Tin tức / Sức khỏe
Protein trong sữa mẹ ngăn chặn lây nhiễm HIV cho trẻ sơ sinh
Các nhà khoa học đã xác định được protein trong sữa mẹ vô hiệu hóa vi-rút gây bệnh AIDS và có thể bảo vệ trẻ em khỏi bị nhiễm HIV. Các chuyên gia nói rằng khám phá này có thể dẫn tới một liệu pháp mới để bảo vệ trẻ sơ sinh mà người mẹ bị nhiễm loại vi-rút này.
Trong khi đó, hiện tượng viêm nhiễm vi-rút bệnh cúm có thể phức tạp hơn nhiều so với người ta tưởng trước đây. Các nhà khoa học nói rằng tác nhân gây bệnh có vẻ như đã vô hiệu hóa những yếu tố kháng cự đầu tiên của hệ thống miễn nhiễm, tức là tuyến phòng thủ đầu tiên chống lại bệnh tật.
Câu chuyện Khoa Học và Đời Sống kỳ này đề cập tới các vấn đề vừa kể dựa theo các bài tường thuật của thông tín viên đài VOA Jessica Berman.
Mổi năm, hằng trăm ngàn trẻ em do các phụ nữ nhiễm HIV sinh ra, bị lây nhiễm loại vi-rút gây bệnh AIDS trong khi người mẹ mang thai hay cho con bú . Các thuốc chống vi-rút cho cả người mẹ lẫn trẻ sơ sinh sử dụng đã giảm bớt đáng kể con số các trường hợp đó.
Nhưng các chuyên gia nói rằng ngay cả khi không có các loại thuốc chống bệnh AIDS, thì cũng chỉ có một tỷ lệ nhỏ trẻ sơ sinh bị lây nhiễm qua việc bú sữa mẹ.
Bác sĩ Sallie Permar, giáo sư khoa nhi và khoa miễn dịch học tại Trường Đại Học Duke ở Durham, North Carolina nói:
“Điều thật sự đáng kể là mặc dầu bị phơi nhiễm với loại vi-rut này nhiều lần một ngày trong khoảng thời gian tới hai năm trong đời chúng, nhưng thật sự chỉ có 10 phần trăm các trẻ sơ sinh đó bị nhiễm HIV.”
Điều đó đã khiến các khoa học gia do bác sĩ Permar lãnh đạo tìm cách xác định một chất trong sữa mẹ đã che trở cho trẻ sơ sinh khỏi bị nhiễm HIV.
Đoàn khảo cứu này tập trung vào một protein được gọi là Tenacin-C hay TNC. Loại protein này được biết là có can dự vào việc chữa lành vết thương. Nhưng vai trò của nó trong sữa mẹ vẫn là điều kỳ bí. Nhưng khi các nhà khảo cứu để TNC từ sữa của các phụ nữ không bị nhiễm HIV, tiếp xúc với vi-rút thì phân tử này tự gắn vào vi-rut và vô hiệu hóa nó.
Mặc dầu các thuốc chống vi-rút có công hiệu cao trong việc hạn chế việc truyền nhiễm vi-rut từ mẹ sang con, bác sĩ Permar thấy vai trò của TNC tại những khu vực nghèo tài nguyên, nơi việc điều trị HIV bằng thuốc không có nhiều.
“Vấn đề là việc có thuốc cũng như là theo dõi. Có những vấn đề về tính độc hại và kháng thuốc của thuốc chống vi-rút. Và như vậy chúng tôi nghĩ là các phương pháp thay thế có thể cần thiết để hoàn toàn loại trừ việc truyền nhiễm vi-rút sang trẻ sơ sinh.”
Bà Permar gợi ý rằng có thể cho trẻ em uống TNC trước khi bú sữa mẹ để tăng thêm việc bảo vệ trẻ em chống HIV.
Bài báo mô tả phương cách Tenacin-C chống HIV được đăng trong tạp chí Proceedings of the National Academy of Sciences.
Khi đối đầu với vi-rút bệnh cúm, hệ thống miễn nhiễm của cơ thể tạo ra các tế bào bạch cầu sản xuất các kháng thể được thiết kế đặc biệt để gắn vào các vi sinh vật và trung hòa chúng, ngừa lây nhiễm. Các tế bào đặc biệt kết nối với vi-rút này cũng giữ lại những ký ức về yếu tố xâm nhập, như vậy hệ thống miễn nhiễm có thể chống lại nó trong tương lai nếu việc phơi nhiễm xảy ra lại.
Ít nhất, đó là những hiểu biết truyền thống về cơ thể chống lại vi-rút bệnh cúm theo cách nào.
Các nhà sinh vật học do ông Hidde Ploegh thuộc Viện Khảo Cứu Y Sinh học Whitehead ở Cambridge, Massachusetts, đã khám phá ra phương cách vi-rút bệnh cúm có thể vô hiệu hóa các kháng thể đầu tiên được biết là B cells như thế nào.
Khảo cứu với những con chuột được sinh sản với điều kiện biến đổi gien di truyền gợi ý rằng loại vi-rut này xâm nhập B cells và gây trở ngại cho việc sản xuất kháng thể, một tiến trình cuối cùng giết chết các tế bào này và là tuyến phòng thủ đầu tiên.
Ông Ploegh nói rằng, nếu sự thật là như vậy thì tiến trình lây bệnh có thể phức tạp hơn nhiều so với người ta tưởng trước đây.
“Và như vậy, chúng tôi nghĩ rằng hiện tượng này thực sự cung cấp một cửa ngõ mới về phương cách vi-rút lây nhiễm như thế nào. Sự kiện này cũng hàm ý cách giải thích tại sao một số loại bệnh cúm gây ra các trường hợp tệ hại hơn của chứng bệnh này so với những loại khác.”
Thông thường, các kháng thể tiền tuyến thường quây quần tại các tế bào phổi để bảo vệ cơ thể chống lại việc phơi nhiễm trong tương lai các vi sinh vật xâm nhập qua hệ thống hô hấp.
Nhưng loại vi-rut cúm này, đã làm mất khả năng của các kháng thể, có thể tấn công các tế bào phổi gây trở ngại cho khả năng của các kháng thể để nhớ tác nhân gây bệnh và phát động một cuộc tấn công hệ thống miễn nhiễm.
Ông Hidde Ploegh thuộc Viện Whitehead nói tiếp:
“Như vậy, sự kiện này gợi ý rằng cuộc chạm trán sơ khởi của loại tế bào bạch cầu mà ta nghĩ là phòng vệ cho chúng ta chống lại vi-rut có thể bị tiêu diệt bởi đợt tiêm nhiễm sơ khởi.”
Ông Ploegh nói rằng, bằng cách vô hiệu hóa cái gọi là ‘binh sĩ tuyến đầu’, vi-rút bệnh cúm có thêm thời gian để tái tạo và có được chỗ đứng trước khi hệ thống miễn nhiễm có thể huy động đợt phòng thủ thứ nhì.
Bài báo về phương cách vi-rút cúm gây trở ngại cho đáp ứng miễn nhiễm của cơ thể được đăng trong tạp chí Nature.
Trong khi đó, hiện tượng viêm nhiễm vi-rút bệnh cúm có thể phức tạp hơn nhiều so với người ta tưởng trước đây. Các nhà khoa học nói rằng tác nhân gây bệnh có vẻ như đã vô hiệu hóa những yếu tố kháng cự đầu tiên của hệ thống miễn nhiễm, tức là tuyến phòng thủ đầu tiên chống lại bệnh tật.
Câu chuyện Khoa Học và Đời Sống kỳ này đề cập tới các vấn đề vừa kể dựa theo các bài tường thuật của thông tín viên đài VOA Jessica Berman.
Mổi năm, hằng trăm ngàn trẻ em do các phụ nữ nhiễm HIV sinh ra, bị lây nhiễm loại vi-rút gây bệnh AIDS trong khi người mẹ mang thai hay cho con bú . Các thuốc chống vi-rút cho cả người mẹ lẫn trẻ sơ sinh sử dụng đã giảm bớt đáng kể con số các trường hợp đó.
Nhưng các chuyên gia nói rằng ngay cả khi không có các loại thuốc chống bệnh AIDS, thì cũng chỉ có một tỷ lệ nhỏ trẻ sơ sinh bị lây nhiễm qua việc bú sữa mẹ.
Bác sĩ Sallie Permar, giáo sư khoa nhi và khoa miễn dịch học tại Trường Đại Học Duke ở Durham, North Carolina nói:
“Điều thật sự đáng kể là mặc dầu bị phơi nhiễm với loại vi-rut này nhiều lần một ngày trong khoảng thời gian tới hai năm trong đời chúng, nhưng thật sự chỉ có 10 phần trăm các trẻ sơ sinh đó bị nhiễm HIV.”
Điều đó đã khiến các khoa học gia do bác sĩ Permar lãnh đạo tìm cách xác định một chất trong sữa mẹ đã che trở cho trẻ sơ sinh khỏi bị nhiễm HIV.
Đoàn khảo cứu này tập trung vào một protein được gọi là Tenacin-C hay TNC. Loại protein này được biết là có can dự vào việc chữa lành vết thương. Nhưng vai trò của nó trong sữa mẹ vẫn là điều kỳ bí. Nhưng khi các nhà khảo cứu để TNC từ sữa của các phụ nữ không bị nhiễm HIV, tiếp xúc với vi-rút thì phân tử này tự gắn vào vi-rut và vô hiệu hóa nó.
Mặc dầu các thuốc chống vi-rút có công hiệu cao trong việc hạn chế việc truyền nhiễm vi-rut từ mẹ sang con, bác sĩ Permar thấy vai trò của TNC tại những khu vực nghèo tài nguyên, nơi việc điều trị HIV bằng thuốc không có nhiều.
“Vấn đề là việc có thuốc cũng như là theo dõi. Có những vấn đề về tính độc hại và kháng thuốc của thuốc chống vi-rút. Và như vậy chúng tôi nghĩ là các phương pháp thay thế có thể cần thiết để hoàn toàn loại trừ việc truyền nhiễm vi-rút sang trẻ sơ sinh.”
Bà Permar gợi ý rằng có thể cho trẻ em uống TNC trước khi bú sữa mẹ để tăng thêm việc bảo vệ trẻ em chống HIV.
Bài báo mô tả phương cách Tenacin-C chống HIV được đăng trong tạp chí Proceedings of the National Academy of Sciences.
Khi đối đầu với vi-rút bệnh cúm, hệ thống miễn nhiễm của cơ thể tạo ra các tế bào bạch cầu sản xuất các kháng thể được thiết kế đặc biệt để gắn vào các vi sinh vật và trung hòa chúng, ngừa lây nhiễm. Các tế bào đặc biệt kết nối với vi-rút này cũng giữ lại những ký ức về yếu tố xâm nhập, như vậy hệ thống miễn nhiễm có thể chống lại nó trong tương lai nếu việc phơi nhiễm xảy ra lại.
Ít nhất, đó là những hiểu biết truyền thống về cơ thể chống lại vi-rút bệnh cúm theo cách nào.
Các nhà sinh vật học do ông Hidde Ploegh thuộc Viện Khảo Cứu Y Sinh học Whitehead ở Cambridge, Massachusetts, đã khám phá ra phương cách vi-rút bệnh cúm có thể vô hiệu hóa các kháng thể đầu tiên được biết là B cells như thế nào.
Khảo cứu với những con chuột được sinh sản với điều kiện biến đổi gien di truyền gợi ý rằng loại vi-rut này xâm nhập B cells và gây trở ngại cho việc sản xuất kháng thể, một tiến trình cuối cùng giết chết các tế bào này và là tuyến phòng thủ đầu tiên.
Ông Ploegh nói rằng, nếu sự thật là như vậy thì tiến trình lây bệnh có thể phức tạp hơn nhiều so với người ta tưởng trước đây.
“Và như vậy, chúng tôi nghĩ rằng hiện tượng này thực sự cung cấp một cửa ngõ mới về phương cách vi-rút lây nhiễm như thế nào. Sự kiện này cũng hàm ý cách giải thích tại sao một số loại bệnh cúm gây ra các trường hợp tệ hại hơn của chứng bệnh này so với những loại khác.”
Thông thường, các kháng thể tiền tuyến thường quây quần tại các tế bào phổi để bảo vệ cơ thể chống lại việc phơi nhiễm trong tương lai các vi sinh vật xâm nhập qua hệ thống hô hấp.
Nhưng loại vi-rut cúm này, đã làm mất khả năng của các kháng thể, có thể tấn công các tế bào phổi gây trở ngại cho khả năng của các kháng thể để nhớ tác nhân gây bệnh và phát động một cuộc tấn công hệ thống miễn nhiễm.
Ông Hidde Ploegh thuộc Viện Whitehead nói tiếp:
“Như vậy, sự kiện này gợi ý rằng cuộc chạm trán sơ khởi của loại tế bào bạch cầu mà ta nghĩ là phòng vệ cho chúng ta chống lại vi-rut có thể bị tiêu diệt bởi đợt tiêm nhiễm sơ khởi.”
Ông Ploegh nói rằng, bằng cách vô hiệu hóa cái gọi là ‘binh sĩ tuyến đầu’, vi-rút bệnh cúm có thêm thời gian để tái tạo và có được chỗ đứng trước khi hệ thống miễn nhiễm có thể huy động đợt phòng thủ thứ nhì.
Bài báo về phương cách vi-rút cúm gây trở ngại cho đáp ứng miễn nhiễm của cơ thể được đăng trong tạp chí Nature.
Geen opmerkingen:
Een reactie posten