maandag 30 augustus 2021

Những người Việt giúp cải tiến gạo Pháp ở Camargue trong Thế Chiến II + Phim "Gạo đắng", số phận nông dân Việt Nam ở vùng Camargue

 

Những người Việt giúp cải tiến gạo Pháp ở Camargue trong Thế Chiến II

Phần âm thanh 09:42
Công trình "Nhớ ơn 20.000 công nhân người Việt Nam đã bị trưng dụng từ năm 1939 đến 1952" tại chi nhánh tòa thị chính Arles ở Salin-de-Giraud, Pháp.
Công trình "Nhớ ơn 20.000 công nhân người Việt Nam đã bị trưng dụng từ năm 1939 đến 1952" tại chi nhánh tòa thị chính Arles ở Salin-de-Giraud, Pháp. © RFI / Tiếng Việt / Thu Hằng

Có khoảng 20.000 công nhân Việt Nam đã bị trưng dụng sang Pháp làm việc ở miền Nam trong các nhà máy phục vụ Thế Chiến II. Đa số hồi hương, nhưng cũng có nhiều người yên nghỉ tại “Mẫu Quốc”. Sau thời gian dài ít được nhắc đến, công lao và sự hi sinh của họ đã được ghi nhận ở nhiều thành phố vùng Provence, như Aix-en-Provence, Fréjus, Toulon, Saint-Chamas, Salin-de-Giraud, Montpellier…


Nằm trong vùng Camargue, ở cửa sông Rhône, phía nam thành phố Arles, thị xã Salin-de-Giraud là nơi lưu lại nhiều di tích lịch sử về sự hiện diện của những người lính thợ Đông Dương tại Pháp trong cả hai cuộc Thế Chiến. Công lao của họ, sự hi sinh vì Mẫu Quốc được ghi trên công trình tưởng niệm dựng ngày 05/10/2014 trong khuôn viên chi nhánh thị chính Arles ở Salin-de-Giraud :

“Nhớ ơn hai mươi ngàn công nhân người Việt Nam đã bị trưng dụng từ năm 1939 đến 1952. Để tưởng niệm lịch sử những người thợ Việt Nam tại Pháp và tưởng niệm những ai đã qua đời trên đất Pháp”.

Ý tưởng khôi phục sự thật về công lao của những người lính thợ Việt Nam xuất phát từ năm 2002 nhờ Lê Hữu Thọ, một cựu giám thị-phiên dịch cho một nhóm “Công binh” Đông Dương tại Camargue. Sau đó, công việc được hậu duệ của một số người ở lại Pháp tiếp tục; đặc biệt là “ba anh em họ Trịnh” ở Salin-de-Giraud, với sự hỗ trợ của một số sử gia, nhà báo.

Ông Claude Trịnh, hội M.O.I., một trong những người thực hiện dự án dựng công trình tưởng nhớ công lao của lính thợ Việt Nam tại Salin-de-Giraud, Pháp, ngày 10/08/2021.
Ông Claude Trịnh, hội M.O.I., một trong những người thực hiện dự án dựng công trình tưởng nhớ công lao của lính thợ Việt Nam tại Salin-de-Giraud, Pháp, ngày 10/08/2021. © RFI / Tiếng Việt / Thu Hằng

Nếu hỏi ông Claude Trịnh ở Salin-de-Giraud, nhiều người sẽ mất vài giây để trả lời, nhưng nếu hỏi “Ông Bộ” (Monsieur Bo) thì tất cả đều “Ồ, biết” ngay lập tức. Mọi người quen gọi ông bằng tên của cha ông là Trịnh Văn Bộ, cựu thông dịch viên của đại đội 13 ở Salin-de-Giraud trong Thế Chiến II. Công trình nhớ ơn những người lính thợ Việt Nam, trong đó có người cha Trịnh Văn Bộ, là nỗ lực không ngừng nghỉ trong hai năm của “anh em họ Trịnh” và nhiều người khác.

“Người đã ủng hộ chúng tôi lập công trình tưởng niệm lính Đông Dương là ông Hervé Schiavetti, lúc đó là thị trưởng Arles, từng học chung với em trai tôi Fabrice. Khi chúng tôi tìm một địa điểm để đặt công trình kỉ niệm, ông Schiavetti đã cho chúng tôi vị trí này, như tôi đề nghị với ông ấy trước đó là thuộc nước Cộng Hòa Pháp, chứ không phải trên mảnh đất của một công ty tư nhân.

Trước đó, nhiều công ty tư nhân, trong đó có công ty Salins du Midi, đã đề nghị chúng tôi dựng công trình tưởng niệm những người thợ Đông Dương trên đất của họ, nhưng chúng tôi giải thích với họ là muốn công trình được dựng tại một khu vực thuộc nước Cộng Hòa Pháp.

Ý tưởng ban đầu xuất phát từ một cuốn sách của Lê Hữu Thọ. Trong sách, ông cho rằng một ngày nào đó phải ghi công những người thợ Việt Nam làm việc trên những cánh đồng ở vùng Camargue. Lúc đó, chúng tôi chưa nhắc đến việc dựng bia, nhưng sau đó ý tưởng từng bước được hình thành. Đây là công việc anh em chúng tôi làm cùng với nhiều người khác. Ý tưởng dựng bia chủ yếu là do anh trai tôi, làm kỹ thuật viên ngành công nghiệp, lúc đó là chủ tịch hội M.O.I. (Mémoire des Ouvriers Indochinois, Tưởng nhớ Công nhân Đông Dương). Và dự án dựng bia đã được tiến hành như thế”.

Nhà nông Việt ở Camargue

Công trình kỉ niệm bằng sắt là hình một người thợ Việt Nam, đầu cuốn khăn để tránh nắng chứ không phải đội nón, cuốc vác trên vai, quần xắn trên đầu gối, chân ngập trong bùn nên không thể thấy bàn chân. Phía dưới là bó lúa, nhưng theo ông Claude Trịnh, chi tiết này nằm ngoài thiết kế, được thêm về sau, để gia cố công trình và tránh tai nạn.

“Đây là tác phẩm của nghệ sĩ-họa sĩ Lebadang (tên thật Lê Bá Đảng). Chúng tôi đã đề nghị Lê Bá Đảng làm việc gì đó, vì ông cũng là một cựu lính thợ Đông Dương. Sau đó ông học trường Mỹ Thuật và trở thành một nghệ sĩ nổi tiếng thế giới mà ở Huế có cả một trung tâm nghệ thuật mang tên ông. Ông là một nghệ sĩ lớn, rất dễ gần, tiếc là ông đã qua đời.

Bia tưởng niệm mang hình ảnh mà Lê Bá Đảng muốn thể hiện cho những “người bạn cũ” của họa sĩ vì bản thân ông cũng bị trưng dụng và sống cùng với những người lính thợ Đông Dương.

Lê Bá Đảng là người thiết kế công trình này. Nhưng ý tưởng về một công trình ghi công ở vùng Camargue là của ông Lê Hữu Thọ, tác giả cuốn Itinéraire d’un petit mandarin(tạm dịch : Hành trình của một vị quan nhỏ). Trong cuốn sách, ông nói là mong một ngày nào đó ở vùng Camargue sẽ có một công trình tưởng niệm những người lính thợ đến sống và làm việc ở đó”.

Bước ra khỏi thị xã là vùng đầm lầy và cánh đồng rộng mênh mông, hiện nằm trong Công viên Tự nhiên Vùng Camargue (Parc naturel régional de Camargue). Mọi kí ức vẫn như xưa trong tâm trí người con trai thứ hai của thông dịch viên Trịnh Văn Bộ : Khu nhà tập thể dành cho người lao động nước ngoài, trong đó có người Việt, bên cạnh là một vài biệt thự của giám đốc hoặc đốc công ; khu trang trại nơi ông ngoại của ông làm quản lý và cũng là nơi cha mẹ ông gặp nhau lần đầu trước khi nên vợ chồng. Nhiều dãy nhà tập thể xưa vẫn còn đó, được trùng tu và hiện thành một xóm nhỏ. Nhưng cũng có những dãy nhà chỉ còn trơ lại trụ bê tông. Xa hơn nữa là vết tích của nhà máy sản xuất thuốc súng thời Thế Chiến I, nơi cũng có rất nhiều lính thợ Đông Dương làm việc : Hầu hết các dãy nhà hình vòm đã đổ nát, bị bỏ hoang, duy một dãy được giao cho Nhà Thờ Chính Thống Giáo của cộng đồng người Hy Lạp trùng tu sử dụng.

“Trước đây từng có khoảng 1.500 công nhân Việt Nam làm việc ở ruộng muối, khoảng 800 làm việc trên ruộng lúa theo các toán luân phiên, có nghĩa là không phải tập trung cùng lúc chừng đó người. Ngoài ra còn phải kể đến yếu tố dịch bệnh. Nhiều nhóm đến đây rồi vài công nhân mắc bệnh và dần dần họ không thể tiếp tục làm việc. Thế là các toán đó bị đưa đi nơi khác, và những người mới đến thay thế. Cứ luân phiên như thế, tùy theo tình hình sức khỏe của công nhân. Rồi điều kiện làm việc, điện kiện sống cũng rất khó khăn cũng khiến nhiều người bị ốm. Khi đội nào bị ốm thì người ta lại điều một đội khác tới. Vì thế có rất nhiều người đã đi qua đây”.

Dãy nhà tập thể trước dành cho người lao động Đông Dương, hiện được trùng tu và trở thành nhà riêng, Salin-de-Giraud, Pháp, ngày 10/08/2021.
Dãy nhà tập thể trước dành cho người lao động Đông Dương, hiện được trùng tu và trở thành nhà riêng, Salin-de-Giraud, Pháp, ngày 10/08/2021. © RFI / Tiếng Việt / Thu Hằng

Những con người bị bỏ quên trong lịch sử

Trước những năm 2010, công sức của người Việt trong ngành trồng lúa ở Camargue không được nhắc đến, hoặc do thiếu hiểu biết, hoặc do bị cố tình tranh công. Phải chờ đến năm 2014, công lao của họ mới được chính thức ghi nhận trong bài diễn văn của ông Bernard Mazel, chủ tịch Công đoàn những nhà trồng lúa, đọc tại lễ khánh thành bia tưởng niệm “Những người công nhân Việt Nam” tại Salin-de-Giraud : “Ngành trồng lúa của Pháp nợ các vị rất nhiều và người dân vùng Camarge sẽ không bao giờ quên các vị”.

Còn ông Claude Trịnh nhấn mạnh không được quên là chính lính thợ Đông Dương là những người tiên phong làm ra gạo ăn có chất lượng ở Camargue.

“Tất cả những người lính thợ Đông Dương bị trưng dụng làm việc trong hầu hết các trang trại ở đây. Họ làm việc cả hai bên tả và hữu ngạn sông Rhône, trên những cánh đồng muốn ở Salin du Caban, hay ở Fos-sur-Mer… Có 18 trang trại ở vùng Camargue và lính thợ Đông Dương được tuyển dụng làm việc khắp nơi này.

Vào tháng 06/1940, khi Pháp bại trận và bị quân Đức chiếm đóng, chính quyền Vichy thời đó đặt câu hỏi làm gì với những lao động Việt Nam không còn làm việc trong những nhà máy sản xuất thuốc súng nữa, vì không còn chiến tranh chống phát xít Đức. Vì thế họ yêu cầu các công ty tư nhân tuyển dụng những người đó. Tiếp theo là câu hỏi : Làm gì với họ ? Mỗi người một ý. Rồi bộ trưởng Thuộc Địa Georges Mandel đưa ra ý tưởng : Vì đó là những người nông dân bị kéo khỏi ruộng, còn vùng Camargue có địa chất hơi giống Việt Nam, vậy tại sao lại không phát triển gạo ăn ? Thực ra, lúc đó vùng Camargue có trồng lúa, nhưng chỉ dành cho súc vật và họ không biết trồng lúa ăn, có chất lượng.

Cuối cùng, họ quyết định tranh thủ cơ hội này, đưa những người công nhân Việt đến những trang trại cần nhân lực. Một số người đến trồng thử, rồi họ tới làm việc ngoài đồng thành những nhóm nhỏ để trồng ra loại lúa chất lượng, ăn được. Sau đó, công việc này được người Tây Ban Nha, người Ý từ vùng Piedmont tiếp tục và dần được hiện đại hóa”.

Từ lúc cấy đến mùa gặt, công nhân Việt Nam được giao làm những công việc khác trong các trang trại, từ trồng rau, thu hoạch hoa quả, chăm sóc ruộng nho hay chăn cừu… Họ chỉ được trả lương bằng 1/10 người lao động Pháp thời đó. Thế nhưng, một nửa số lương bị giữ lại và chỉ trả khi nào họ về nước. Lý thuyết là vậy, còn trên thực tế, họ không hề biết hình thù của “khoản tiết kiệm” đó.

Thiệt thòi, đau khổ, họ đều gắng chịu. Ngay cả những người lập gia đình ở lại Pháp cũng ít kể lại cho con cháu, như trường hợp của “anh em nhà Trịnh”. Theo ông Claude Trịnh, thế hệ của cha họ là thế, “đều là những người rất kín tiếng. Họ không phải là kiểu người thích kể lại chuyện đời mình. Họ đã phải chịu đựng, đau khổ nên họ không nói.

Một phần của nhà máy thuốc súng Salin-de-Giraud trong Thế Chiến I, hiện bị bỏ hoang, ngày 10/08/2021.
Một phần của nhà máy thuốc súng Salin-de-Giraud trong Thế Chiến I, hiện bị bỏ hoang, ngày 10/08/2021. © RFI / Tiếng Việt / Thu Hằng

Những bí mật dần được tiết lộ với thời gian, khi con cháu của họ muốn tìm về nguồn cội, như “anh em nhà Trịnh” sau khi cha mất vào năm 1972, và khi nhiều nhà nghiên cứu Pháp muốn làm sáng tỏ những góc khuất trong lịch sử :

Đối với chúng tôi, câu chuyện được khơi lại nhờ một nhà báo tên là Pierre Daum của tờ Le Monde Diplomatique. Khi viết cuốn sách Immigrés de force  (tạm dịch : Di cư cưỡng bức), ông muốn gợi lại một chút câu chuyện của những người lính thợ Đông Dương. Ông gặp và nói chuyện với chúng tôi.

Về phần mình, chúng tôi vẫn sống cùng với những câu chuyện người lính thợ Đông Dương. Cha tôi là đảng viên đảng Cộng Sản Việt Nam, chi bộ ở Pháp, và luôn đấu tranh cho độc lập của Việt Nam trong cuộc chiến Đông Dương và sau này là chiến tranh Việt Nam. Họ thường xuyên họp, quyên góp và gửi tiền về Việt Nam. Cha tôi luôn dấn thân trong các phong trào như vậy.

Dù lúc nhỏ, chúng tôi không quan tâm, nhưng chúng tôi chứng kiến và phần nào đó cũng can dự, như thỉnh hoảng tôi lấy ô tô chở cha tôi đi họp ở Sorgues, Nimes, Port de Bouc hay ở Marseille… Họ thường xuyên tổ chức họp chi bộ, đưa ra quyết định, hay quyên góp tiền. Tóm lại là họ luôn đấu tranh vì đất nước mình dù đang ở Pháp”.

Những người Việt giúp cải tiến gạo Pháp ở Camargue trong Thế Chiến II - Tạp chí Việt Nam (rfi.fr)

Phim "Gạo đắng", số phận nông dân Việt Nam ở vùng Camargue

Phần âm thanh 17:35
Nông dân Đông Dương làm ruộng tại vùng Camargue, Pháp.
Nông dân Đông Dương làm ruộng tại vùng Camargue, Pháp. DR

Năm 1941, trong khi chính phủ Vichy phải trông cậy vào nguồn nhân lực nhập cư từ các thuộc địa, hàng chục ngàn lính thợ Đông Dương được tuyển mộ để tới Pháp, không phải để chiến đấu trên những chiến tuyến máu lửa, mà để tham gia vào việc sản xuất và canh tác nhằm cứu sống đất nước khỏi thiếu thốn và đói nghèo.


“Gạo đắng” là câu chuyện kể lại quá trình người Việt Nam trồng lúa gạo tại Camargue, vùng Midi của Pháp, trong Đệ Nhị Thế Chiến. Bộ phim tài liệu được Alain Lewkowicz chuyển thể dựa trên một tác phẩm của Pierre Daum dưới tựa đề “Cưỡng ép nhập cư, những người lao động Đông Dương tại Pháp” (NXB Actes Sud). Trước khi được chiếu trên kênh truyền hình quốc gia France 3 vào tháng 06/2015, với đề xuất của nhóm hữu nghị Pháp-Việt của Nghị viện Pháp, bộ phim đã được chiếu tại Hạ viện ngày 05/05 dưới sự bảo trợ của chủ tịch Hạ viện Claude Bartelone với mục đích sửa chữa sự lãng quên và bất công mà những người lao động Đông Dương đã phải chịu đựng.

Đi tìm sự thật bị che giấu…

Câu chuyện bắt đầu vào cuối năm 2002, khi Lê Hữu Thọ, hiện đã qua đời, từng là một phiên dịch của một nhóm “Công binh” Đông Dương tại Camargue, tới thăm Bảo tàng Lúa gạo do ông Robert Bon quản lý tại Le Sembuc. Tại đây, ông ngạc nhiên nhận thấy bảo tàng không trưng bày bất kỳ một hình ảnh, hay một tư liệu nào liên quan tới những người đồng hương, từng cày cấy trong vòng 2 năm, 1941-1943, tại vùng Camargue.

Sau nhiều cuộc trao đổi qua điện thoại với người quản lý bảo tàng, Lê Hữu Thọ viết : “Để tiếp nối cuộc nói chuyện điện thoại ngày 11/12/2002, tôi xin gửi tới ông một số tài liệu liên quan đến nguồn gốc lịch sử của ngành trồng lúa gạo tại Camargue cho phép ông sửa lại một lỗi lầm lịch sử trong bản tưởng niệm (la mémoire) tại bảo tàng của ông. Đáng tiếc là ông đã che giấu ký ức về những người nông dân chính của ngành sản xuất lúa gạo tại Camargue. Đây là công trình của những người lao động, thuộc quân đoàn 2 nhân lực Đông Dương vào năm 1941, khi đang bị phát xít Đức chiếm đóng.

Những người tự cho hiểu biết Lịch Sử sau Đệ Nhị Thế Chiến đều ngạc nhiên khi biết rằng có 20.000 người lao động và 15.000 lính Đông Dương (hay còn gọi là Việt Nam) bị trưng bắt trong những năm 1939-1940 để hỗ trợ cho cuộc chiến của nước Pháp trong Thế Chiến. Phần lớn trong số họ là những nông dân giỏi tại Việt Nam. Sau khi Đình Chiến vào tháng 06/1940, 20.000 người Việt Nam đã sống tám năm lưu vong trên đất Pháp (1940-1948).

Trong thời gian này, nhiều người trong số họ đã có đủ thời gian tháo cạn những bãi đầm lầy của vùng Camargue và trồng lúa tại đây. Từ đó, ngành trồng lúa trên mảnh đất vùng Provence đã được khai sinh...”. Kèm theo bức thư, ông gửi rất nhiều tài liệu liên quan, cùng với những bức hình chụp người nông dân Việt Nam đang làm việc ngoài ruộng hay đang nghỉ giải lao. Robert Bon hiểu rằng Lê Hữu Thọ hoàn toàn đúng.

20.000 lao động Việt Nam sang giúp Mẫu Quốc khó khăn

20.000 lao động Đông Dương bị tuyển mộ cưỡng bức theo một sắc luật ngày 29/08/1939. Họ làm nghề nông, xuất thân chủ yếu từ các vùng nông thôn nghèo ở Bắc và Trung Kỳ. Bị chụp ảnh rồi đánh số, 20.000 lính thợ Đông Dương phải tuân thủ kỷ luật quân đội.

Ông Nguyễn Ngọc Châu, nhân chứng còn sống cuối cùng, nhớ lại : “Trước năm 1939, người ta nhìn thấy những tấm áp phích ghi rằng : “Mẫu Quốc đang gặp nguy. Nghĩa vụ của bạn là giúp đỡ Mẫu Quốc”. Điều này khiến mọi người xúc động. Vì tôi học trường Pháp, nên tôi chấp nhận ra đi. Hơn nữa, với chúng tôi, đó là cơ hội để nhìn thấy nước Pháp. Tôi gia nhập với tư cách là giám thị-phiên dịch.

Chúng tôi, những người phiên dịch, cùng với các quan chức địa phương, tới nhiều ngôi làng khác nhau để mộ phu. Ví dụ một làng có 20 hộ gia đình, thì phải tuyển đủ 20 người. Đúng kiểu bắt buộc. Nhiều gia đình có 3, 4 con. Trong trường hợp, ví dụ, người con trai cả, 35 tuổi, đã có gia đình và có 3, 4 người con, thì người con thứ hai hoặc thứ ba phải đi thay. Nếu gia đình không có con trai thứ nào để thay thế, thì người con cả, dù đã có gia đình và con cái, vẫn bị bắt buộc đi. Chính vì thế, trong thời kỳ đó, trong đoàn của chúng tôi, có nhiều người đã khoảng 30-35 tuổi”.

Được đưa lên trên 14 con tàu giống nhau, trong khoảng thời gian từ giữa tháng 10/1939 tới tháng 05/1940, 20.000 người thợ Đông Dương rời cảng Hải Phòng lênh đênh trên biển và cập cảng Marseille, miền Nam nước Pháp. Mỗi chuyến đi kéo dài tới 48 ngày, khiến nhiều người ốm và say sóng vì lần đầu tiên đi biển.

Tất cả lính thợ trên con tàu của ông Lê Hữu Thọ được chuyển tới tạm trú tại nhà tù cũ Baumette ở Marseille, nơi duy nhất có đủ chỗ chứa mọi người. Ông Nguyễn Ngọc Châu nhớ lại, mọi người đều không biết trước đó là nhà tù, mãi sau này họ mới được biết. Vì bên trong nhà tù đã được tu sửa sạch sẽ để mọi người có thể ở tạm trong thời gian ngắn. 20.000 lính thợ từ Viễn Đông tới được gọi là “nguồn nhân lực Đông Dương”, M.O.I. (main d’oeuvre indochinoise) được chia thành nhiều nhóm để gửi tới 73 công ty phục vụ cho ngành quốc phòng, trong đó có các nhà máy sản xuất vũ khí trên khắp nước Pháp (Bayonne, Toulouse, Saint Chams, Bourges, Tours, Rennes, Oissel, Bergerac ...). Từ đây, những người thợ Đông Dương bắt đầu khám phá thế giới công nghiệp với cường độ làm việc nặng nhọc.

Ngày 02/06/1940, nước Pháp thất bại trước phát xít Đức. Những người thợ Đông Dương phải tập trung hết trong Vùng Tự do (Zone libre). Ngày lịch sử này cũng đánh dấu chính quyền thuộc địa Pháp mất Đông Dương. Các chuyến tàu thuỷ tới vùng đất xa xôi có rất nhiều nguy cơ bị tàu ngầm Đức quốc xã bắn hạ. Pháp không nhận được gạo từ Đông Dương nữa. Nước Pháp đói ! Nước Pháp đầy người thất nghiệp !

Bất công cho những người nông dân “bất đắc dĩ”...

Chính lúc này, chính quyền Vichy đã đưa ra một quyết định vô cùng quan trọng : Sử dụng nguồn nhân lực Đông Dương đang có tại chỗ để thích nghi giống lúa nước tại Pháp. Ý tưởng bắt nguồn từ Henri Maux, một kĩ sư cầu đường và là công chức vừa mới từ Đông Dương trở về sau 10 năm sống và làm việc tại đây. Sáng kiến của ông hoàn toàn đúng thời điểm và làm thay đổi hoàn toàn vùng Camargue.

Người con gái của Henri Maux thuật lại: “Một lần, ông tháp tùng một Bộ trưởng tham dự hội thảo về trình trạng thất nghiệp diễn ra tại Marseille. Lần đầu tiên trong đời, ông không đi tàu hoả, mà đi bằng máy bay. Từ trên cao, ông nhìn được khu vực vùng Camargue. Ông thắc mắc tại sao nơi này lại không được khai thác trên diện rộng ? So với Nam Kỳ ở Đông Dương, vùng này còn đi sau tới 50 năm. Từ đó, ý tưởng trồng lúa nước tại Camargue được hình thành”.

Henri Maux cùng với một số đồng nghiệp cũ tới các khu tập thể của người lao động, và đặc biệt chú ý tới những người thợ Đông Dương. Do thất nghiệp và vẫn không thích nghi được với điều kiện thời tiết tại Pháp, rất nhiều người bị ốm hay mắc bệnh ung thư và sống trong tình trạng nghèo khó. Henri Maux đưa những người này ra khỏi khu tập thể, hoặc để dạy nghề cho họ, hoặc để họ làm việc ngoài đồng ruộng. Trên tổng số 20.000 lính thợ Đông Dương, 500 người được đưa tới trồng lúa tại Camargue.

Do không phải nộp bất kỳ khoản đóng góp xã hội nào nên nguồn nhân lực này rất rẻ. Tiền công một ngày làm việc của người lao động Đông Dương chỉ tương tương khoảng 1/10 lương của một người lao động Pháp thời đó. Tiền lương hàng tháng được chia thành hai phần. Một phần được trả hàng tháng cho người lao động. Phần còn lại, theo yêu cầu của chính phủ, được giữ lại và chỉ trả cho người lao động khi họ trở về Đông Dương.

Hoàn toàn tin tưởng vào chính sách của nhà nước, Henri Maux hy vọng, ngoài kinh nghiệm tiếp thu được tại Pháp, người lao động Đông Dương sẽ có được một khoản tiền tiết kiệm khá lớn nhờ công sức lao động. Nhưng trên thực tế, không ai biết khoản tiền tiết kiệm này đi đâu, và không một người lao động Đông Dương nào được thanh toán khoản tiền này.

Được phỏng vấn trong bộ phim, ông Bernard Vinay, một cựu quan chức hành chính, từ chối cho biết tỷ lệ giữa khoản tiền lương và khoản tiền bị giữ lại, với lý do quá lâu nên không nhớ. Mất một khoản tiền mồ hôi nước mắt, giới chủ không thực hiện các nghĩa vụ đóng góp xã hội, nên người lao động Đông Dương không được hưởng bất cứ quyền lợi gì.

Năm 1991, Bộ trưởng Bộ Ngân sách Michel Charasse, cũng đã khẳng định điều này, trong một bức thư trả lời bác sĩ Jean-Michel Krivine, phát ngôn viên của Uỷ ban Ủng hộ Cựu Lao động, như sau: “Vào thời kỳ tuyển mộ, người lao động Đông Dương không được đăng ký chế độ bảo hiểm xã hội, vì vậy, không được hưởng chế độ trợ cấp, tuổi già, hay các chế độ đền bù khác”. Sau khi Chiến tranh Thế giới Thứ hai kết thúc, rất nhiều người lao động Đông Dương trở về quê hương. Một số người ở lại, lập gia đình như trường hợp của Lê Hữu Thọ và Nguyễn Ngọc Châu.

Công dã tràng...

Lúa tiếp tục giúp những nhà sản xuất ở vùng Camargue trở nên giàu có. Chất lượng gạo vùng này nổi tiếng, thậm chí còn vượt trội gạo của Ý và Tây Ban Nha. Thế nhưng, công lao của người nông dân Đông Dương dần bị xoá mờ trong tâm trí của người dân địa phương và các hợp tác xã. Sau khi chiến tranh kết thúc, trên những cánh đồng lúa, thay thế người lao động Đông Dương là người Ý và Tây Ban Nha, được tuyển dụng có hợp đồng lao động và được trả lương một cách tử tế. Từ đó, không ai nghĩ tới những người nông dân Việt Nam đã viết lên những trang đầu tiên của ngành nông nghiệp trồng lúa tại Camargue. Để rồi đến một ngày hình ảnh những người nông dân Việt Nam, làm việc trong khoảng 10 năm trên đất Pháp, biến mất hoàn toàn.

Cho tới ngày nay, ngay tại “Lễ hội Lúa Gạo” tổ chức vào tháng 9 hàng năm tại Arles, không ai nhắc tới những người nông dân Việt Nam. Đây là bằng chứng cho sự bất công đối với những người lao động vất vả. Trong bất kỳ buổi trình diễn hay hoạt động nào, người dân địa phương luôn thể hiện gạo là tài sản riêng, là bản sắc riêng của vùng Camargue do ảnh hưởng từ Tây Ban Nha. Tại một vùng luôn quan tâm quảng bá giá trị văn hoá địa phương như tại đây, hình ảnh người nông dân Việt Nam với tư cách là người sáng lập ra ngành trồng lúa, khó có thể có được một vị trí trong tâm trí người dân.

Cá biệt hơn, một số người cho rằng, những thông tin và bằng chứng được công bố là giả, như trường hợp của Pierre Guillot và Yves Smith, cả hai trước đây đều là nhà sản xuất lúa gạo. Ông Guillot khẳng định “những người lao động Đông Dương không biết tới gạo, không phải là nông dân. Họ ở lại ngắn ngày, Vì vậy, phải dạy họ mọi khâu đoạn. Điều này khá vất vả”. Ông cũng cho biết, năm 1940-1944, người ta không nghe nói tới gạo tại Camargue, hoặc không sẽ là gạo nhập khẩu, từ Tây Ban Nha hoặc các nơi khác.

Khi phóng viên cho họ xem một bộ phim tài liệu được chiếu vào năm 1943 ghi lại hình ảnh những người nông dân Việt Nam thu hoạch lúa với tại Camargue, ông Yves Smith cho rằng tài liệu này được quay tại Đông Dương thì đúng hơn. Thế nhưng, làm thế nào để thanh minh cho một nhà kho hiện trong đoạn phim năm xưa, nay vẫn còn tồn tại ở Camargue ? Hơn nữa, còn rất nhiều đoạn phim ghi lại hình ảnh thu hoạch vụ mùa của người nông dân Việt Nam trên mảnh đất này.

Chúng ta đang ở Camargue, chứ không phải ở Đông Dương. Vụ mùa đã vượt quá cả dự định. Trên 500 héc ta do người thợ Việt Nam cày cấy đã thu về được 1.600.000 kg lúa. Sau khi đã tuốt lúa, sản lượng giảm 39% và sau khi tách trấu thì còn lại 1/2. Nhờ Camargue mà nước Pháp đã được ăn cơm. Đất nước của chúng ta đã thành công giúp loại lúa khó trồng này thích nghi được với khí hậu”.

Sau 5 năm đấu tranh với chính quyền địa phương, với những người trồng lúa tại Camargue và hoàn thiện các thủ tục hành chính, hội Tưởng niệm những người lao động Đông Dương (association “Mémorial pour les Ouvriers Indochinois”, M.O.I) đã thành công buộc Lịch Sử ghi nhận sự cống hiến của những con người bị lãng quên. Chủ nhật ngày 05/10/2014, ước mơ của Lê Hữu Thọ trở thành hiện thực.

Trong sân một chi nhánh thị chính Arles tại Salin-de-Giraud, một bức tượng bằng sắt tưởng niệm một người nông dân Việt Nam đã được dựng lên. Bài phát biểu tại buổi lễ của Bertrand Mazel, Chủ tịch Hiệp hội người trồng lúa tại Camargue, thể hiện một cách đầy đủ và súc tích lòng biết ơn tới những đóng góp của những người nông dân Việt Nam tại vùng đất này : “Tới lượt chúng ta có trách nhiệm tưởng niệm những người lao động tới từ Đông Dương trong giai đoạn lịch sử đau thương của nước Pháp. Thực tế là phải công nhận sự mất mát, hy sinh, đau khổ mà họ đã phải trải qua, và phải ghi nhận sự đóng góp bị rơi vào quên lãng của họ. Đúng là ngành nông nghiệp trồng lúa nợ họ rất nhiều vì họ đã tham gia vào việc phát triển ngành này sau Đệ Nhị Thế Chiến. Họ đã truyền cho vùng Camargue kỹ thuật cấy lúa mới mà chúng ta sẽ không bao giờ quên”.

Phim "Gạo đắng", số phận nông dân Việt Nam ở vùng Camargue - Tạp chí văn hóa (rfi.fr)

Geen opmerkingen:

Een reactie posten