2 bên đã ký kết sử dụng và bảo tồn bền vững các vùng biển phía Bắc Vịnh Bắc Bộ, "Hiệp định tài nguyên sinh vật biển" tăng cường "hợp tác song phương" trong thủy Vịnh Bắc Bộ, Trung Quốc cầm nhầm luật quốc tế, không theo qui định có liên quan "Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển ngày 10 tháng 12 năm 1982 ". Trung Cộng tự cho mình có quyền mở rộng diện tích khai thác Vùng đặc quyền kinh tế, phía Việt Cộng chấp nhận thỏa thuận vô thời hạn sử dụng (6 nguyên tắt) 1 - Phân định Hiệp định Vịnh Bắc Bộ, 2 - Thông qua tham vấn thân thiện, 3 - Tôn trọng chủ quyền trong vùng Vịnh Bắc Bộ, 4 - Quyền tài phán quốc gia, 5 - Trên cơ sở bình đẳng và cùng có lợi, 6 - Đã thoả thuận theo hiệp ước:
Phần 1 tổng thể hiệp ước
Điều khoản 1
Một phần của các vùng biển của Hiệp định này áp dụng đối với phần phía Bắc của các nước vùng Vịnh và vùng đặc quyền kinh tế của họ tiếp giáp với lãnh hải (sau đây gọi là "vùng nước Hiệp định").
Điều khoản 2
Các Bên ký kết sẽ tôn trọng chủ quyền của nhau, quyền chủ quyền và quyền tài phán trên cơ sở hợp tác trong thỏa thuận thủy sản vùng biển. Điều này không ảnh hưởng đến các quyền khác của hợp tác nghề cá giữa hai quốc gia và vùng lãnh thổ tương ứng của họ trong vùng đặc quyền kinh tế thích ứng từng phần.
Phần 2 của đánh cá chung
Điều khoản 3
Điều 1 Các bên đồng ý về phía Bắc của Vịnh Bắc Bộ niêm phong lãnh hải, phía Nam 20 độ vĩ bắc, từ ranh giới phía Bắc thỏa thuận phân định ranh giới xác định Vịnh (sau đây gọi là "Dòng") mỗi 30,5 hải lý vùng đặc quyền kinh tế của hai nước thiết lập một kế hoạch phổ biến khu vực đánh bắt cá.
Điều 2 Phạm vi cụ thể của vùng trong Vịnh Bắc Bộ, lần lượt đánh bắt cá theo điểm nối với nhau bằng một đường thẳng, tỏa ra những điểm bao quanh bởi những vùng biển đã ký kết sau đây:
1 - vĩ độ 17 độ 23 phút 38 giây kinh độ đông 107 độ 34 phút 43 giây của các điểm
2 - vĩ độ 18 độ 09 phút 20 giây kinh độ đông 108 độ 20 phút 18 giây của các điểm
3 - vĩ độ 18 độ 44 phút 25 giây kinh độ đông 107 độ 41 phút 51 giây của các điểm
4 - vĩ độ 19 độ 08 phút 09 giây kinh độ đông 107 độ 41 phút 51 giây của các điểm
5 - vĩ độ 19 độ 43 phút 00 giây kinh độ đông 108 độ 20 phút 30 giây của các điểm
6 - vĩ độ 20 độ 00 phút 00 giây kinh độ đông 108 độ 42 phút 32 giây của các điểm
7 - vĩ độ 20 độ 00 phút 00 giây kinh độ đông 107 độ 57 phút 42 giây của các điểm
8 - vĩ độ 19 độ 52 phút 34 giây kinh độ đông 107 độ 57 phút 42 giây của các điểm
9 - vĩ độ 19 độ 52 phút 34 giây kinh độ đông 107 độ 29 phút 00 giây của các điểm
10 - vĩ độ Bắc và 20 độ 00 phút 00 giây kinh độ đông 107 độ 29 phút 00 giây của các điểm
11 - vĩ độ Bắc và 20 độ 00 phút 00 giây kinh độ đông 107 độ 07 phút 41 giây của các điểm
12 - vĩ độ Bắc và 19 độ 33 phút 07 giây kinh độ đông 106 độ 37 phút 17 giây của các điểm
13 - vĩ độ 18 độ 40 phút 00 giây kinh độ đông 106 độ 37 phút 17 giây của các điểm
14 - vĩ độ 18 độ 18 phút 58 giây kinh độ đông 106 độ 53 phút 08 giây của các điểm
15 - vĩ độ Bắc và 18 độ 00 phút 00 giây kinh độ đông 107 độ 01 phút 55 giây của các điểm
16 - vĩ độ Bắc và 17 độ 23 phút 38 giây kinh độ đông 107 độ 34 phút 43 giây của các điểm
Trung Quốc tung hoành trong vùng Vịnh Bắc Bộ,
lần lượt đánh bắt cá theo điểm nối với nhau bằng một đường thẳng,
tỏa ra những điểm bao quanh bởi những vùng biển
đã ký xác định. Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.
lần lượt đánh bắt cá theo điểm nối với nhau bằng một đường thẳng,
tỏa ra những điểm bao quanh bởi những vùng biển
đã ký xác định. Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.
Điều khoản 4
Bên ký kết phù hợp với tinh thần cùng có lợi, vùng đánh cá chung trong hợp tác nghề cá lâu dài.
Điều khoản 5
Bên ký kết theo đánh cá chung của điều kiện môi trường tự nhiên, đặc điểm của các nguồn tài nguyên sinh học, phát triển bền vững và nhu cầu bảo vệ môi trường và tác động của các hoạt động đánh bắt cá đối với các bên để cùng nhau phát triển khu vực đánh cá chung của việc bảo tồn các nguồn tài nguyên sinh học, quản lý và các biện pháp sử dụng bền vững.
Điều khoản 6
Ký kết các bên phải tôn trọng nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi, dựa vào nguồn lợi thủy sản chung thường xuyên trên cơ sở các kết quả nghiên cứu xác định trong số lượng có thể tác động đối với các bên và hoạt động đánh bắt cá, và sự cần thiết cho sự phát triển bền vững, phù hợp với Hiệp định này theo Điều XIII Ủy ban Liên hợp nghề cá Vịnh Bắc Bộ được thành lập theo quyết định số lượng tàu thuyền đánh cá mỗi năm các bên trong khu vực đánh cá chung.
Điều khoản 7
Điều 1 - Đối với các bên trong những tàu đánh cá chung tham gia vào hoạt động đánh bắt cá trong hệ thống phải có giấy phép đánh bắt cá thực tế của chính mình. Giấy phép đánh cá phải phù hợp với số lượng của Ủy ban Hỗn Thủy sản Vịnh Bắc Bộ xác định rằng năm cấp tàu cá và tên tàu đánh cá được cấp phép thông báo cho bên kia ký kết biết. Các bên ký kết hợp đồng có nghĩa vụ để nhập ngư dân đánh cá chung tham gia vào các hoạt động đánh bắt cá trong giáo dục và đào tạo.
Điều 2 - Những người bước vào tàu đánh cá chung tham gia vào các hoạt động đánh bắt cá có thẩm quyền của cơ quan chính phủ của họ phải nộp một ứng dụng, và sau khi nhận được giấy phép đánh cá trước khi vào đánh cá chung tham gia vào các hoạt động đánh bắt cá. Bên ký kết để vào tàu đánh cá chung tham gia vào các hoạt động đánh bắt cá cần phải được xác định phù hợp với quy định của Ủy ban hỗn hợp thủy sản Vịnh Bắc Bộ.
Điều khoản 8
Bên ký kết tham gia các hoạt động đánh bắt cá và tàu cá theo Ủy ban Liên hợp nghề cá Vịnh Bắc Bộ về bảo tồn và quản lý nguồn lợi thủy sản trong việc thực hiện các quy định của hoạt động khai thác, phù hợp với yêu cầu của Ủy ban hỗn hợp thủy sản Vịnh Bắc Bộ vào nhật ký đánh bắt cá và đúng điều chung chuyển cho các cơ quan chính phủ quốc gia trong thời gian quy định cho phép.
Điều khoản 9
Điều 1 - Theo Ủy ban chung về khu vực đánh bắt thuỷ sản Vịnh Bắc Bộ phải phù hợp với đặc điểm chung và tuân thủ của hai nước trên cơ sở bảo tồn và quản lý nguồn lợi thủy sản về việc xây dựng quy định pháp luật trong nước, các bên có thẩm quyền phổ biến điều các bên ký kết cho các công dân và cả giám sát, thanh tra.
Điều 2 - Các Bên ký kết có thẩm quyền và tàu thuyền đánh bắt cá trong khu vực của các vùng biển chung trong phạm vi quy định của Uỷ ban Hỗn hợp nghề cá Vịnh Bắc Bộ, được hưởng các quy định của Ủy ban hỗn hợp thủy sản Vịnh Bắc Bộ, để các hành vi vi phạm được xử lý và trách nhiệm bằng cách Ủy ban Hỗn hợp nghề cá Vịnh Bắc Bộ thống nhất đối phó với tình hình và kết quả kịp thời thông báo cho Bên kia. Bắt giữ tàu cá và thuyền viên, khi được phát hiện kịp thời.
Điều 3 - Nếu cần thiết, cơ quan hợp đồng có thể ủy quyền cho các bên hợp tác với nhau để Uỷ ban Hỗn hợp về bảo tồn và quản lý nguồn lợi thủy sản cung cấp cho chế biến giám sát chung và kiểm tra một vùng đánh cá chung cho các hành vi vi phạm ngư trường Vịnh Bắc Bộ.
Điều 4 - Các bên có quyền pháp luật trong nước của mình mà không có một giấy phép để nhập các vùng biển đánh bắt cá chung trong lĩnh vực phụ của mình, mặc dù các hoạt động đánh bắt cá giấy phép đủ điều kiện, thuyền đánh cá chung vào các hoạt động thủy sản bên ngoài không được tham gia vào các hoạt động trừng phạt.
Điều 5 - Các bên ký kết sẽ tạo điều kiện cho việc có được một giấy phép để các tàu thuyền đánh cá chung của các Bên ký kết khác. Lạm dụng chức quyền, không được ủy quyền cho các bên để cản trở các Bên ký kết khác để có được giấy phép cho các công dân và các tàu đánh bắt cá trong vùng đánh cá chung trong hoạt động nghề cá bình thường. Bên ký kết nhận thấy các cơ quan Đảng ký kết kia có thẩm quyền các biện pháp quản lý nếu không phù hợp với Ủy ban hỗn hợp thủy sản đồng Vịnh Bắc Bộ sẽ thành lập cơ quan hành pháp, quyền yêu cầu một lời giải thích của các nhà tài trợ, và nếu cần thiết, có thể được trình lên Ủy ban hỗn hợp về nghề cá Vịnh Bắc Bộ được thảo luận và giải quyết .
Điều khoản 10
Bên ký kết trong khuôn khổ khu vực đánh cá chung kích thước vùng biển của mình, bạn có thể dùng bất cứ hình thức hợp tác quốc tế hoặc liên doanh. Tất cả các giấy phép đủ điều kiện trong khu vực hợp tác nghề cá thông thường hoặc liên doanh tàu cá hoạt động đánh bắt cá phải tuân thủ vào việc bảo tồn và quản lý nguồn lợi thủy sản tại Ủy ban hỗn Thủy sản Vịnh Bắc Bộ thành lập do việc đình chỉ giấy phép bên ký phù hợp với các quy định của Vịnh Bắc Bộ mở rộng Ủy ban hỗn hợp thủy sản được xác định, trong giấy phép đánh cá chung do các bên ký kết và bên tham gia các hoạt động đánh bắt cá trong vùng biển.
Trung Cộng vẽ bản đồ độc quyền đánh bắt cá trong vùng Vịnh Bắc Bộ.
Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.
Tài liệu ảnh lưu: Huỳnh Tâm.
Phần 3 của các thỏa thuận chuyển tiếp
Điều khoản 11
Điều 1 - Các bên tham gia thch ứng với diện tích phổ biến phía bắc (vĩ độ 20 độ kể từ khi bắt đầu) các hoạt động đánh bắt cá hiện có trong vùng đặc quyền kinh tế của bên ký kết khác để làm cho thỏa thuận chuyển tiếp. Kể từ ngày có hiệu lực của Hiệp định này, các thỏa thuận chuyển tiếp thực hiện. Bên ký kết sẽ có những biện pháp để giảm dần các hoạt động đánh bắt cá. Thỏa thuận chuyển tiếp từ thời điểm có hiệu lực của Hiệp định này được ký kết trong vòng bốn năm.
Điều 2 - Trên vùng biển trong phạm vi của thỏa thuận chuyển tiếp và thỏa thuận chuyển tiếp được xây dựng bởi các Bên ký kết sẽ được cung cấp các hình thức của giao thức bổ sung, bổ sung Nghị định thư phần không tách rời của Hiệp định này.
Điều 3 - Sau khi kết thúc các thỏa thuận chuyển tiếp, các Bên ký kết sẽ được ưu tiên trong cùng điều kiện cho phép các bên khác trong vùng đặc quyền kinh tế được vào vùng tranh chấp thủy sản.
Phần 4 tàu thuyền đánh cá nhỏ đệm trong vùng.
Điều khoản 12
Điều 1 - Để tránh một chiếc thuyền đánh cá nhỏ đi lạc, các bên ký lãnh hải vùng biển tranh chấp, các bên ranh giới rộng về phía nam dọc theo phần liền kề 10 hải lý từ đường biên của điểm ranh giới đầu tiên giữa hai nước kể từ lãnh hải, ra khỏi ranh giới phạm vi tương ứng của 3 hải lý việc thành lập các mạch máu nhỏ trong bộ đệm, phạm vi cụ thể của các điểm sau đây lần lượt được giới hạn bởi các đoạn thẳng nối các vùng nước:
1, vĩ độ 21 độ 28 phút 12,5 giây, kinh độ 108 độ 06 phút 04.3 giây của điểm
2, vĩ độ 21 độ 25 phút 40,7 giây, kinh độ 108 độ 02 phút 46,1 giây của điểm
3, vĩ độ 21 độ 17 phút 52,1 giây, kinh độ 108 độ 04 phút 30,3 giây của điểm
4, vĩ độ 21 độ 18 phút 29,0 giây, kinh độ 108 độ 07 phút 39,0 giây của điểm
5, vĩ độ 21 độ 19 phút 05.7 giây, kinh độ 108 độ 10 phút 47,8 giây của điểm
6, vĩ độ 21 độ 25 phút 41,7 giây, kinh độ 108 độ 09 phút 20,0 giây của điểm
7, vĩ độ 21 độ 28 phút 12,5 giây, kinh độ 108 độ 06 phút 04.3 giây của điểm
Điều 2 - Các bên ký kết hợp đồng thông báo tàu đánh cá nhỏ được tìm thấy ở vùng biển vùng đệm với hoạt động đánh bắt cá, có thể được cảnh báo và các biện pháp cần thiết để làm cho nó rời khỏi vùng biển, nhưng nó phải được kiềm chế: không bị giam giữ, không bị bắt, không trừng phạt hoặc sử dụng vũ lực. Nếu một hoạt động nghề cá liên quan đến tranh chấp xảy ra, nên được báo cáo Uỷ ban Hỗn hợp nghề cá Vịnh Bắc Bộ mở rộng để được giải quyết, như tranh chấp liên quan đến hoạt động khai thác diễn ra bên ngoài, được phép của cơ quan chức năng có liên quan của hai nước sẽ được giải quyết theo quy định của pháp luật trong nước.
Phần 5 Ủy ban Liên hợp nghề cá Vịnh Bắc Bộ.
Điều khoản 13
Điều 1 - Để thực hiện Hiệp định này, các bên quyết định thành lập "Uỷ ban Hỗn hợp nghề cá Vịnh Bắc Bộ" (sau đây gọi tắt là "COFI"). COFI do hai chính phủ chỉ định đại diện và một số thành viên.
Điều 2 - COFI sẽ làm cho các quy định cụ thể đối với cơ chế hoạt động của họ.
Điều 3 - trách nhiệm COFI cụ thể như sau:
(A) việc bảo tồn nguồn lợi thủy sản trong vùng nước đàm phán các hiệp định liên quan đến các vấn đề và sử dụng bền vững, và đề nghị với Chính phủ hai nước;
(B) đàm phán các hiệp định song phương về các vấn đề liên quan đến hợp tác nghề cá nước, và đề nghị với Chính phủ hai nước;
(C) Theo Điều V của Hiệp định này, việc xây dựng bảo tồn và quản lý các quy định thủy sản và thực hiện nguồn đánh cá chung;
(D) Theo Điều VI của Hiệp định này, các bên tham gia vào mỗi năm để xác định số lượng cá thông thường của tàu cá;
(E) tư vấn và quyết định về các vấn đề khác liên quan đến các khu vực đánh cá chung;
(F) thực hiện chức năng của mình theo thỏa thuận chuyển tiếp Nghị định thư bổ sung;
(G) giải quyết các bộ đệm xảy ra trong tranh chấp đánh cá nhỏ liên quan đến hoạt động thuỷ sản;
(H) trong phạm vi chức năng của mình để giải quyết tranh chấp đánh cá và hướng dẫn tai nạn hàng hải;
(I) để đánh giá việc thực hiện Hiệp định này, hai chính phủ phải báo cáo;
(J) trong sự tôn trọng của Hiệp định, bổ sung các phụ kiện và sửa đổi Hiệp định Nghị định thư sẽ kiến nghị với Chính phủ hai nước;
(K) các vấn đề khác của các bên cùng quan tâm để thương lượng.
Điều 4 - Tất cả các khuyến nghị và quyết định phải chịu sự đồng ý của COFI thay mặt cho các Bên ký kết.
Điều 5 - Họp COFI tổ chức một lần hoặc hai lần một năm, luân phiên tại hai nước. Khi cần thiết, các bên đồng ý tổ chức các cuộc họp đột xuất.
Phần 6 Các quy định khác.
Điều XIV
Để đảm bảo an toàn hàng hải, duy trì trật tự và an ninh tại biển đánh cá, và một thỏa thuận xử lý nhanh chóng và kịp thời vùng biển tai nạn hàng hải, các bên lưu ý với các công dân của họ và hướng dẫn tầu cá, giáo dục pháp luật và các biện pháp cần thiết khác.
Điều XV
Điều 1 - Khi một bên ký kết và đánh cá ở phía biển của một vụ đắm tàu, hoặc trường hợp khẩn cấp khác cần sự giúp đỡ, thì bên kia có nghĩa vụ giải cứu và bảo vệ tình hình một cách nhanh chóng thông báo cho cơ quan chức năng của các Bên ký kết.
Điều 2 - Công dân Bên ký kết và đánh cá do thời tiết khắc nghiệt hoặc trường hợp khẩn cấp khác yêu cầu sơ tán, theo các quy định của Hiệp định này, phụ kiện và COFI, được liên lạc với các Bên ký kết khác để tị nạn bên kia. Các công dân và cả cho các đối tượng của pháp luật có liên quan và các quy định của Bên ký kết kia, và có thể ký hợp đồng với ban quản lý bên kia.
Điều XVI
Các bên ký kết để đảm bảo quyền của người dân đánh cá thông qua và điều hướng phương tiện tàu cá theo quy định của các Bên ký kết khác "UNCLOS" của 10 tháng 12 năm 1982.
Điều XVII
Điều 1 - Các bên sẽ hợp tác trong các thỏa thuận về nghề cá vùng biển nghiên cứu khoa học và bảo tồn các nguồn hải sản.
Điều 2 - các bên có thể tiến hành hợp tác nghiên cứu thỏa thuận đánh cá quốc tế ở khía cạnh riêng của một bên.
Phần VII Điều khoản cuối cùng.
Điều XVIII
Mọi tranh chấp về việc giải thích hoặc áp dụng Hiệp định này, phát sinh giữa các bên được giải quyết thông qua hiệp thương hữu nghị.
Điều XIX
Các phụ lục của Hiệp định và Nghị định thư bổ sung Hiệp định để hình thành một phần không thể tách rời của Hiệp định này.
Điều XX
Sau khi tham khảo ý kiến, các Bên ký kết Hiệp định có thể, để Hiệp định và Nghị định thư bổ sung Hiệp định sửa đổi.
Điều khoản 21
Tọa độ đánh cá chung Hiệp định và Điều III, khoản 2 của Điều XII của Hiệp định đánh cá nhỏ tọa độ địa lý đệm từ đoạn đầu tiên được thỏa thuận phân định Vịnh Bắc Bộ, bản vẽ đầy đủ của Vịnh Bắc Bộ và số lượng bản đồ cảng Bắc Lôn chuyên đề.
Điều 22
Điều 1 - Hiệp định này sau khi các Bên ký kết thực hiện đầy đủ các thủ tục pháp lý trong nước tương ứng của họ, kể từ ngày trao đổi công hàm giữa Chính phủ hai nước đã đồng ý để có hiệu lực.
Điều 1 - Thỏa thuận này có giá trị trong hai năm, sau đó sẽ tự động gia hạn ba năm. Sau khi hết thời hạn kéo dài, tiếp tục hợp tác thoả thuận của các bên ký kết hợp đồng thông qua thương lượng.
Hiệp định về ngày 25 tháng 12 năm 2000 tại Bắc Kinh đã ký một bản sao trong đó có cả tiếng Hoa và tiếng Việt, cả hai văn bản giá trị như nhau.
Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Đại diện hai nhà nước đồng ký kết
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp Trung Quốc
Trần Diệu Bang (Chen Diệu Bang)
Bộ trưởng Bộ Thuỷ sản Việt Nam
Tạ Quang Ngọc (Xie Guangyu)
Đính kèm File:
Quy định cho sơ tán khẩn cấp
Đối với việc thực hiện các quy định của Hiệp định này, đoạn thứ hai của Điều XV:
Điều 1 - Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được liên lạc chỉ định cho Biển Đông Thủy sản, Bộ Nông nghiệp và giám sát ngư chánh ngư cảng. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được liên lạc cho các Sở Thuỷ sản Dịch vụ Bảo tồn nghề cá.
Điều 2 - Việc sơ tán khẩn cấp phương tiện liên lạc của các Bên ký kết thông báo cho nhau về các tập đoàn ngư nghiệp (COFI).
Điều 3 - các nơi tạm trú liên lạc khẩn cấp bao gồm: tên, ký cuộc gọi, khi vị trí của tàu (vĩ độ, kinh độ), cảng đăng ký, tổng trọng tải, chiều dài, tên đội trưởng, số lượng thuyền viên, căn cứ tị nạn, yêu cầu điểm đến tị nạn, thời gian dự kiến đến và thông tin liên lạc.
Bảo vệ đất nước hay chấp nhận sự hao mòn và kiệt lực trước năm 2020 ?
Tranh chấp đánh bắt cá giữa Trung Cộng và Việt Cộng là một tranh chấp quan trọng nhất tại Vịnh Bắc Bộ, Trung Cộng buộc Việt Cộng phải nhượng mở rộng diện tích biển cho phía Trung Cộng, ngoài việc phân định ranh giới, sắp xếp lại quyền đánh bắt cá của ngư nghiệp Trung Cộng, đối với Trung Cộng lãnh hải là một phần quan trọng đàm phán biên giới miền Bắc Vịnh của Việt Nam. Đưa đến phân định ranh giới giữa hai nước và cách thức giải quyết các vấn đề ngư nghiệp dài hạn lợi ích cho Trung Cộng, cuối cùng Việt Nam ký kết thỏa hiệp phi lý nhất trong lịch sử nhân loại, như "Hiệp định hợp tác nghề cá Vịnh Bắc Bộ" và "Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ". Sau khi có hiệu lực các hiệp ước, Trung Cộng tạo ra điều kiện phát triển theo ý riêng của "Hiệp định hợp tác nghề cá".
Việc ký kết các thỏa thuận, vì lợi ích hơn là ổn định biên giới giữa Trung Quốc và Việt Nam. Trung Cộng không ngại chiếm lấy khu vực Vịnh Bắc Bộ. Chữ ký chưa ráo mực Trung Cộng di chuyển hơn 6.000 tàu thuyền đánh cá tiến vào phía Tây vùng biển Vịnh Bắc Bộ, và bây giờ họ đã cướp luôn phần phía Đông của vùng biển Vịnh Bắc Bộ.
Vấn đề phân định ranh giới giữa Trung Quốc và Việt Nam, bao gồm cả đất liền, Vịnh Bắc Bộ, Biển Đông, Hoàng Sa và Trường Sa. Trung Quốc chủ động thành hình 4 lịch trình âm mưu "mịn":
1 - Từ ngày 30 tháng 12 năm 1999. Việt Nam đàm phán biên giới đất liền kéo dài trong 22 năm.
2 - Đầu năm 2003, Việt Nam ký kết "Hiệp ước biên giới lãnh thổ Trung-Việt". Hơn một nửa trong số các quá trình phân giới cắm mốc đã được dựng lên.
3 - Cuối năm 2003, xác định hai bên xây dựng đặt cột mốc nửa còn lại của biên giới.
4 - Năm 2020 hoàn tất đàm phám và ký kết hiệp định chư hầu.
Cho đến nay, các vùng lãnh thổ và lãnh hải có tranh chấp quan trọng nhất tại Biển Đông, các chuyên gia Trung Cộng-Việt Cộng trên biển đã thương lượng ngầm (bán). Vấn đề tranh chấp quần đảo Trường Sa chỉ còn lại hình thức. Hiện nay tư vấn hàng hải thường đặt ra những câu hỏi "phân định lãnh hải phía Việt Nam sẽ mất chủ quyền Biển Đông". Trung Cộng tranh thủ các cơ chế không theo nguyên tắc của hiệp ước đã ký, chủ yếu tìm kiếm sự đồng thuận trong đàm phán với Việt Nam là chính, tạo ra mọi giải pháp thích hợp nhất cho phép Trung Cộng thôn tính từng mảnh đất Việt Nam cho đến năm 2020.
___________________________________
Chú thích:
Chú thích:
Geen opmerkingen:
Een reactie posten