Các rạp chiếu phim ở Sài Gòn trước 1975
Các rạp chiếu phim ở Sài Gòn trước 1975
Sau đây là
danh sách các rạp xi-nê Sài Gòn trước 1975 được sắp theo thứ tự abc. Hiện tại,
một số lớn các rạp hoặc không còn tồn tại hoặc đã ngưng hoạt
động.
Kỷ niệm cá nhân
của tôi với các rạp xi-nê thì rất nhiều. Các bạn nào đã xem qua phim “Cinema
Paradiso” (1988) hẳn phải biết tâm trạng của những đứa bé mê xi-nê như thế
nào.
Alhambra – Nguyễn
Cư Trinh.
Alliance
Française – Đồn Đất. Rạp của Trung Tâm Văn Hóa Pháp chiếu toàn phim Pháp không
có phụ đề Việt ngữ, hiếm khi thấy người Việt đi xem. Mặc dù mấy ông Tây rất ghét
Mỹ, điều đó ai cũng biết, nhưng đôi khi có chiếu phim Mỹ. Tôi xem được một phim
xưa do Humphrey Bogart đóng và phim “Easy Rider” (1969) ở rạp
này.
Aristo – Lê Lai.
Sau 1954 đây là nơi trình diễn thường trực của đoàn cải lương Kim Chung di cư từ
miền bắc vào nam, đoàn có thêm tên phụ là Tiếng Chuông Vàng Thủ Đô. Tài tử chính
là nừ nghệ sĩ Kim Chung.
Asam – Đinh Tiên
Hoàng, Đa Kao. Rạp này đã dẹp quá lâu rồi, ít ra là vào khoảng từ giữa đến cuối
thập niên 50. Rạp không còn vết tích gì nên tôi không còn nhớ, khi bạn bè nhắc
lại tôi cũng không hình dung ra sao. Chỉ đến khi nhớ lại phim “Le Retour de Jack
Slade” (1955) mà tôi đã xem ở rạp này mới nhớ ra là rạp nằm trong một hẻm nhỏ
trên đường Đinh Tiên Hoàng gần góc đường Phan Thanh Giản. Gần đó có tiệm mì Cây
Nhản nổi tiếng một thời, về sau nghe nói tiệm mì này dời về ngả tư hay ngả năm
Bình Hòa gì đó.
Cẩm Vân – Võ Di
Nguy, Phú Nhuận. Có những rạp mà dân coi xi-nê làm như không có duyên hội ngộ
nên chẳng bao giờ có dịp bước chân vào. Đối với tôi, mặc dù rạp này cách rạp Văn
Cầm Phú Nhuận không bao xa nhưng tôi chưa bao giờ đến xem ở đây. Điều này chứng
tỏ rạp Cẩm Vân đã không chiếu phim đúng với sở thích của tôi.
Rạp Cao Đồng Hưng
– Bạch Đằng, chợ Bà Chiểu, Gia Định.
Rạp Cao Đồng Hưng
ngày nay là một nhà sách.
Casino Đa Kao –
Đinh Tiên Hoàng. Rạp tương đối khang trang, phim khá chọn lọc, giá cả nhẹ nhàng,
địa điểm rất thuận tiện nằm gần Cầu Bông. “Major Dundee” (1965), “The Great
Race” (1965).
Casino Sài Gòn –
Pasteur. Tên mới là Vinh Quang. Năm lên 10 tuổi, tôi được bác của tôi cho lên
Sài Gòn ăn ở để đi học trường Taberd. Ngay hôm đầu tiên, tôi đã được cho đi xem
xi-nê ở rạp này vì bác tôi có giấy mời coi thường xuyên bao nhiêu lần cũng được.
Và cứ thế, mỗi chiều cuối tuần tôi đều được coi xi-nê khoái tỷ, rạp chiếu phim
gì cũng coi tuốt hết. Thời đó, những phim trình chiếu rất chọn lọc nên ít khi
gặp phim dỡ. Một kỷ niệm nhớ đời và một bài học quí giá cho tôi là phim “20.000
Dặm Dưới Đảy Biển” (1954). Tuần đó, bác tôi đã cho đi xem một lần nhưng trong
nhà còn có người chưa xem nên bác tôi cho cả nhà đi xem một lần nữa. Thế là đến
mấy cái màn hay ho tôi tôi đều nói trước làm cho người chưa xem thấy mất hay,
nhất là cái màn mấy ông thổ dân bị điện của tàu ngầm giật xẹt lửa tùm lum phải
phóng xuống nước. Về nhà, tôi bị chửi cho một trận nên thân. Từ đó trở đi, tôi
luôn nhớ không bao giờ tiết lộ cái bất ngờ hoặc đoạn cuối của phim cho người
chưa xem. Trong rạp có bán kem eskimo rất ngon nhưng rất đắt tiền. “20000
Leagues under the Sea” (1954), “Drum Beat” (1954), “Touchez Pas Au Grisbi”
(1954).
Rạp Casino Sài
Gòn ngày nay.
Cathay – Công Lý,
Chợ Cũ.
Catinat – Tự Do.
Nếu tôi nhớ không lầm, rạp xi-nê tí hon này nằm trong một hành lang từ đường Tự
Do xuyên qua đường Nguyễn Huệ về sau chuyển đổi thành phòng trà ca nhạc với
nhiều tên: ‘Au Chalet’, và ‘Đêm Màu Hồng’, nơi ra mắt của ban ‘Phượng Hoàng’
thời kỳ trước khi nhập với ca sĩ Elvis Phương.
Cầu Muối – Bến
Chương Dương, Khánh Hội.
Cây Gỏ – Minh
Phụng, Chợ Lớn.
Diên Hồng –
Yersin.
Đại Đồng – Nguyễn
Văn Học, Gia Định.
Đại Đồng – Cao
Thắng. Một rạp nhỏ chuyên chiếu phim cũ nhưng khá chọn lọc, giá cả thật nhẹ
nhàng, địa điểm rất thuận tiện. Càng thuận tiện hơn nữa vì cạnh rạp có một tiệm
bò bía rất ngon và rẻ, họ cho rau sống và củ sắn thật nhiều nên tôi thường ghé
ăn thế bửa cơm luôn.
Đại Lợi – Thoại
Ngọc Hầu, Chợ Ông Tạ.
Đại Nam – Trần
Hưng Đạo. Rạp Đại Nam là rạp sang trọng nhất Sài Gòn, những phim mới được chiếu
trước tiên ớ đây và một vài rạp khác rồi một thời gian sau mới được đưa đi tỉnh
hoặc các rạp nhỏ chuyên chiếu lại. Mỗi phim gồm có nhiều cuộn nên thời đó mấy
rạp cùng chiếu chung một phim bằng cách chia lệch giờ khởi chiếu. Mỗi khi chiếu
xong một cuộn thì có người xách đi giao cho rạp kế tiếp và ngược lại. Có lần rạp
Đại Nam đang chiếu phim “Pillow Talk” (1959) thì anh chàng đi giao cuộn phim đã
mãi mê uống nước giải khát hay sao đó mà để mất đi cuộn phim phải giao. Tất cả
các rạp cùng chiếu phim đó đành phải ngưng lại và đem phim khác ra chiếu đỡ. Mãi
một thời gian sau, không rõ cuộn phim được chuộc lại hay phải mua phim mới
Pillow Talk mới được chiếu trở lại. Đến khi rạp Rex ra đời vào năm 1962 thì rạp
Đại Nam xuống còn ngôi vị thứ hai. Tôi có ít nhiều kỷ niệm với rạp này. Gia đình
bạn học P.T. Sơn nghe nói sở hữu rạp nên bạn bè chúng tôi thường hay dí bạn Sơn
để tìm vé mời. Lâu lâu Sơn cũng chiều ý bạn bè và chìa ra vài vé. Tôi được xem
phim “Bernardine” (1957) là do vé mời của Sơn tặng. Một kỷ niệm khác là khi mới
bắt đầu chơi nhạc cùng với Lê Hựu Hà vào khoàng năm 1965, chúng tôi được dịp
trình diễn một lần ở đây. Lúc đó, Hà mới bắt đầu sáng tác và giao cho tôi trình
bày bản “Chiều Về” vì phần hòa âm đòi hỏi Hà phải bận độc tấu guitar suốt bài
nhạc không tiện hát chính ngoại trừ những đoạn ca bè theo. Vài năm sau, một Đai
Hội Nhạc Trẻ được tổ chức ở đây. Vào cái thời tiểu thuyết của nữ văn sĩ Trung
Hoa Quỳnh Dao đang hồi cực thịnh và được quay thành phim liên miên trong đó có
“Mùa Thu Lá Bay” với đôi tài tử đẹp trai đẹp gái Đặng Quang Vinh và Chân Trân,
tôi đã xem phim này ở rạp Đại Nam và được cái hân hạnh đưa một cô gái Tàu thật
trẻ đẹp đi xem cùng. Đầu đuôi câu chuyện như sau đây. Đám nhạc sĩ chúng tôi khi
đến vũ trường nào chơi nhạc trước sau gì rồi cũng dính với một em ca ve ở đó.
Rồi khi nhổ neo sang vũ trường khác thường thì cũng đành ca bài chia tay vui dầy
duyên mới. Có nhiều em ca ve hay gọi đùa chúng tôi là mấy thằng cha ‘thợ đờn’.
Nói vậy chớ mấy em không hận thù gì hết, thời loạn ly mà, vui được ngày nào hay
ngày nấy miễn là còn gặp nhau là còn chơi đẹp với nhau. Năm đó, nhạc sĩ Đức Phú
mời tôi vào ban nhạc về cộng tác với vũ trường ‘La Sirène’ nằm trên đường
Pasteur đối diện với rạp Casino Sài Gòn. Suốt mấy đêm đầu đứng đàn trên ban nhạc
và quan sát thật kỹ lưỡng đội ca ve của vũ trường, tôi hoàn toàn thất vọng. Điệu
này đàn ở đây coi bộ mất hứng rồi, không lẽ không còn gì nữa hay sao? Ngay lúc
đó, tôi bèn giật mình khám phá ra một cô hầu bàn người Tàu rất trẻ và rất xinh
đứng trông chừng mấy cái bàn phía tôi hay đi lên đi xuống. Thế là lần này tôi
chuyển hướng sang cô xẩm nhỏ và đưa cô ấy đi xem phim Mùa Thu Lá Bay đang chiếu
ở rạp Đại Nam. Được dịp coi phim Tàu mà lại có người đẹp Tàu đi xem cùng và
phiên dịch cho mình nghe những điểm hay của phim làm tôi rất thích thú…cho đến
khi cô ấy đem chai dầu hiệu ‘con sóc’ ra xức thì mọi cái gì hay đẹp đối với tôi
đều sụp đổ một cái rụp! Vốn cái lổ mũi của tôi trời cho quá thính nên cái mùi gì
không hợp là bắt buộc tôi phải tháo chạy. Về sau này, có những lúc nằm chèo queo
một mình nhớ lại thấy tiếc. Nhận xét của tôi về nhan sắc của cô gái Tàu rất
đúng, một thời gian sau, tôi thấy cô bỏ nghề hầu bàn đi làm ca ve. Chắc chắn là
cô ấy cũng nổi tiếng như một vài hoa khôi khác của làng ca ve Sài thành hồi đó
và biết đâu cô ấy đã tiến bộ hơn không còn xài dầu con sóc nữa!
Rạp Đại Nam ngày
nay.
Đại Quang – Tổng
Đốc Phương, Chợ Lớn. Rạp này hoàn toàn Trung Hoa chẳng có gì là Việt Nam hết vì
họ chiếu toàn phim Tàu nên tôi không bao giờ có dịp bước chân vào. Tuy vậy, tôi
lại có một kỷ niệm dễ thương với rạp này do rạp nằm ngay cạnh vũ trường Bách Hỷ,
nơi tôi chơi nhạc mấy năm cuối cùng trước khi rời khỏi Việt Nam vào hạ tuần
tháng 4 năm 1975. Do cảm tình đặc biệt, mỗi tối khi tôi đến Bách Hỷ, một em trai
chạy đến đem chiếc xe gắn máy honda cà tàng của tôi đi cất cùng với những chiếc
xe của khán giả rạp Đại Quang. Khi vũ trường tan, tôi vừa bước ra khỏi cửa là đã
thấy em dắt chiếc xe lại cho tôi. Dù đó là một cử chỉ nhỏ nhặt tầm thường nhưng
đối với tôi nó có một cái gì thật là ấm lòng chiến sĩ.
Đồng Nhi – Lê
Quang Định, Gia Định.
Eden – Tự Do. Rạp
này quá nổi tiếng và đối với tôi cũng nhiều kỷ niệm. Trước nhất, rạp này không
nằm ngoài mặt đường mà lại nằm sâu trong một thương xá cũng được gọi là Eden.
Đến rạp, khán giả có thể đi vào từ phía đường Tự Do, Lê Lợi hay Nguyễn Huệ đều
được cả. Cái tên rạp tiếng Pháp tự nó cho biết rạp này đã có từ thời Pháp thuộc
và kiến trúc bên trong thì đúng y như những rạp bên Pháp được thấy qua các phim
xi-nê. Ở Sài Gòn, chỉ duy nhất rạp này mới có hai balcons (tầng lầu). Thông
thường, khi xem xi-nê, ngồi balcon 1 là hay nhất vì nhìn xuống vừa tầm mắt không
mỏi cổ và không bị cái đầu của người ngồi hàng ghế trước che khuất tầm nhìn.
Balcon 2 của rạp Eden thì nhỏ hơn và quá cao nên nhìn sâu xuống muốn cụp cái cổ
luôn nên phần đông khán giả chẳng màng để ý đến sự hiện hữu của nó, ngoại trừ
dân đào kép Sài Gòn thì chiếu cố rất nhiệt liệt và gọi đó là ‘pigeonnier’
(chuồng bồ câu). Đi xem xi-nê một mình khi rạp hết chổ phải lên đó thì buồn lắm
vì trên ấy đào kép mùi mẩn chẳng cần biết trên màn ảnh chiếu cái gì, nhất là
những cặp ngồi ở hàng ghế chót có sau lưng nguyên bức tường thì tha hồ lâm ly
chẳng lo có ai nhìn đến trong cái tối mù mù. Ca sĩ Dalida đã trình diễn ở rạp
này. Một lần khác, tôi đi xem một ban nhạc jazz của Tây Đức (thời đó còn Tây Đức
và Đông Đức). Mấy năm sau đó, cũng tại rạp này, tôi được xem phim “Parlez-Moi
d’Amour” (1961) do Dalida đóng. Một kỷ niệm cho các bạn cùng học Taberd với tôi
là khoảng đầu thập niên 60, không rõ là do nhã ý của ai, cả lớp chúng tôi và các
lớp khác được đưa đến rạp này để xem phim “Les Pilliers du Ciel” (Pillars of the
Sky (1956)), một phim cao bồi của Mỹ do Jeff Chandler và Dorothy Malone đóng.
Còn về kỷ niệm cá nhân thì mấy năm sau nữa, vào một chiêu cuối tuần, tôi mời cô
đào của tôi đi nhảy đầm matiné nhưng cô ấy nói đã lở mua vé xem phim “My Fair
Lady” (1964) tại Eden cùng với một cô bạn rồi. Tôi kêu cô đào của tôi bán cái vé
lại cho người khác rồi đi chơi với tôi. Thế là buổi hôm đó, cô bạn gái của cô
đào của tôi tự nhiên thấy có một người đàn ông lạ hoắc lù lù đến ngồi kế bên.
Nghĩ lại, tôi vẫn thấy buồn cười và nghĩ xa hơn về chuyện đời thì thấy là khi
mới quen nhau còn chịu đèn thì mọi việc đều ổn thỏa, đến khi không còn nồng thắm
nữa thì cái gì cũng không xong: nào là bận cái này cái nọ, nhức đầu nóng lạnh đủ
mọi lý do trên đời!
Phía sau của rạp
EDEN nằm trên đường Nguyễn Huệ, thời điểm không rõ. (Ảnh từ
Internet.)
Hào Huê – Nguyễn
Hoàng, Chợ Lớn.
Hoàng Cung –
Triệu Quang Phục, Chợ Lớn.
Hồng Liên – Hậu
Giang, Chợ Lớn.
Hùng Vương –
Pétrus Ký, Sài Gòn.
Hưng Đạo – Nguyễn
Cư Trinh. Trong thời kỳ tin tức chiến sự sôi động biến chuyển từng ngày từng giờ
của tháng 4 năm 1975, tinh thần của mọi người giao động đến cực độ và linh tính
sẽ có chuyện gì lớn lao sắp xảy ra. Tôi cũng như bao nhiêu người khác còn biết
làm gì hơn là chờ đợi những gì sẽ đến. Một ngày thượng tuần của tháng, tôi đến
rạp Hưng Đạo xem xi-nê trong cái tinh thần đó, một cách để giết thì giờ chớ tâm
trí của tôi không thể chú ý một cách bình thường vào tình tiết đang diễn ra trên
màn ảnh. Trong trạng thái xem phim hờ hửng đó thì bổng phim ngưng chiếu và đèn
trong rạp bật sáng lên, không phải dấu hiệu của cảnh đứt phim thông thường vì có
một số rất đông khán giả ùn ùn đi ra ngoài. Tôi cũng đi theo và được biết là
dinh Độc Lập vừa bị dội bom. Bây giờ, tôi cố nhớ lại lúc đó xem phim gì cũng
không ra, chỉ nhớ loáng thoáng là một phim Pháp. Còn về thời điểm chính xác của
biến cố, tôi thấy chẳng cần phải truy tìm thêm vì lúc nào cũng có sẵn trên
Internet.
Khá Lạc – Nguyễn
Tri Phương. Rạp nằm cạnh tiệm phở Tương Lai hiện vẫn còn bán phở. Một anh bạn
thân cho biết lần đầu tiên anh được xem xi nê là tại rạp này với phim “Samson
and Delilah” (“Samson et Dalila”). Riêng cá nhân tôi, tôi hoàn toàn không biết
rạp này cho đến khi anh bạn nói tới, mặc dù nhà của tôi cùng nằm trên đường
Nguyễn Tri Phương kể từ năm 1962. Như vậy, rạp này có lẻ đã hoạt động trước thời
Đệ Nhất Cộng Hòa. Một điểm khác nói về tiệm phở Tương Lai cạnh rạp, trước Tết
năm 1966, chúng tôi đến ăn phở ở đây và phải trả 200 đồng cho một tô phở, trước
đó chỉ khoảng 150 đồng. Đấy là thời điểm vật giá bắt đầu leo thang vào những năm
60.
Khải Hoàn – Võ
Tánh và Cống Quỳnh. Trong cuộc đời làm người xem xi-nê của tôi, có những rạp
không có duyên với tôi nên tôi chưa bao giờ được bước chân vào các rạp đó. Trái
lại, có những rạp rất có duyên với tôi nên xem hết phim này đến phim khác. Rạp
Khải Hoàn là một. Có thể yếu tố quyết định là rạp này tuyển chọn phim đúng ý tôi
và địa điểm tọa lạc nơi thị tứ, giá tiền lại tương đối phải chăng nên tôi đã xem
khá nhiều phim ở đây trong đó có phim “Hiệp Sĩ Mù Nghe Gió Kiếm”, và “Mưa Lạnh
Hoàng Hôn”. Riêng phim sau, chương trình quảng cáo có phụ diễn tân nhạc nhưng
hôm đó khán giả đã chờ mãi vẫn không thấy hơi hám ca nhạc sĩ đâu hết. Cuối cùng
có nghệ sĩ Ngọc Phu bước ra sân khấu làm một màn tự biên tự diễn không đàn địch
phụ họa chi cả, anh giả làm tiếng chó sủa, gà gáy, ngựa hí, quạ kêu qua loa cho
xong rồi chiếu phim. Hiện tại, anh và gia đình đang sinh sống ở Nam California
và tôi cũng đã có lần sinh hoạt văn nghệ với nghệ sĩ đàn anh này. Một kỷ niệm
khác của tôi ở rạp này là gặp phải nạn móc túi. Gặp hôm mua vé có chen lấn, tôi
cảm thấy có mấy ngón tay cứ muốn thọt vào túi quần và tôi đã kịp chận lại. Rất
có thể đây là một tay chưa chuyên nghiệp. Bằng không thì chắc số tiền ít ỏi của
tôi cũng đã bay mất rồi!
Kim Châu – Nguyễn
Văn Sâm, Chợ Cũ. Cảm tình của tôi đối với rạp này tương tợ như đi mua một chiếc
xe mới. Khi rạp bắt đầu khai trương thì họ đã quảng cáo sẽ chiếu phim “Sapho”
(1960). Tuy chỉ là một phim hạng B hoặc C nhưng nữ tài tữ Tina Louise có vẽ đẹp
duyên dáng nên tôi đến xem phim trong tinh thần như vừa mua sắm được một chiếc
xe như ý. Qua đến những phim kế tiếp, rạp Kim Châu đã tuyển chọn những phim cùng
loại nên rất được khán giả hài lòng.
Kinh Đô – Lê Văn
Duyệt. Đây là một rạp xi-nê hạng sang, chỉ kém hơn rạp Đại Nam một tí. Rạp khai
trương sau rạp Đại Nam nhưng lại chỉ hoạt động một thời gian tương đối ngắn ngủi
rồi biến thành một chi nhánh của cơ quan USAID. Tôi có một kỷ niệm với rạp này.
Hai cha con tôi vốn là những người ghiền xi-nê, Hôm đó, cha tôi đưa tôi lên Sài
Gòn để nhập học nội trú sau một kỳ nghỉ hè, tôi được thả ở ngoài phố để đi dạo
mua sắm. Tôi vẫn được sống một cuộc sống tự do như thế từ khi còn nhỏ. Còn khá
nhiều thì giờ trước khi phải trình diện mấy sư huynh La San Taberd, tôi bèn lang
thang đến rạp Kinh Đô nơi đang chiếu phim “La Dernière Torpille” (“Torpedo Run”)
(1958). Trùng hợp thay, tôi gặp lại cha tôi cũng vừa đến đó, thế là cha tôi cho
tôi cùng vào xem phim, tôi đở phải bỏ tiền ra mua một cái vé
xi-nê.
Kinh Thành – Hai
Bà Trưng, Tân Định.
Lạc Xuân – Gia
Long, Gò Vấp. Mặc dầu đơn vị của tôi tọa lạc ở Hạnh Thông Tây cách rạp này không
bao xa và sau này có rất nhiều lần đi ngang qua nhưng tôi không hề biết đến sự
hiện hữu của nó. Một người bạn thân lúc còn ở quân ngũ đã được huấn luyện gần đó
có nhắc nên tôi mới biết. Bà con ở Gò Vấp thì biết rạp này rất
rõ.
Lam Sơn – Bùi
Chu. Mũi tàu Lê Lai, Bùi Chu, Võ Tánh chéo góc với nhà thờ Huyện Sĩ, vòng qua
bên hông rạp phía đường Lê Lai thì có nhà của nữ kịch sĩ Kim Cương. Rạp xi-nê
này chỉ tồn tại một thời gian rất ngắn ngủi rồi bị đóng cửa vì vị trí của rạp
quá gần một nhà thờ, vào thời kỳ đó là Đệ Nhất Cộng Hòa, nên Công Giáo đang có
ưu thể.
Lê Lợi – Lê Thánh
Tôn. Rạp chiếu phim cũ nhưng tuyển chọn toàn phim hay và chỉ chiếu trong 1, 2,
hoặc 3 ngày rồi đổi sang chiếu phim khác. Những phim classic như “High Noon”,
“Crimson Pirates”, “Vera Cruz”, “Waterloo Bridge”, …được chiếu đi chiếu lại
luôn, nếu hụt xem phim nào thì khán giả cứ kiên nhẩn chờ đợi, một thời gian sau
thế nào phim đó cũng sẽ được chiếu lại. Lịch trình chiếu phim được niêm yết
trước gần một tháng để khán giả chuẩn bị ngày đi xem phim. Rạp Lê Lợi có thể nói
là rạp duy nhất ở Sài Gòn chiếu phim theo phương thức này, một ít rạp khác có
bắt chước phần nào nhưng rồi cũng không theo hoàn toàn hoặc sau đó phải thay đổi
phương hướng.
Rạp Lê Lợi được
nhóm học sinh chúng tôi chiếu cố khá nhiều vì rạp chiếu phim hay và giá vé rất
nhẹ. Thời đó, chúng tôi đi học ngày hai buổi nên buổi chiều nào chán học là
chúng tôi rũ nhau ‘cúp cua’ đi xem xi nê ở rạp này.
Ngoài ra, một
người bạn cùng lớp là con cháu của chủ rạp Lê Lợi nên chúng tôi hay ‘dí’ hắn để
kiếm vé mời xem xi nê ở rạp này khỏi tốn tiền, chỉ phải đóng tiền thuế rất nhẹ
mà thôi.
Khi qua đến Mỹ,
tôi mới được biết loại rạp xi nê này được gọi là ‘revival movie theater’, chỉ
khác một chi tiết là họ chiếu hai phim liên tiếp cùng có chủ đề giống nhau. Ai
chịu đựng nổi thì ngồi xem hết, ai chịu không nổi thì phải bỏ về thôi vì quá đói
bụng, họ không cho đem thức ăn từ ngoài rạp vào và trong rạp chỉ có bán popcorn
(bắp rang Mỹ), kẹo, bánh, soda (nước ngọt có ga như: Coca Cola,
7Up…).
Thời đó vào đầu
thập niên 80, video cassette vừa mới xuất hiện chưa có ra phim nhiều, những phim
Âu Châu rất hiếm, chỉ có thể xem tại các rạp revival này. Rạp Nuart là một, rạp
này nằm ở tận Santa Monica cách xa sở làm của tôi cả tiếng đồng hồ lái xe, nhưng
khi gặp phim đã kết thì giá nào cũng đi xem cho được. Buổi chiều vừa ra khỏi sở
là phóng xe ào ào cho kịp giờ chiếu phim, vào rạp mua một bịt popcorn rồi tử thủ
xem cho hết luôn hai phim. Cũng may là popcorn giúp cơ thể chống đói rất hay,
nếu chịu không nổi nữa thì có kẹo chocolate, chơi vào một cây ‘Three Musketeers’
là bao tử êm ngay. Tôi học cái bí quyết này từ mấy cô gái Mỹ, đi chơi với họ rất
tự nhiên thoải mái. Khi date họ mà trong túi lại ít tiền thì mấy cô ấy bảo cứ
mua cho họ một thỏi chocolate là xong, khỏi cần ăn tối để đi chơi mục
khác.
Lệ Thanh – Phan
Phú Tiên, Chợ Lớn.
Lido – Đồng
Khánh, Chợ Lớn. Rạp này có một lịch sử khá ly kỳ. Rạp nằm trong vùng Chợ Lớn
cạnh Đại Thế Giới cũ chuyên chiếu phim Âu Mỹ trong khi các rạp chung quanh đều
chiếu phim Tàu. Đến cuối thập niên 60, rạp ngưng hoạt động để cho Mỹ mướn làm
khu cư trú và câu lạc bộ. Sau năm 1975, rạp hoạt động chiếu phim trở lại và chỉ
mới gần đây, rạp đã bị đập phá ra để nhường chổ cho một công trình xây dựng nhà
cao tầng hay gì đó. Bạn nào có kỷ niệm đẹp hay quyến luyến rạp này thì chỉ còn
có thể nhớ qua ký ức mà thôi vì rạp đã biến mất không còn nữa.
Kỷ niệm của cá
nhân tôi đối với rạp này cũng khó quên. Khi còn học ở bậc tiểu học, cha mẹ tôi
cho tôi vào nội trú vì gia đình ở tỉnh xa, mỗi lần vào Sài Gòn rước tôi ra chơi
thì lưu trú ở khách sạn Kim Linh đối diện với rạp Lido. Có lần tôi đã mò qua xem
một phim của ông già cao bồi Randolph Scott. Về sau, khi chơi nhạc cho các club
Mỹ, có lần tôi cộng tác với anh Ngọc Hàm tự là Hàm Râu vì anh để râu giống như
Nguyễn Cao Kỳ và cũng hay giả giọng của vị tướng này rất là giống. Tôi thật sự
khâm phục biệt tài ăn nói trước khán giả của anh, ngay cả khán giả Mỹ cũng phải
lăn ra cười khi anh diễu trên sân khấu. Không biết anh học những cái tếu đó ở
đâu hoặc chính anh tự nghĩ ra mà quá hay. Vào khoảng năm 1969, anh đang là luật
sư tập sự và cũng là trưởng ban nhạc do anh lập ra, nhạc sĩ của ban nhạc thường
là ráp nối, ít ai cộng tác lâu dài có lẽ vì không có duyên với anh hay sao đó.
Hôm đó, anh lãnh một show chơi nhạc cho Mỹ tại club Lido. Thành phần gồm có:
Ngọc Hàm (keyboard, vocal), Ngọc Hải (lead guitar, vocal) lúc đó cũng đang tập
sự luật sư, Đăng Chí (bass guitar, vocal), tôi không còn nhớ tay trống là ai, ca
sĩ có Connie Kim lúc đó chúng tôi thường hay gọi cô bằng tên Phượng. Như vậy, có
thể nói ban nhạc chúng tôi xem như là trí thức nhất rồi vì lúc đó tôi cũng đang
theo học Luật Khoa và sau này đã lấy bằng Cữ Nhân Luật Khoa Công Pháp vào năm
1973.
Được dịp chơi
nhạc ngay phố phường Sài Gòn, Chợ Lớn, chúng tôi rất thích thú thay vì phải di
chuyển xa xôi ra các đơn vị tiền đồn của quân đội Mỹ như ở Phước Thành chẳng
hạn. Đây là một căn cứ hỏa lực (fire base), khi đi chơi nhạc, xe van của chúng
tôi phải chạy lên Dĩ An, rồi từ đó chiếc trực thăng Chinook CH-47 nuốt chửng
nguyên chiếc xe van có ban nhạc chúng tôi ngồi trong đó, xong nhả ra tại căn cứ.
Chúng tôi chơi nhạc giữa lúc những khẩu đại pháo gà cồ khạc đạn ầm ĩ rung rinh
cả barrack và sân khấu trình diễn.
Trở lại chuyện
Lido, Ngọc Hải và tôi nhận thấy còn khá nhiều thì giờ trước khi trình diễn nên
hai đứa thả bộ lang thang trên đường Đồng Khánh. Mãi mê nhìn ngắm thiên hạ nhất
là mấy cô xẩm duyên dáng nên khi quay trở về club Lido thì đã trễ đi một chút.
Ngọc Hàm bèn mắng hai đứa chúng tôi bằng một câu xem như là trí thức như sau:
“Hai đứa bây tưởng tụi bây là ai?”. Ngọc Hải và tôi chỉ còn nước ngậm
câm.
Chính Ngọc Hàm
cũng đã làm thay đổi hẳn cuộc đời chơi nhạc của tôi. Trước khi gặp Ngọc Hàm, tôi
còn chơi rhythm guitar (guitare d’accords hay accompagnement) rồi từ khi chơi
nhạc với Ngọc Hàm lúc đó đang cần một tay bass nên anh bảo tôi chuyển qua đánh
bass. Cũng nhờ đó mà sau này khi chuyển qua nhà nghề chơi nhạc với các nhạc sĩ
đàn anh suông sẽ hơn lại còn nhờ biết ca hát, gọi là bass ca, nên lương bổng
cũng cao hơn một tí.
Long Duyên – Hồ
Văn Ngà.
Long Phụng – Gia
Long, chuyên chiếu phim Ấn Độ.
Long Thuận –
Trương Công Định và Nguyễn An Ninh.
Long Vân – Phan
Thanh Giản. “El Dorado” (1966).
Rạp Long Vân,
thời điểm không rỏ. (Ảnh từ Internet.)
Majestic – Tự Do.
Rạp đã ngưng hoạt động từ trước 1975. Nơi đây được xây thành vũ trường Maxim
tầng trên và sân khấu trình diễn ca vũ nhạc kịch tầng dưới do nhạc sĩ Hoàng Thi
Thơ phụ trách. “Les Portes Claquent” (1960).
Minh Châu –
Trương Minh Giảng.
Minh Phụng – Hồng
Bàng, Chợ Lớn. Thật ra, nơi đây là đình Minh Phụng, khi xưa có lúc khai thác
chiếu phim ban ngày.
Mini Rex – Lê
Lơị. “Paint Your Wagon” (1969).
Moderne – Trần
Văn Thạch, Tân Định. Tôi không có duyên với rạp này nên chưa bao giờ có dịp bước
chân vào. Theo lời một thân hữu, rạp này có vài ba đặc điểm: lối vào rạp đâm
ngang hông phía giữa những hàng ghế, ghế bằng cây nên khi dứt phim khán giả cùng
đứng dậy làm cho ghế cây khua lên rầm rầm, và cũng vì ghế cây nên đoàn quân rệp
tha hồ cắn phá đám khán giả trong bóng tối của buổi chiếu phim.
Mỹ Đô – Trần Nhân
Tôn và Vĩnh Viễn. Tên xưa là Thành Chung, tên mới là Vườn Lài.
Rạp Mỹ Đô ngày
nay.
Nam Quang – Lê
Văn Duyệt và Trần Quý Cáp.
Nam Tiến – Bến
Vân Đồn.
Nam Việt – Tôn
Thất Đạm, Chợ Củ. “The Bravados” (1958).
Nguyễn Huệ –
Nguyễn Huệ. Rạp đã ngưng hoạt động từ trước 1975. Về sau là cơ sở U.S.O..
“Journey to the Center of the Earth” (1959).
Nguyễn Văn Hảo –
Trần Hưng Đạo.
Olympic – Hồng
Thập Tự. “To Hell And Back” (L’Enfer des Hommes (1955)).
Oscar – Trần Hưng
Đạo, Chợ Lớn.
Phi Long – Xóm
Củi.
Palace – Trần
Hưng Đạo, Chợ Lớn.
Rạp Palace ngày
nay.
Quốc Thái – Trần
Quốc Toản, Chợ Lớn.
Quốc Thanh –
Nguyễn Trải.
Rạng Đông –
Pasteur. Tên cũ là Hồng Bàng. “The Ambassador’s Daughter”
(1956).
Rex – Nguyễn Huệ.
“Dirty Harry” (1971), “Le Passager de la Pluie” (1969).
Thanh Bình – Phạm
Ngũ Lão. “Le Magnifique” (1973).
Thanh Vân – Lê
Văn Duyệt, Hòa Hưng.
Thủ Đô – Tổng Đốc
Phương, Chợ Lớn. Tên cũ là Eden.
Trung Hoa – Đồng
Khánh, trước nhà thờ Cha Tam, Chợ Lớn.
Văn Cầm – Trần
Hưng Đạo. Rạp đã ngưng hoạt động từ trước 1975. Về sau là đại lý Honda đầu tiên
tại Việt Nam.
Văn Cầm – Võ Di
Nguy, Phú Nhuận. Rạp này có cái lệ luôn luôn chiếu một phim ngắn của 3 anh hề
‘Stooges’ trước khi chiếu phim chính. Rạp rất rẻ tiền không có máy lạnh nên rất
ngộp thở. Tôi không bao giờ ngồi vào ghế mà lúc nào cũng đứng phía sau cùng nơi
có cái màn đen che ánh sáng. Khi nào ngộp thở quá thì vén màn thò đầu ra ngoài
thở không khí mát một chút rồi thả màn ra coi tiếp.
Vào năm 1961, tôi
đang theo học lớp 5e chương trình Pháp (đệ lục chương trình Việt hoặc lớp 7 bây
giờ) ở trường Taberd. Khoảng thời gian đó, tôi mê xem xi nê rạp Văn Cầm gần nơi
tôi ở đến độ bỏ đi consigne (bị phạt phải vào lớp chiều Thứ Báy lúc nghỉ học)
nên bị mấy sư huynh hành hạ tơi bời nhớ đời luôn khiến tôi không thể nào quên
được cái khoảng đời học sinh tương đối đen tối của lúc đó.
Mời các bạn click
vào những giòng dưới đây để xem lại những phim ngắn của mấy anh chàng
Stooges.
Văn Hoa – Trần
Quang Khải, Đa Kao
Rạp Văn Hoa ngày
nay.
Văn Lang – Cách
Mạng, Phú Nhuận.
Victory Lê Ngọc –
Tổng Đốc Phương, Chợ Lớn.
Việt Long – Cao
Thắng.
Vĩnh Lợi – Lê
Lợi. Khoảng đầu thập niên 60, có xảy ra một vụ nổ lựu đạn trong rạp, có người bị
thương nặng phải cưa chân. “Deliverance” (1972).Rạp này chuyên chiếu phim Pháp
và Phim xưa, giá vé rẻ và có thể ngồi cả ngày chung với nhóm P.D
Ngoài những rạp
xi-nê bình thường còn phải kể đến những nơi có chiếu phim không bán
vé.
Trường Taberd.
Thỉnh thoảng các sư huynh chiếu phim cho học sinh xem vào chiều cuối tuần không
có lớp học, phim thì cũ rích, máy thì nhỏ chỉ đủ xem trong phòng lớp. Về sau
này, khi có auditorium khang trang với balcon đàng hoàng không thua gì các rạp
xi-nê lớn ngoài phố. Tôi được xem phim “Ivanhoe” (1952) ở đây. Học sinh nội trú
Taberd được xem phim mỗi tối Chúa Nhật. Phim tôi nhớ nhất là “Titanic” (1953)
lúc tàu đang chìm, ban nhạc và những người ở lại với chiếc tàu cùng nhau hát bài
“Chúa ơi con nay gần kề…” thật cảm động. Mặc dù bị đám học sinh nội trú chê là
“ciné Taberd toujours local”, các sư huynh ở đây tiến bộ hơn các sư huynh ở
tỉnh, những pha cụp lạc hôn hít vẫn được tôn trọng để nguyên cho học sinh xem.
Trái lại, khi tôi học nội trú ở trường Saint Joseph, Mỹ Tho, phim nào có cảnh
hôn hít đều bị cắt xén trước khi chiếu. Có lần, vì không kịp kiểm duyệt trước
nên lúc chiếu có màn hôn hít, sư huynh phụ trách bèn điều chỉnh cho hình ảnh mờ
đi chẳng còn thấy cái gì mặc cho đám học sinh la ó om xòm.
Đơn vị Công Binh.
Nhà của tôi ở gần một căn cứ quân đội. Một thượng sĩ được lệnh chiếu phim mỗi
tuần vài ba đêm cho trại gia binh xem. Phim thuộc loại 16mm mượn của quân đội
Hoa kỳ nên dĩ nhiên là chẳng có phụ đề Việt ngữ gì cả. Ngược lại, phim rất mới
và không có chiếu ngoài rạp Sài Gòn, hoặc ít ra cũng phải một hay hai năm sau
mới có chiếu như phim “Les Félins” (1964). Điểm ngộ nghĩnh của nơi chiếu phim
này là người chiếu phim lại cần đến khán giả. Những phim nào dễ hiểu thì bà con
còn coi cho vui, phim nào khó hiểu thì bà con bỏ đi về hết một phần vì trời tối
khuya khoắc. Có lần chỉ còn tôi và một người bạn ráng ở lại để cho thượng sĩ phụ
trách vui lòng. Một điểm kỹ thuật là máy chiếu phim không có hoặc hư hoặc mất
cái ống kính chiếu phim đại vỹ tuyến nên gặp phim loại nà̉y là hình ảnh cứ dẹp
đép theo chiều đứng. Thượng sĩ chiếu phim bèn nghĩ ra cách là để máy chiếu nằm
chéo góc với màn ảnh nên xem cũng tạm tạm mặc dù một bên lớn, một bên nhỏ. Tôi
được xem những phim độc đáo như “Goldfinger” (1964), “She”
(1965)…
Câu Lạc Bộ Mỹ.
Nhờ chơi nhạc trong các căn cứ quân đội Hoa Kỳ, tôi được mấy anh G.I.s mời trở
lại thăm viếng và cùng xem xi-nê với họ. Như đã nói, đây là những phim 16mm nhằm
giải trí cho quân nhân Hoa Kỳ. Tôi được xem phim “Your Cheatin’ Heart” (1964) kể
lại cuộc đời của ca sĩ nhạc country Hank Williams. Phim loại này chắc chắn khó
được các nhà phân phối phim Sài Gòn mua nhập vì người Sài Gòn có thể nói rằng
chẳng hề biết Hank Williams là ai cả. Nói về nhập cảng phim, tôi vẫn còn nhớ đến
hảng Cosunam khi mở đầu phim luôn có cảnh bộ lư đang hun khói cùng với đoạn nhạc
hiệu lập đi lập lại nghe đến phát chán. Ngoài ra còn có hảng Mỹ Vân đã đóng góp
rất nhiều cho nền điện ảnh Sài Gòn qua phần nhập cảng, chuyển âm và sản xuất
phim.
Đài Truyền Hình
Số 11. Khai sinh cùng lúc với Đài Truyền Hình Số 9, Đài 11 của quân đội Hoa Kỳ
nhằm thông tin và giải trí cho quân nhân và nhân viên Mỹ ở Sài Gòn. Tiết mục
chương trình có phần chiếu phim. Nhiều phim rất hay đã được chiếu qua Đài 11.
Tôi còn nhớ có phim “The Last Man on Earth” (1964) do Vincent Price đóng. Về
sau, rạp ở Sài Gòn có chiếu phim “The Omega Man” (1971) do Charlton Heston đóng
với cốt chuyện tương tự nói về người sống sót cuối cùng trên địa cầu…. Đài 11
tồn tại cho đến sau khi Hiệp Định Paris được ký kết năm 1973 và toàn bộ cơ cấu
quân đội Hoa Kỳ rút đi. Những đêm cuối cùng trước khi Đài 11 tắt sóng, tôi được
xem phim “Un Homme et une Femme” / “A Man and a Woman” (1966).
Hội trường của
công ty Shell. Được biết ở đây có chiếu phim, tôi đến xem phim “Play Misty For
Me” (1971). Chỉ xem có một lần nên không biết có chiếu nhiều lần hay không, nếu
có thì tôi đã bỏ lỡ cơ hội rất tốt vì căn cứ theo phim đã xem thì nơi này chọn
lựa phim rất hay.
nguồn :
Rạp Hưng Đạo (gần góc đường Nguyễn Cư Trinh - Trần Hưng Đạo)