maandag 4 mei 2020

Covid-19 - "Cúm Tây Ban Nha" : Một thế kỷ, hai đại dịch và những điểm tương đồng

Covid-19 - "Cúm Tây Ban Nha" : Một thế kỷ, hai đại dịch và những điểm tương đồng


Ảnh tư liệu về đại dịch cúm Tây Ban Nha tại St. Louis, Missouri, Mỹ, tháng 10/1918.
Ảnh tư liệu về đại dịch cúm Tây Ban Nha tại St. Louis, Missouri, Mỹ, tháng 10/1918. © via REUTERS - Thư viện Quốc Hội Mỹ
Năm 1918-1919, đại dịch cúm còn được gọi là « cúm Tây Ban Nha », khiến hàng chục triệu người trên thế giới thiệt mạng. Một thế kỷ sau, dịch Covid-19, không tàn sát như trước, nhưng cũng gây số ca tử vong lớn ngoài sức tưởng tượng so với những thành tựu y học hiện nay.
Tuy nhiên, giữa hai đại dịch này lại có nhiều điểm tương đồng. RFI Tiếng Việt tổng hợp bài viết của nhà báo Jean-Marc Vittori, trên nhật báo Les Echos ngày 30/04/2020 và một số thông tin khác.

Sức tàn phá mạnh

Đại dịch cúm 1918 khiến 20 đến 50 triệu người chết trên khắp thế giới trong hai năm 1918-1919, tương đương với 2,5 đến 5% dân số toàn cầu, theo thẩm định của Viện Pasteur. Tên gọi « cúm Tây Ban Nha » được đặt cho đại dịch 1918 vì lúc đó, Tây Ban Nha, không tham gia Thế Chiến I, là nước duy nhất công bố rộng rãi thông tin liên quan đến đại dịch.
Dịch Covid-19 cũng có tốc độ lây lan chóng mặt, gây tỉ lệ tử vong cao ở người cao tuổi và có bệnh nền. Tính đến ngày 02/05/2020, cả thế giới có 3,36 triệu người nhiễm và 239.000 người chết vì virus corona.

Mức độ lây nhiễm cao do di chuyển của con người

Điểm chung trong cả hai đại dịch, tốc độ lây nhiễm nhanh là do di chuyển của con người và giao thông vận tải. Nơi nào phản ứng khẩn cấp sớm, cấm tập trung đông người, đóng cửa nhà hàng, trường học thì sớm hạn chế được thiệt hại.
Ví dụ, tại Mỹ, thành phố Philadelphia (bang Pennsylvania) vẫn duy trì cuộc diễu hành Liberty Loans Parade ngày 28/09/1918, kêu gọi chính phủ Mỹ hỗ trợ đồng minh trong Thế Chiến I, trong khi thành phố Saint Louis (bang Missouri) hủy cuộc diễu hành tương tự. Với hơn 20.000 người tham gia, cuộc diễu hành ở Philadelphia dẫn đến sự bùng nổ số ca nhiễm cúm ở Mỹ và từ đó, được coi là cuộc tuần hành tang tóc nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Tỉ lệ tử vong ở Philadelphia cao gấp đôi so với Saint Louis. Sau đó, theo quan sát của các chuyên gia kinh tế, địa phương nào có « phản ứng sớm hơn 10 ngày trước khi dịch đến thì hoạt động công nghiệp tăng 5% » trong những năm sau đó.
Tốc độ lan nhanh của dịch Covid-19 cũng do nhiều cuộc tập hợp đông đảo : bữa tiệc khổng lồ với 40.000 gia đình tham gia hôm 18/01 tại Vũ Hán ; các nhà thờ của giáo phái Tân Thiên Địa ở Hàn Quốc ; một buổi lễ Hồi Giáo vào tháng 02/2020 gần thủ đô Kuala Lumpur (Malaysia) với khoảng 16.000 người tham gia ; nhà hàng và quán bar nổi tiếng Kitzloch tại thị trấn nghỉ dưỡng trượt tuyết Ischgl (bang Tyrol, Áo) được cho là nơi lây lan Covid-19 đến nhiều nước châu Âu ; cuộc tập hợp tại nhà thờ La Porte Ouverte Chrétienne ở Mulhouse, một ổ dịch tại Pháp…
Trong đại dịch cúm Tây Ban Nha, do không có chính sách phong tỏa nên kinh tế không bị tác động nặng nề vì các biện pháp dịch tễ. Năm 2020 thì ngược lại, kinh tế toàn cầu gần như chững lại, đẩy cả thế giới vào giai đoạn suy thoái, trong khi có nguy cơ xảy ra đợt hai của dịch Covid-19. Trong dịch cúm cách đây một thế kỷ, đợt hai mới có sức tàn phá kinh hoàng về nhân mạng lẫn kinh tế.

Bác sĩ đánh động dịch, đều chết vì bệnh

Vào mùa Xuân 1918, Loring Miner, một bác sĩ ở Kansas, cảnh báo về sự xuất hiện một loại bệnh lạ, rất nguy hiểm nhưng chính quyền không nghe ông. Một thế kỷ sau, bác sĩ Trung Quốc Lý Văn Lượng (Li Wenliang) cũng cảnh báo về loại virus mới, gây tử thương cao, nhưng cũng không được lắng nghe mà còn bị bắt giữ vì tung tin « thất thiệt »« gây rối trật tự công cộng ». Cả hai bác sĩ đều có chung kết cục, qua đời vì chính căn bệnh mà họ đánh động.

Thiếu liên hệ giữa chính quyền và giới khoa học

Không phải chờ đến đại dịch Covid-19 mới thấy rõ mối liên hệ không hề đơn giản giữa giới chuyên gia và chính trị gia, theo nhận định của nhà báo Jean-Marc Vittori.
Ngày 24/09/1918, George Clemenceau, lúc đó là chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Pháp kiêm bộ trưởng bộ Chiến Tranh, giận dữ trong một phiên họp nội các : « Một đợt dịch bệnh nghiêm trọng đang tràn qua Pháp và chúng ta lại không được thông tin ». Ba tuần sau, hội đồng khoa học trình báo cáo về nguồn gốc của dịch bệnh là do một loại vi khuẩn đã rõ hoặc « yếu tố đặc biệt chưa được biết ». Ngày 15/11/1918, tạp chí Le Concours médical chỉ trích « sự thất bại của cách phòng bệnh mang tính hành chính ».
Một thế kỷ sau, tuần san Pháp Le Point, trong số ra ngày 23/04/2020, cũng đăng trên trang nhất chỉ trích tương tự, nhưng với từ ngữ mạnh mẽ hơn : « Les bureaucrates auront-ils notre peau ? » (tạm dịch : Phải chăng những kẻ quan liêu lấy mạng chúng ta ?)

Tin đồn, tin thất thiệt xuyên một thế kỷ

Tin đồn, tin thất thiệt thời nào cũng có, chỉ khác là trong thời đại hiện nay được lan truyền với tốc độ chóng mặt... nhờ công nghệ số và mạng xã hội.
Virus corona chủng mới, dù có nguồn gốc thiên nhiên, nhưng đang bị nghi ngờ thoát ra từ phòng thí nghiệm P4 ở Vũ Hán. Phía Trung Quốc gây hoang mang khi thắc mắc về một trung tâm nghiên cứu y tế quân sự Mỹ ở Fort Detrick bị đột ngột đóng cửa. Nhà tỉ phú Mỹ Bill Gates, rồi công nghệ 5G cũng bị nghi ngờ.
Trong đại dịch « cúm Tây Ban Nha », Đức bị tình nghi. Những chiếc tầu ngầm U-boot nổi tiếng của Đức bị cho là gieo rắc virus ở các hải cảng của Mỹ. Ngoài ra, còn nhiều tin đồn khác, như Đức đã yêu cầu công ty dược Bayer nhồi vi khuẩn vào các viên thuốc aspirine hoặc cấy mầm bệnh vào đồ hộp được bán ở Tây Ban Nha.
Khi chưa có thuốc đặc trị, con người vẫn có xu hướng tin vào những biện pháp « mầu nhiệm ». Năm 1918, cơ quan y tế của Hải Quân Mỹ giải thích là « không khí và ánh nắng mặt trời giết mầm bệnh trong vài phút ».
Năm 2020, tổng thống Mỹ Donald Trump nhắc đến một « tin đồn rất hay »« nếu chúng ta ra ngoài nắng, […] điều đó có hiệu quả đối với virus ». Sau đó, ông yêu cầu các cơ quan liên quan tìm hiểu xem có thể « sử dụng nhiệt và ánh sáng để chữa trị ». Một ý tưởng khác, được tổng thống Trump « gợi ý » trong buổi họp báo ngày 23/04, là tiêm nước khử trùng và đưa tia  cực tím (UV) vào cơ thể để trị Covid-19 vì hình như hai loại này giết đến 99% vi khuẩn và virus.

Hai đại dịch, chưa có thần dược

Thư TinHãy nhận thư tin hàng ngày của RFI: Bản tin thời sự, phóng sự, phỏng vấn, phân tích, chân dung, tạp chí
Liệu thuốc ký ninh (Chloroquine) có phải là liệu pháp hiệu quả chống cúm ? Tranh luận đã nổi lên ngay từ năm… 1918. Châu Âu kiệt quệ thoát khỏi Thế Chiến thứ nhất. Các bác sĩ không hình dung ra được quy mô của đại dịch sẽ phải đối mặt vì virus, nhỏ hơn hàng nghìn lần so với vi khuẩn, còn chưa thể quan sát được vì phải chờ đến những năm 1930, kính hiển vi mới được phát minh.
Vào tháng 10/1918, báo Le Journal  giải thích : « Người ta cho chúng tôi những lời khuyên sau : Tránh tụ tập, uống rượu grog pha với rượu rhum ; hãy dự trữ thuốc ký ninh ! ». Lúc đó, thị chính Paris mua 50.000 lít rượu rhum từ bộ Cung Ứng để cung cấp cho các hiệu thuốc. Báo Le Concours médical thì khẳng định « thuốc ký ninh được kê đơn thường xuyên. Ông Dubois thích dùng cây canh ki na hơn (Chinchona) ».
Năm 2020, giáo sư Didier Raoult, tại Marseille (Pháp), nổi tiếng hơn với biện pháp điều trị gây nhiều tranh cãi bằng thuốc Chloroquine. Trong khi đó, bác sĩ Mohammed Squalli, ở thành phố Melun (ngoại ô Paris), gợi ý bệnh nhân uống nước ngọt Schweppes, được làm từ cây canh ki na.

Công dụng của khẩu trang, chuyển đổi hoạt động sản xuất chống dịch

Khẩu trang cũng là một bất đồng giữa giới y khoa và chính quyền. Vào tháng 11/1918, cũng như vào tháng 04/2020, Viện Hàn Lâm Y Tế khuyến cáo đeo khẩu trang, nhưng chính quyền nhiều nơi lại không bắt buộc. Ví dụ, cách đây một thế kỷ, thành phố San Francisco đã bắt người dân đeo khẩu trang, nếu không sẽ bị « phạt từ 5 đến 100 đô la hoặc 10 ngày tù giam ». Hiện tại, người dân nhiều nước châu Á sẽ bị phạt nếu không đeo khẩu trang ở ngoài đường. Trong khi đó, nhiều nước phương Tây, phải mất một khoảng thời gian mới hiểu được công dụng của khẩu trang trong cộng đồng.
Một điểm chung khác trong cả hai đại dịch là tình trạng khan hiếm khẩu trang. Một thế kỷ sau, người dân lại lôi máy khâu, kim chỉ ra tự làm khẩu trang vải. Năm 1918 cũng như 2020, nhiều nhà máy đã chuyển đổi hoạt động để đáp ứng nhu cầu dịch tễ cấp bách. Ví dụ, năm 1918, tại Mỹ, một nhà máy sản xuất mặt nạ chống khí độc phục vụ chiến tranh chuyển sang sản xuất khẩu trang y tế. Năm 2020, nhà sản xuất ô tô General Motors của Mỹ sản xuất máy trợ thở. Nhiều thương hiệu thời trang lớn thế giới sản xuất khẩu trang và nước khử trùng…  
http://www.rfi.fr/vi/xã-hội/20200503-covid-19-cúm-tây-ban-nha-một-thế-kỷ-hai-đại-dịch-và-những-điểm-tương-đồng

''Bí mật quân sự'': Một nguyên nhân dẫn đến đại dịch cúm Tây Ban Nha

Trạm quân y số 45 tại Aix-Les-Bains, Pháp. Binh sĩ Mỹ đến từ căn cứ American Expeditionary Force là nạn nhân của dịch cúm năm 1918.
Trạm quân y số 45 tại Aix-Les-Bains, Pháp. Binh sĩ Mỹ đến từ căn cứ American Expeditionary Force là nạn nhân của dịch cúm năm 1918. Wikimedia Commons
Đại dịch cúm Tây Ban Nha, giết chết hàng chục triệu người, một trong những thảm họa lớn nhất với nhân loại trong thế kỉ XX, được nhắc đến nhiều trong những ngày dịch bệnh Covid-19 từ Trung Quốc lan rộng ra thế giới, tháng 2/2020 này. Một số chuyên gia dịch tễ học ước tính, nếu không có biện pháp phù hợp, khoảng một nửa dân số thế giới sẽ mắc Covid-19. Nhân loại hiện nay có thể rút được những bài học gì đại dịch cúm Tây Ban Nha năm xưa ?
Vì sao đại dịch mang tên ''cúm Tây Ban Nha'' ?
Khác với dịch bệnh Covid-19 (do virus SARS-2-CoV-2) gây ra, bắt nguồn từ thành phố Vũ Hán, Trung Quốc, đại dịch mang tên ''cúm Tây Ban Nha'' hoàn toàn không chỉ xuất phát từ Tây Ban Nha. Mùa xuân năm 1918, báo chí Pháp đồng loạt đưa tin vua Tây Ban Nha liệt giường, có thể là nạn nhân của trận dịch cúm đang hoành hành tại Tây Ban Nha. Báo Le Matin, ngày 30/05/1918, đưa ra con số 120 nghìn người bệnh, riêng chỉ tại Madrid. Báo Gaulois, cùng thời điểm này, cho biết truyền thông Madrid đã mô tả chi tiết về trận dịch ''đang phát triển với tốc độ kinh hoàng''. Chính trong bối cảnh này mà dịch cúm xuất hiện đầu năm 1918 được mọi người nói đến một cách tự nhiên là cúm Tây Ban Nha.
Cũng vào khoảng giai đoạn này, dịch bệnh bắt đầu hoành hành tại Pháp. Đã có những ca bệnh đầu tiên được phát hiện vào tháng 4/1918, đặc biệt trong quân đội, thế nhưng báo chí đã không được phép nói bất cứ điều gì. Trong một lần trả lời phỏng vấn đài France 24, nhân dịp 100 năm đại dịch cúm Tây Ban Nha, nhà sử học Anne Rasmussen, giáo sư Đại học Strasbourg, giải thích: ''Vào thời điểm đó, nước Pháp đang trong tình trạng chiến tranh. Thông tin bị kiểm duyệt tại tất cả các quốc gia tham chiến''. Tây Ban Nha là quốc gia trung lập, vì vậy truyền thông không bị kiểm duyệt. Nhà sử học nhấn mạnh là, trong bối cảnh này, ''thoạt tiên người ta tin rằng dịch cúm chỉ có tại Tây Ban Nha, chứ không phải ở những nơi khác''.
Virus đột biến
Về chủ đề này, nhà sử học, kinh tế gia Pierre-Cyrille Hautcoeur, giám đốc nghiên cứu tại EHESS (Trường cao học về các khoa học xã hội), Paris, có bài viết đáng chú ý trên Le Monde, ngày 04/03/2020, mang tựa đề ''Dịch cúm Tây Ban Nha, một bí mật được che giấu quá kỹ''. Trước hết, theo nhà sử học, việc dựng lại chính xác cội nguồn của dịch là một điều không dễ dàng, bởi vì nếu như gần đây, các nhà khoa học đã tìm thấy virus–thủ phạm trong một số thi thể nạn nhân, được bảo tồn dưới tầng băng giá ở vùng cực Bắc, thì việc chỉ ra ''thời điểm chính xác virus đột biến'', để trở thành tác nhân gây dịch, vẫn còn là vấn đề đề ngỏ.
Tuy nhiên, có một điểm rõ ràng, mà các nhà nghiên cứu đạt được đồng thuận, đó là quy mô bệnh dịch kinh hoàng này đã bị che giấu trong những tháng cuối cùng của cuộc Đại chiến Thế giới thứ nhất. Sau này, chúng ta biết, số lượng người chết do virus lên đến khoảng 50 triệu (một số người đưa ra con số 100 triệu) trong thời gian 1918-1919 (tức tương đương từ 2,5 đến 5% dân số thế giới vào thời điểm đó).
Những nghiên cứu để phục dựng lại những biến chuyển của virus cúm ''Tây Ban Nha'' mới chỉ được giới chuyên môn đầu tư nhiều từ khoảng vài chục năm trở lại đây. Các nhà khoa học ghi nhận virus gây cúm Tây Ban Nha – vốn phố biến ở nhiều vùng trên thế giới - đã có một đột biến quan trọng, được ghi nhận tại Hoa Kỳ, vào khoảng tháng 4/1918, và trở nên nguy hiểm hơn gấp bội (theo cuốn ''Cúm Tây Ban Nha : Giải thích về một đại dịch'' của Eric Leroy, viện sĩ Viện Hàn Lâm Y Học Pháp). Xuất phát từ Boston vào khoảng tháng 9/1918, tràn ra thế giới, theo chân nhiều đơn vị quân đội Mỹ.
Gần một nửa thủy quân lục chiến Mỹ mắc cúm
Theo các nhà khoa học, dịch bắt đầu bùng lên từ một căn cứ quân sự Mỹ của lực lượng viễn chinh. Những trường hợp mắc cúm lạ, lần đầu tiên được ghi nhận là vào tháng 3/1918. Nhưng đợt thứ hai nguy hiểm, lan rộng và gây chết người nhiều hơn là vào tháng 8/1918. Vào thời điểm đó, mọi nỗ lực giành để cho chiến tranh. Bất chấp các dấu hiệu của dịch bệnh lớn, tại Mỹ, người ta vẫn tổ chức nhiều hoạt động thu hút đông đảo người tham gia, để quyên góp tiền cho cuộc chiến bảo vệ các đồng minh châu Âu, và hoàn toàn sao lãng các đòi hỏi an toàn vệ sinh dịch tễ. Khoảng 40% lực lượng thủy quân lục chiến Mỹ đã bị mắc ''cúm Tây Ban Nha'', khoảng 4000 quân nhân thiệt mạng do cúm trên đường vượt Đại Tây Dương, theo sử gia Alfred Crosby (America’s Forgotten Pandemic : The Influenza of 1918, Nxb Cambridge, 2003, dẫn theo bài "La grippe espagnole : le tueur invisible de 1918", của Marine Dumeurger, trên Geo.fr). Điều kiện khắc nghiệt tại chiến trường cũng khiến dịch bệnh dễ dàng cướp đi nhiều mạng sống.
Dịch bệnh diễn ra theo hai đợt : đợt thứ nhất kéo dài đến hết năm 1918, và đợt thứ hai ngắn hơn, diễn ra vào mùa hè năm 1919. Tỉ lệ tỉ vong rất cao, thường vượt quá 20% dân số của các cộng đồng bị dịch, thậm chí lên đến 80%. Dịch bệnh cũng đặc biệt không tha lứa tuổi 25 – 35, vốn được coi là có sức đề kháng cao hơn. Theo nhà sử học Pierre-Cyrille Hautcoeur, nếu như thông tin về tỉ lệ chết cao khác thường này được công chúng rộng rãi biết đến, chắc chắn sẽ có ảnh hưởng đến các chiến dịch quân cuối cùng trong thời gian Đại chiến. Nhà sử học nêu ra con số, chỉ trong hai tháng cuối của cuộc chiến, đã có khoảng 400 000 thường dân Pháp và 100 000 binh sĩ quân đội phe Đồng Minh thiệt mạng do dịch.
Từ châu Âu bệnh tràn ra thế giới
Việc che giấu thông tin cũng được coi là nguồn gốc khiến dịch bệnh lan từ châu Âu ra những nơi khác trên thế giới. Tại Ấn Độ và Trung Quốc, người ta ước tính có khoảng 6 triệu người chết, và không có con số thống kê về các nạn nhân tại châu Phi, mà ta biết rằng, tỉ lệ tử vong sẽ càng cao ở các cộng đồng dân cư nghèo khó (nhà sử học Alfred Crosby đưa ra con số 18,5 triệu người chết riêng tại Ấn Độ).
Thư TinHãy nhận thư tin hàng ngày của RFI: Bản tin thời sự, phóng sự, phỏng vấn, phân tích, chân dung, tạp chí
Việc không có thông tin về dịch bệnh cũng cản trở việc phổ biến những hiểu biết quan trọng, như các kinh nghiệm trị liệu. Phải cho đến những năm 1930, giới khoa học mới phân lập được virus. Vào thời điểm này, nhiều người cho dịch là do một vi trùng, được nhà bác học Đức Pfeiffer tìm ra vào năm 1892. Không có hiểu biết rõ ràng về nguồn gốc bệnh, vào thời điểm đó, các bác sĩ đã phải sử dụng đủ mọi biện pháp mà họ có trong tầm tay.
Từ ''tắm lạnh'' (để tiêu viêm), dùng thuốc nhuận tràng, cho đến sử dụng các dược phẩm như aspirine, ký ninh, iodine…, hay dùng các loại vắc xin hiệu quả trong các bệnh dịch khác. Đối với các biện pháp y tế công, để chống lại kẻ thù vô hình này, người ta cũng sử dụng đủ loại biện pháp : Từ hun khói, tẩy trùng, đóng cửa các địa điểm công cộng, phát xà phòng, thu dọn rác thải… Tất cả các biện pháp được huy động vốn cũng là những biện pháp đã được dùng để phòng chống đa số các bệnh dịch khác. Quân đội, vốn thường tự hào đã chế ngự được đủ loại bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, như thương hàn, kiết lỵ, sốt phát ban…, hy vọng với các biện pháp truyền thống, cộng với nước sạch, thực phẩm sạch, chăn màn sạch, là có thể ngăn chặn được dịch bệnh. Tuy nhiên, như chúng ta đã thấy tổn thất do dịch bệnh gây ra là rất lớn, chưa kể, do thông tin không được minh bạch, mà bệnh dịch lan rộng ra những nơi khác của thế giới.
Sửa sai đầu tiên: Lập Cơ Quan Y Tế Hội Quốc Liên
Sau chiến tranh, giới chính trị quốc tế - nhìn chung hiểu được rằng thảm họa đã xảy ra, nhưng không công khai nói đến quy mô của thảm họa – đã tìm cách lập ra Cơ Quan Y Tế của Hội Quốc Liên, tiền thân của Tổ Chức Y Tế Thế Giới (WHO) (lập ra năm 1921), với chức năng chính là kiểm soát dịch bệnh, thông tin về dịch bệnh, điều phối sự hợp tác quốc tế, là điều hoàn toàn thiếu vắng trước đó.
Về mặt các điều kiện xã hội, trình độ phát triển kinh tế, về hệ thống y tế, giữa đại dịch cúm Tây Ban Nha đầu thế kỷ XX và dịch Covid-19 hiện nay rõ ràng có rất nhiều điểm khác xa nhau, thậm chí khác nhau một trời một vực. Các xã hội đương đại, đặc biệt là các quốc gia phát triển, có nhiều tiềm năng để đối phó hơn hẳn. Tuy nhiên, bài học căn bản mà đại dịch cúm Tây Ban Nha để lại, đó là việc theo dõi sát dịch bệnh, minh bạch thông tin, phối hợp tổ chức các biện pháp can thiệp là các điều thiết yếu, để ngăn chặn ngay từ đầu, hoặc hạn chế tác hại của dịch bệnh. Điều này càng đặc biệt quan trọng đối với những cộng đồng người nghèo, là nạn nhân đầu tiên của các dịch bệnh.
http://www.rfi.fr/vi/pháp/20200305-bí-mật-quân-sự-một-nguyên-nhân-dẫn-đến-đại-dịch-cúm-tây-ban-nha

Geen opmerkingen:

Een reactie posten