vrijdag 5 december 2014

Số phận của văn học miền nam Việt Nam sau 1975

Thứ bảy, 06/12/2014


Blog / Nguyễn Hưng Quốc

Số phận của văn học miền nam sau 1975

Lời tác giả: Nhân dịp một cuộc hội thảo về văn học miền Nam 1954-75 sắp được tổ chức tại hai toà soạn hai nhật báo Người Việt và Việt Báo tại California trong hai ngày 6 và 7 tháng 12, 2014, tôi xin đăng lại một đoạn trong cuốn Văn học Việt Nam dưới chế độ Cộng sản 1945-1990 để quý bạn đọc thấy được số phận bi thảm của văn học miền Nam sau năm 1975.
***
Tháng 4.1975, chế độ Việt Nam Cộng Hoà sụp đổ. Đảng Cộng sản nắm chính quyền trong cả nước.
Chính sách có tính chất “chuyên chính vô sản” đầu tiên được áp dụng tại miền Nam là nhắm vào văn hoá, văn học miền Nam trước 1975.
Trước khi chủ trương bắt các sĩ quan và các công chức trung, cao cấp thuộc chính quyền cũ đi học tập cải tạo, trước khi tung ra chiến dịch đánh tư sản mại bản tại các thành phố lớn miền Nam, cộng sản, ngay từ tháng 3 và tháng 4.1975, chiếm được địa phương nào, đã tức khắc ra lệnh đóng cửa toàn bộ các cơ sở sinh hoạt văn học nghệ thuật, từ báo chí đến nhà xuất bản, nhà phát hành và các hiệu sách, đã ra lệnh cho dân chúng phải tiêu huỷ toàn bộ dấu vết của nền văn học nghệ thuật miền Nam. Trong lúc vẫn tiếp tục duy trì nền kinh tế năm thành phần thì cộng sản chỉ chấp nhận một thành phần văn học duy nhất: thành phần văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa, chịu sự thống trị tuyệt đối của đảng.
Mà thật ra, không phải đợi đến tháng 4.1975, ngay trước đó nữa, từ những năm đầu tiên của thập niên 1960, ở miền Bắc, cộng sản đã có ý đồ huỷ diệt văn học miền Nam bằng hai biện pháp: một là chụp mũ nền văn học miền Nam là “văn học thực dân mới” để qua đó, xoá bỏ vị trí uy nghi của nó trong tiến trình văn học dân tộc, hai là, ngụy tạo ra cái gọi là “văn học giải phóng miền Nam Việt Nam” với những người cầm bút ở miền Bắc được lén lút đưa dần vào miền Nam, ẩn náu trong rừng núi, bưng biền, tự xưng là nói lên những tiếng nói tâm huyết nhất của đồng bào miền Nam.
Phụ hoạ với hai biện pháp trên, báo chí miền Bắc không ngớt vu khống, xuyên tạc văn học miền Nam. Theo Phan Cự Đệ và Hà Minh Đức, trong quyển Nhà văn Việt  nam, tập 1, từ năm 1954 đến 1975, không kể các bài phát trên sóng của đài Tiếng nói Việt Nam, chỉ tính riêng trên các tạp chí và tuần báo lớn tại Hà Nội như Học Tập, Thống Nhất, Nghiên cứu nghệ thuật, Văn Nghệ, Tạp Chí Văn Học... đã có tới 286 bài viết thực hiện âm mưu này (tr. 305).
Sau năm 1975, chiếm được miền Nam, mức độ chống phá văn học miền Nam của đảng Cộng sản ngày càng gia tăng với một quy mô rộng khắp và với một mức độ vô cùng dữ dội. Không có cuộc Đại hội đảng nào, cộng sản lại không nêu việc xoá bỏ văn học nghệ thuật miền Nam lên thành một nhiệm vụ chính trị khẩn cấp. Báo cáo tại kỳ họp Quốc hội khoá 5, Lê Duẩn chỉ thị: “Sau ngày giải phóng, nhân dân ta đã làm rất nhiều việc nhằm quét sạch những dấu vết và di hại của thứ văn hoá ấy. Công việc này cần được tiếp tục một cách kiên trì, tích cực và triệt để”.
Để chống lại ảnh hưởng của nền văn học miền Nam trước đây, cộng sản sử dụng cùng lúc hai biện pháp chính: tuyên truyền và khủng bố.
Chưa có ai thống kê thử số lượng những bài báo nhằm bôi nhọ văn học miền Nam từ năm 1975 đến nay là bao nhiêu. Chắc chắn là không ít hơn con số 286 bài viết mà Phan Cự Đệ và Hà Minh Đức đã nêu ra trong thời kỳ 1954-1975. Có những tờ báo và những tạp chí dành hẳn một số đặc biệt về chủ đề phê phán văn học miền Nam như Đại Đoàn Kết số ra ngày 21.7.1977, Nghiên cứu Nghệ thuật số 3.1977, tạp chí Văn Học số 4.1977… Rồi còn sách nữa. Sách của một người và sách của nhiều người. Sách chửi bới một cách không khống hồ đồ và sách giả vờ nghiên cứu một cách khệnh khạng, trịch thượng. Thuộc loại này, đến nay (1990), có cả thảy mười một “tác phẩm” đã được xuất bản: một, Văn hoá văn nghệ miền Nam dưới chế độ Mỹ Ngụy (hai tập) của các tác giả: Phong Hiền, Thạch Phương, Trần Hữu Tá, Hoa Lục Bình (1977); hai, Tiếp tục đấu tranh xoá bỏ tàn dư văn hoá mới của Hà Xuân Trường (1979); ba, Những tên biệt kích của chủ nghĩa thực dân mới trên mặt trận văn hoá, tư tưởng của các tác giả: Trần Văn Giàu, Nguyễn Huy Khánh, Vũ Hạnh, Thạch Phương, Trần Hữu Tá, Phong Hiền, Phan Đắc Lập, Bùi Công Hùng (1980); bốn, Cuộc xâm lăng về văn hoá và tư tưởng của đế quốc Mỹ tại miền Nam Việt Nam của Lữ Phương (1981); năm, Nọc độc văn học thực dân mới của Trần Trọng Đăng Đàn (1983); sáu, Nọc độc văn hoá nô dịch của Chính Nghĩa (?); bảy, Những tên biệt kích cầm bút của nhà xuất bản Công an Hà Nội (1986); tám, Nhìn lại tư tưởng văn nghệ thời Mỹ Ngụy của Lê Đình Kỵ (1987); chín, Lại bàn về nọc độc văn học thực dân mới Mỹ của Trần Trọng Đăng Đàn (1987); mười, Văn học thực dân mới Mỹ ở miền Nam những năm 1954-1975 (tập 1) của Trần Trọng Đăng Đàn (1988); và mười một, Văn hoá văn nghệ phục vụ chủ nghĩa thực dân mới Mỹ tại Nam Việt Nam cũng của Trần Trọng Đăng Đàn (1990).
Trong hầu hết những bài báo và những quyển sách kể trên, cộng sản đều sử dụng một thủ đoạn bất lương quen thuộc: vu khống. Vu khống những tác giả chống cộng là CIA. Vu khống những người chuyên viết về các chuyện tình cảm nhẹ nhàng là “trụy lạc”. Vu khống cả những người chỉ biết mải mê làm văn chương thuần tuý là “tâm lý chiến”. Với cộng sản, tất cả những gì nằm ngoài quỹ đạo thống trị của cộng sản đều là “phản động” và đáng bị lên án. Luận điệu sau đây rất tiêu biểu: “…các loại sách truyền bá chủ thuyết hiện sinh, hư vô chủ nghĩa, kích động dục tình, tuy bề ngoài không phát ngôn quan điểm chính thức của Mỹ và chính quyền Sài Gòn, nhưng thực chất thuộc hệ tư tưởng của chủ nghĩa thực dân mới, phục vụ cho âm mưu của chính trị và tư tưởng phản động của Mỹ và tay sai”. (Sài Gòn Giải phóng ngày 15-2-1987).
Song song với các hoạt động tuyên truyền mà bản chất là vu khống và xuyên tạc, cộng sản còn huy động công an và thanh niên xung phong đi lùng sục tịch thu sách báo cũ, bắt bớ những người lưu hành sách báo cũ. Ngày 20 tháng 8.1975, Bộ Thông tin Văn hoá của cộng sản miền Nam Việt Nam ra thông tri số 218/CT.75 về việc cấm lưu hành cách “loại sách phản động về chính trị và loại sách dâm ô”. Ngày 8.3.1976, cũng cái Bộ Thông tin Văn hoá ấy lại tiếp tục ra tiếp thông tri số 15 nhắc lại lệnh cấm trên. Riêng tại Sài Gòn, tháng 5.1977, Sở Văn hoá Thông tin ra thông tri số 1230/STTVH/XB yêu cầu dân chúng hoặc phải tiêu huỷ hoặc phải giao nộp toàn bộ các ấn phẩm văn hoá của chế độ cũ.  Mỗi bản thông tri trên đều được đính kèm một danh sách dài ngoằng những tác phẩm bị kết tội là “phản động” và “dâm ô”. Cả bản thông tri lẫn bản danh mục đều được đăng tải rộng rãi trên báo chí trong nước. Riêng bản danh mục thì sau này được bổ sung và tập họp thành một quyển sách khổ lớn, dày cộm, nhan đề là Danh mục những sách cấm lưu hành được bày bán khắp các hiệu sách trong nước.
Sau mỗi bản thông tri, hầu như là một quy luật, cộng sản lại mở chiến dịch truy quét văn hoá phẩm một cách rầm rộ. Công an bủa giăng đầy các đường phố để chận bắt những người lén lút mua bán sách báo cũ. Công an xông vào tận nhà dân chúng, lục lọi  khắp nơi để tìm kiếm và tịch thu sách báo cũ. Cho đến nay, cộng sản đã mở ít nhất năm chiến dịch truy quét lớn như thế vào các thời điểm: cuối năm 1975, đầu năm 1976, giữa năm 1977, giữa năm 1981 và giữa năm 1985.
Việc tàng trữ và lưu hành các sách báo cũ bị xem là một “trọng tội” trước pháp luật nhà nước. Trong bộ Luật hình sự do cộng sản công bố, đăng trên báo Nhân dân từ ngày 12 đến ngày 17.7.1985, điều 82 dưới danh xưng “Tội tuyên truyền chống chế độ xã hội chủ nghĩa”, thuộc mục A, chương I, phần “Các tội phạm” ghi rõ:
1. Người nào có một trong những hành vi sau đây nhằm chống chính quyền nhân dân thì bị phạt từ 3 năm đến 12 năm:
a/ Tuyên truyền xuyên tạc chế độ xã hội chủ nghĩa.
b/ Tuyên truyền những luận điệu chiến tranh tâm lý, phao tin bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân.
c/ Làm ra, tàng trữ, lưu hành các tài liệu, văn hoá phẩm có nội dung chống chế độ xã hội chủ nghĩa.
2. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm.
Cũng trong phần Các tội phạm, điều 99 dưới danh xưng “Tội truyền bá văn hoá đồi trụy”, mục B, chương I, ghi rõ:
1. Người nào làm ra, sao chép, lưu hành, tàng trữ, nhằm phổ biến sách, báo, tranh, ảnh, phim, nhạc hoặc những phẩm vật khác có tính chất đồi trụy cũng như có hành vi khác truyền bá văn hoá đồi trụy thì bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 3 năm đến 12 năm:
      a/ Có tổ chức.
      b/ Vật phạm pháp có số lượng lớn, gây hậu quả nghiêm trọng.
      c/ Tái phạm nguy hiểm.
Không phải chỉ đe dọa suông. Trong những năm 1980, 1981 cộng sản đã truy tố trước toà án nhiều người buôn bán sách báo cũ, trong đó, gây xôn xao trong dư luận nhất là vụ án Vinh Sử và Bùi Đình Hà bị kết tội 20 năm tù giam tại Sài Gòn.
Tịch thu sách báo cũ. Bắt bớ những người lưu hành sách báo cũ. Chưa hết. Từ năm 1975 đến nay, cộng sản còn tung ra nhiều chiến dịch khủng bố tàn khốc nhắm vào những văn nghệ sĩ cũ của miền Nam. Cơ man những người bị bắt, bị đày ải trong các nhà tù, các trại cải tạo. Năm 1978, sau nhiều năm tháng điều tra, tạp chí Quê Mẹ tại Paris đã công bố bản danh sách 163 văn nghệ sĩ miền Nam bị cộng sản giam giữ trong các trại cải tạo. Báo Express số ra ngày 12.8.1978, đã đăng tải đầy đủ tên tuổi 130 văn nghệ sĩ trong số 163 văn nghệ sĩ nạn nhân của chính sách trả thù của cộng sản. Ngày 30.4.1980, trong một cuộc họp báo tại Paris, tạp chí Quê Mẹ lại cung cấp thêm danh sách 40 văn nghệ sĩ mới bị bắt hoặc bị bắt lại trong năm 1980.
* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.

Nguyễn Hưng Quốc

Nhà phê bình văn học, nguyên chủ bút tạp chí Việt (1998-2001) và đồng chủ bút tờ báo mạng Tiền Vệ (http://tienve.org). Hiện là chủ nhiệm Ban Việt Học tại trường Đại Học Victoria, Úc. Đã xuất bản trên mười cuốn sách về văn học Việt Nam.

http://www.voatiengviet.com/content/so-phan-cua-van-hoc-mien-nam-sau-bay-muoi-lam/2532570.html


bởi: Động Chủ từ: U Minh Cốc
03.12.2014 09:08
Bác Quốc nói sai rồi, đây không phải chuyện Văn Học miền nam mà là Văn Học Việt Nam. Khi CSVN cướp chính quyền việc đầu tiên là giết Văn Học. Từ án Nhân Văn Giai Phẩm tới hàng trăm vụ án khác và chẳng đặng đừng, Văn Học Miền bắc di cư nhập dòng văn học miền nam. Trong khi dưới chế độ CS vùi dập văn học thì ở miền nam, ít nhất nó vẫn còn đất sống. Trong Nam, nhà xuất bản đếm được hàng chục; tác giả đếm được hàng trăm. Đủ loại, đủ kiểu, hay có, dở có so với miền bắc có gì? Vì quá ít nên không ngoa khi nói Văn Học miền nam là đại diện Văn Học Việt Nam thời đó. Cũng cần minh định là không phải miền bắc thiếu tác phẩm/tác giả mà trong thời này văn học Việt Nam dưới thời CS bị đẩy vào bóng tối. Viết tới đây, tôi chợt nghĩ tới câu "Văn Học là linh hồn của dân tộc" nếu đúng thì họ đã không những tìm cách giết phần xác mà còn tìm cách giết cả phần hồn của một dân tộc

 bởi: Người quan Sát từ: Hà Nội
03.12.2014 19:03
Ố là la.... Ngài Chuà bà Đanh phát ngôn, lý sự như đang lên đồng; Lại còn thơ phú sổ ra ào ào... nghe mà RUNG ĐỘNG hồn người, tới mức tỉnh ngủ....
Ngài CBĐ biết một mà ko biết hai, chỉ biết một chiều, nên đã bị một phản biện xếp vào nhóm số BỐN - không sai.
Tất cả văn nghệ sỹ, mà CBĐ nêu tên, quả đứng họ có tài năng, nổi tiếng một thời, như : Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Văn Cao, Chế Lan Viên < Ngay cả Tố Hữu, Nguyễn đình Thi... > Nhưng, các tác gia trên, chỉ sống mãi với tác phẩm cuả họ thời tiền chiến, hay trước khi CSVN áp đặt chế độ chuyên chính, toàn trị trên toàn miền bắc.
Từ khi trùm sò lãnh đạo CS, ra lệnh, định hướng Văn học, nghệ thuật phải :
" Nay ở trong thơ, nên có THÉP"
" Nhà thơ cũng phải biết XUNG PHONG" < Thơ gì lạ vậy ?>
Thì cha mẹ ơi, hồn thơ, tài năng của các nhà thơ trên đã CHẾT, chả còn tác phấm nào ra hồn, chỉ còn một mớ hỗn độn, mờ nhạt, minh hoạ tô son cho khuôn mặt nham nhở của chế độ. Họ viết, chỉ đổ TỒN TẠI, vì xác họ đâu còn HỒN ?
Văn Cao, cũng thế, ko còn viết được bài ca rào nữa. Hồn Thơ - Ca của ông cũng chết, sau khi ông cũng có dính tới nhóm NVGP < Nhân văn giai phẩm - họ bị trả thù, tận diệt thế nào, ai cũng biết rồi >
Còn Hữu Loan nữa; Ông đã phải bỏ đảng VINH QUANG, lấy cô vợ con nhà địa chủ đã từng cưu mang, nuôi cán bộ CS, mà nay bị đấu tố, giết hại, bị bỏ đói như kẻ ăn mày. Cái TÂM của ông ko cho phép ông hoà vào cái đám đông, du thủ du thực được gọi lả CM ấy. Kết quả là ông bị trù dập, trả thù, sống như kẻ bụi đời, nhưng đầy khí tiết. Chỉ một bài thơ Mầu tím hoa Sim của Hữu Loan, nó đánh đổ tất cả một kho thơ NỊNH BỢ, XU PHỤ của TỐ HỮU hay Nguyễn đình Thi..v..v..
Còn Hoàng Trung Thông, cũng thế, sau này bất mãn, tỉnh ngộ thì đã muộn, nên suốt ngày ngồi quán uống rượu.
Chỉ những kẻ cam tâm luồn cúi, làm tên hề văn nghệ, để mua vui cho triều đình MÁU CS, bồi bút, tô son cho chế độ, mới BUNG NỞ trong vười hoa CS mà thôi. Mà bồi bút, thì bao giờ có tác phẩm để đời, sống được với thời gian.????
May mà Phạm Duy, vào được trong nam, ko thì : Một là bị CSVN giết, thủ tiêu, hai là lại chung số phận như VĂN CAO - bạn ông mà thôi. Đó, nhân chứng sống, bằng chứng hùng hồn cho Tự do và Độc tài. PD- với tự do sáng tác, thì có ngàn bài ca, còn Văn Cao, với độc tài, thì con HỌA MI trong VC bị bóp chết, ko còn hót được nữa.
Vậy mà cái nhóm số Loa tuyên truyền này, vẫn ra rả làm điếc tai thiên hạ.


Thứ bảy, 06/12/2014

Blog / Nguyễn Hưng Quốc

Những khắc khoải siêu hình trong thơ miền Nam 1954-75

Thời 1954-75, các nhà thơ ở miền Nam, với những mức độ khác nhau, đều hoài nghi, hơn nữa, phủ nhận toàn bộ những nền tảng ý thức hệ và thẩm mỹ trên đó Thơ Mới thời 1932-45 được xây dựng.
Trước hết là hình ảnh nhà thơ như một cái tôi cá thể.
Không còn nghi ngờ gì nữa, khí quyển văn hoá của thơ miền Nam vẫn là bầu khí quyển của chủ nghĩa cá nhân. Có điều, nếu chủ nghĩa cá nhân trong giai đoạn 1932-45 là một thứ chủ nghĩa cá nhân đầy tự tin và tự hào một cách ngây thơ thì chủ nghĩa cá nhân trong giai đoạn 1954-75, sau những năm kháng chiến hào hùng, khốc liệt, đầy ngang trái và đầy cay đắng, trở thành “phải chăng” hơn: cái “tôi” cá thể được hiểu như một cái riêng chứ không phải là một cái khác, càng không phải là một cái gì lớn lao, tuyệt đối. Nhà thơ không còn là “con chim đến từ núi lạ” (Xuân Diệu) mà chỉ là “một con chim bói cá / lặn tìm vuông đời mình” (Du Tử Lê), không còn đi những bước đi đặc dị: “Chân mình vẫn lạc dấu nghìn chân” (Trần Huyền Trân) mà chỉ muốn hoà hoãn với cuộc đời: “Tôi bây giờ sống thu thân / Sống cam phận nhỏ chia phần an vui” (Nhã Ca); không còn khệnh khạng: “Tôi: thù nhân của Số Nhiều” (Vũ Hoàng Chương) mà ý thức rất rõ trong cái riêng của mình có cái chung của nhân loại: “Tôi là một người là một đám đông” (Tô Thuỳ Yên).
Trước, nhà thơ tự coi mình như một kẻ có phẩm chất đặc biệt và cao cả, khác hẳn phàm trần, không thể có tri âm giữa trần, nên chỉ trò chuyện với vũ trụ, với trăng sao. Nay, ngược lại, nói như Thanh Tâm Tuyền, “người làm thơ... chỉ là tên ăn mày lẩn giữa đám đông khốn cùng với một mẩu tự do còn sót lại” (1) Chỗ đứng của nhà thơ là ở “giữa lòng cuộc đời”, như nhan đề một tập thơ của Quách Thoại. Thơ Thanh Tâm Tuyền: “Mỗi hoàng hôn tôi bước cùng đám đông / lòng khẩn cầu cách mạng”; thơ Tô Thuỳ Yên: “Tôi ra giữa công trường cất tiếng kêu oan”.
Thấp thoáng đâu đó, trong những câu thơ vừa dẫn, có chút ảnh hưởng của thơ thời kháng chiến chống Pháp chăng? Có thể. Chỉ có điều khác là: các nhà thơ kháng chiến, ngay cả trong những năm đầu, thường chỉ đứng trong đội ngũ. Còn các nhà thơ sau này lại đứng giữa cuộc đời, cái cuộc đời được thu gọn lại vào một biểu tượng: đám đông. Ở trong đội ngũ thì cần đồng phục. Ở giữa cuộc đời thì không.
Hơn nữa, cái tôi cảm xúc cũng không còn giữ được vị thế uy nghi như trước. Trong phong trào Thơ Mới, các nhà thơ coi sự đa cảm và nhạy cảm là đặc sản của những thiên tài nên cố sức phô bày cảm xúc trong thơ. Ai cũng muốn khoe khoang, như Tế Hanh: “Tôi là triệu phú rất nhiều yêu”, như Nguyễn Bính: “Tôi như một kẻ sa lầy trong yêu”, như Xuân Diệu: “Tôi không biết, không biết gì nữa cả / Chỉ yêu nhiều là tôi biết mà thôi”. Có điều, bị chi phối bởi quan điểm thẩm mỹ chỉ coi là đẹp những gì nhẹ nhàng thơ mộng, cảm xúc của họ, do đó, cũng dừng lại ở mức độ nhẹ nhàng và thơ mộng. Yêu, thường chỉ là yêu thầm. Nhớ, thường chỉ là nhớ xa xôi. Buồn, thường chỉ là buồn vô cớ. Cái dằn vặt của Vũ Hoàng Chương, cái khắc khoải của Thâm Tâm, của Trần Huyền Trân, cái phẫn uất của Nguyễn Vỹ, cái thống thiết của Chế Lan Viên, của Hàn Mặc Tử, một phần không nhiều so với toàn cảnh Thơ Mới, phần khác, quan trọng hơn, tất cả đều bị dịu lại, đằm xuống vì những điệu thơ có vần, có nhịp, mềm mại và ngân nga. Cảm xúc trong Thơ Mới, do đó, dần dần bộc lộ nhiều khuyết điểm rõ rệt: trước hết là đơn điệu, sau nữa, cùng với những cơn địa chấn dữ dội của đất nước, của lịch sử, trở thành giả tạo. Tâm hồn con người không còn thanh bình và êm ả như xưa. Trên khắp đất nước đang ầm ầm lửa đạn, trong khắp thành phố đang ầm ầm những tiếng động cơ: chiến tranh và xu hướng đô thị hoá gấp gáp khiến cho tâm hồn con người cũng nổi gió, nổi bão. Ý thức thẩm mỹ ở cả hai miền đều đổi khác. Nói như Bùi Giáng, “chúng ta đứng trước những phong ba, linh hồn chúng ta mang những ưu tư khắc khoải. Thơ trữ tình, thơ yêu đương vớ vẩn nhớ nhung kia [tức Thơ Mới], chúng ta bỏ trôi mất hút, không một chút bận tâm.” (2)
Gắn liền với sự khắc khoải, cảm xúc thường bị đẩy đến mức cực đoan. Người ta không còn thầm thì than thở nữa. Hoặc người ta chịu đựng hoặc người ta gào thét. Chịu đựng thì như trường hợp của Quách Tấn: đối diện với sự bất hạnh, ông không khóc, ông không nói; mọi cảm xúc đều bị ghìm nén lại; “nhất nhất cái gì cũng quạnh quẽ, hiu hắt, tịch mịch” (3). Gào thét thì như trường hợp Thanh Tâm Tuyền: “Tôi không ca ngợi tình yêu, tôi nguyền rủa tình yêu. Mỗi tiếng, mỗi lời viết ra tôi đều thấy nó chứa đựng những hận thù, khinh bỉ, dày vò, đớn đau, tuyệt vọng, nhơ nhuốc, dối trá, hằn học, trơ trẽn, bệnh hoạn, xấc láo, tàn bạo, cục cằn, tủi hổ, yếu đuối, bất lực, chết chóc nghĩa là tất cả những thứ mà tình yêu loại trừ.” (4)
Đằng sau những lời lẽ ít nhiều có tính cường điệu ấy, có một sự thật mà Thanh Tâm Tuyền đã nhạy bén phát hiện ra được: tâm hồn con người đã thay đổi hẳn. Rải rác trong nhiều bài viết khác nhau, Võ Phiến đã phân tích những sự thay đổi ấy. Ông gọi thế hệ 1954-75 ở miền Nam là “thế hệ sỗ sàng”: “sỗ sàng, thẳng thừng, cynique, khinh mạn, phũ phàng v.v..., hàng loạt những tiếng như thế thường được dùng để chỉ định thái độ của thế hệ này” (5). Bất cứ thái độ nào được miêu tả ở trên cũng đều xuất phát từ ý thức hơn là từ cảm xúc.
Ở miền Nam, trong bài “Nhân nghĩ về hội hoạ”, viết năm 1956, Thanh Tâm Tuyền lên tiếng chống lại chủ nghĩa tình cảm trong văn học nghệ thuật:
“Tôi cho không có cái định nghĩa văn chương nghệ thuật nào ấu trĩ hơn là cái định nghĩa này: văn chương nghệ thuật là sự phô diễn những xúc động ở trong lòng của con người. Định nghĩa ấy dẫn đến trong hội hoạ, hoạ phái trừu tượng vô hình dung, trong văn chương, một thứ văn chương lải nhải tình cảm (sentimentalisme) - dù là tình cảm lành mạnh đi lên và gì gì nữa - Nghệ thuật là hành động siêu việt hoá con người trong chính đời sống thực của nhân loại. Những tác phẩm tầm thường là những tác phẩm chịu trói trong những cái vụn vặt tủn mủn hời hợt của đời sống.” (6)
Trước đó một năm, năm 1955, trong bài “Nỗi buồn trong thơ hôm nay”, Thanh Tâm Tuyền miêu tả chân dung nhà thơ mới: “hắn bước sâu vào ý thức thăm thẳm muốn xô động tới những giới hạn siêu hình.” (7)
Có thể nói: trung tâm của Thơ Mới là cái tôi cảm xúc; trung tâm của thơ sau 1954, đặc biệt ở miền Nam, là cái tôi ý thức. Nếu Thơ Mới được xây dựng trên sự dào dạt của cảm xúc thì thơ sau 1954 được xây dựng trên sự khắc khoải, sự dằn vặt của ý thức. Các nhà Thơ Mới đặt mình chủ yếu trong mối quan hệ với thiên nhiên, với gia đình, bạn bè, người yêu để lắng nghe và ghi nhận những tiếng động khẽ khàng trong hồn mình; các nhà thơ sau 1954 đặt mình chủ yếu trong mối quan hệ với lịch sử, với thân phận con người nói chung để nhận diện những cơn lốc khốc liệt trong hồn mình và trong đời mình. Các nhà Thơ Mới nỗ lực tạo dựng, bằng hoài niệm hoặc bằng mơ ước, một thế giới khác lúc nào cũng bềnh bồng trong sương khói và thoang thoảng chút hương hoa; các nhà thơ sau 1954 chỉ bận tâm với việc thám hiểm vào chính cái cuộc đời họ đang sống, cái núi lửa đang thiêu đốt họ.
Các nhà Thơ Mới chấp nhận cuộc đời bằng thái độ ung dung tự tại và phần nào thoả mãn của họ nhưng quay lưng lại với cuộc đời bằng những giấc mộng miên man về một cõi vô biên nào đó; các nhà thơ sau 1954 từ chối tính chất đương nhiên của cuộc đời bằng những phản kháng, những giãy giụa gào thét nhưng lại chấp nhận đối diện cuộc đời như một thực tại không thể tránh khỏi và như một đối tượng cần đào sâu của ý thức, từ đó, của chính thơ ca.
Những sự khác biệt trên dẫn đến những sự khác biệt khác có ý nghĩa quyết định: trong khi các nhà Thơ Mới làm thơ như những thi sĩ, nghĩa là những kẻ đang sống trong thế giới của cái đẹp, của mộng mơ, các nhà thơ sau 1954 làm thơ như những người thường không phải là thi sĩ, nghĩa là những kẻ đang sống giữa thế giới đầy bão bùng, đầy bụi bặm của hiện thực. Các nhà Thơ Mới quan niệm nhà thơ là những kẻ sáng tạo, một thứ tạo hoá con con; các nhà thơ sau 1954 quan niệm nhà thơ chỉ là người hục hặc tra vấn cuộc đời và tâm hồn mình, người đi lượm nhặt những mảnh vỡ trong nhận thức và trong cảm xúc để lắp ghép, tô bồi lại thành một tác phẩm nghệ thuật.
Các nhà Thơ Mới luôn luôn cô độc; các nhà thơ sau 1954, như Thanh Tâm Tuyền khẳng định, “[Tôi] không còn cô độc” nữa. Họ đồng nhất họ với thân phận con người nói chung, do đó, họ đỡ bơ vơ hơn, đỡ lạc loài hơn, nhưng ngược lại, họ lại bị dày vò hơn và nhiều đau đớn hơn: họ phải gánh cái gánh nặng của cả nhân loại. Nhã Ca buồn, trước hết, cũng buồn vì là... con gái: “Tôi làm con gái / Buồn như lá cây”; tự hào, trước hết, cũng tự hào vì là... đàn bà: “Tôi sẽ mát như trăng nhưng cũng nóng hơn lửa /... Bởi tôi là đàn bà”. Vũ Hoàng Chương không còn cay đắng vì, cùng với một ít người khác, do tài hoa cao ngất, độc đáo, không ai hiểu được, “bị quê hương ruồng bỏ, giống nòi khinh” mà não nề vì sự bế tắc trong khả năng nhận thức của con người: “Dấu hỏi (?) vây quanh trọn kiếp người / Sên bò nát óc máu thầm rơi”. Quách Thoại làm thơ là để “nói lời thơ đời nhân loại đau thương”. Nguyên Sa mang trong lòng cả nỗi buồn của thế kỷ: “Thế kỷ chúng tôi trót buồn trong mắt / Dăm bảy nụ cười không đủ xoá ưu tư”. Bùi Giáng mang trong lòng cả cái lạnh của kiếp nhân sinh: “Phiêu bồng sáu cõi thu trôi / Ngàn mưa nhỏ giọt trang đời lạnh ghê”. Việc dẫn chứng có thể kéo dài vô tận. Dĩ nhiên người ta có thể nêu ra một số nhà thơ khác, ở miền Nam, không bị quằn quại về vấn đề số phận. Như trường hợp của Phạm Thiên Thư, người được Võ Phiến nhận xét là “giữa một thời ác liệt đầy âm thanh và cuồng nộ, ông giữ được quân bình an lạc trong tâm hồn” (8). Có thể. Nhưng chỉ trong vài bài thơ của Phạm Thiên Thư được Võ Phiến tuyển, tôi ngạc nhiên bắt gặp hai câu này:
nay áo đã cuốn về thiên cổ
lá vàng bay lạnh nỗi niềm không

(Áo thu)
Lạnh. Nỗi niềm không. Chiếc lá như một kiếp người. Nó khác biết bao với chiếc “lá vàng trước gió sẽ đưa vèo” trong thơ Nguyễn Khuyến, những chiếc lá vàng, lá hồng từ tường bắc sang tường đông trong thơ Tản Đà, chiếc lá mơ rơi giữa rừng mơ trong thơ Nguyễn Bính. Tất cả những chiếc lá ấy, buồn có buồn, nhưng chỉ là nỗi buồn hiu hắt. Như một nỗi ngẩn ngơ. Thế thôi.
Cho nên, có thể nói, ở miền Nam, nhà thơ có tài nào, không nhiều thì ít, cũng bị ảnh hưởng bởi những băn khoăn, những khắc khoải siêu hình.
***
Chú thich:
  1. Thanh Tâm Tuyền (1955), “Nỗi buồn trong thơ hôm nay”, in trên Sáng Tạo số 31 (9.1959), tr. 1-6; sau, in lại trên Giai phẩm Văn (Saigon) số tháng 11.1973 (số đặc biệt về Thanh Tâm Tuyền), tr. 64-71; in lại trong Bốn mươi năm thơ Việt Nam 1945-1985 của Thi Vũ, Quê Mẹ, Paris, 1993, tr. 274-280.
  2. Bùi Giáng (1969), Thi ca tư tưởng, Ca Dao, Saigon, tr. 33.
  3. Võ Phiến (1990), “Thế cuộc”, Làng Văn số 71 (7.90), tr. 41.
  4. Thanh Tâm Tuyền (1955), bđd.
  5. Võ Phiến (1994), “Thơ tình Trần Dạ Từ”, Thế Kỷ 21 số 61 (5.94), tr. 59.
  6. Thanh Tâm Tuyền (1956), “Nhân nghĩ về hội hoạ”, in lại trên Giai phẩm Văn số tháng 11.1973, tr. 74.
  7. Thanh Tâm Tuyền (1955), bđd.
  8. Võ Phiến (1991), Thơ miền Nam, tập 1, Văn Nghệ, California, tr. 60.

    * Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ. 

Nguyễn Hưng Quốc

Nhà phê bình văn học, nguyên chủ bút tạp chí Việt (1998-2001) và đồng chủ bút tờ báo mạng Tiền Vệ (http://tienve.org). Hiện là chủ nhiệm Ban Việt Học tại trường Đại Học Victoria, Úc. Đã xuất bản trên mười cuốn sách về văn học Việt Nam.

http://www.voatiengviet.com/content/nhung-khac-khoai-sieu-hinh-trong-tho-mien-nam/2542799.html

Geen opmerkingen:

Een reactie posten