maandag 5 mei 2014

Khánh Ly và chuyện tình bí mật...Ðà Nẵng

Sau khi sang Hoa Kỳ định cư năm 1975, giọng hát của bà vẫn đứng đầu ở hải ngoại. Từ đó đến nay, bà đã hai lần về Việt Nam với tư cách thăm viếng người nhà. Lần sau cùng vào tháng 5.2000. Và cách đây hai ngày là lần thứ 3...

Tài danh là thế, nhưng đường tình cảm của Khánh Ly không được may mắn như sự nghiệp ca hát. Suốt thời son trẻ của bà toàn lận đận với chuyện tình yêu và chưa bao giờ được sống trọn vẹn với mơ ước của mình, và mối tình với hai người đàn ông Đà Nẵng thì ít người biết đến.


Là ca sĩ tài danh, nhưng đường tình của Khánh Ly không mấy suông sẻ

Ông đại úy tay chơi

Sau khi chia tay với người chồng đầu tiên và đã có với nhau hai mặt con, chẳng bao lâu, Khánh Ly gặp người chồng thứ hai, một đại úy biệt kích và là một tay chơi có hạng của đất Sài Gòn thời đó.

Ông ta tên là Mai Bá Trác, con trai thứ trong một gia đình giàu có và tiếng tăm ở Đà Nẵng, từng chỉ huy một trại biệt kích biên phòng ở biên giới Tây Ninh vào những năm cuối thập niên 60.

Là một người đàn ông có thân hình to lớn, không thuộc thành phần đẹp trai, học giỏi, nhưng ông ta có dáng dấp của một kẻ phong trần, bụi bặm và lì lợm. Vốn con nhà giàu, lại nắm chức vụ hái ra tiền, nên mang danh là lính biên giới, nhưng tháng nào Mai Bá Trác cũng có mặt ở Sài Gòn mấy ngày để ăn chơi xả láng với nhiều người đẹp.

Dạo đó, ông ta đã sắm xe du lịch Mustang mui trần để sẵn ở hậu phương làm phương tiện di chuyển thì ít mà để tán tỉnh các em thì nhiều. Mai Bá Trác tỏ ra rất hào phóng với em út, nên ít cô nào từ chối lời tỏ tình có điều kiện đi kèm của ông ta. Nhưng đến khi gặp Khánh Ly thì Trác chết mê, chết mệt.



Mai Bá Trác – người chồng thứ hai của Khánh Ly

Thật ra, lúc bấy giờ, chàng trai nào được là bạn của Khánh Ly thôi, cũng đã hãnh diện lắm rồi, nói chi đến người tình. Thế là Mai Bá Trác, bỏ tất cả để dồn hết khả năng vào việc chinh phục mục tiêu duy nhất. Phải công bằng mà nói, thời vàng son của Khánh Ly, những người đeo đuổi bà tầm cỡ như ông Trác, hoặc nhỉnh hơn đều không thiếu.

Nhưng dầu sao, bà là một nghệ sĩ nên không thiếu chất lãng mạn và dễ xiêu lòng nhưng Khánh Ly cũng đủ cảm nhận Mai Bá Trác quá chân tình. Ngược lại, ông Trác cũng yêu Khánh Ly tha thiết lắm, vì thế mà đồng ý làm đám cưới để thành vợ, thành chồng với nhau.

Năm 1972, họ cho ra đời một bé gái. Ông Mai Bá Trác lấy tên thật của Khánh Ly (là Nguyễn Thị Lệ Mai, bạn bè thường gọi là “Mai đen” bởi làn da không được trắng) làm chữ lót, đặt tên con là Mai Mai Misa như để bày tỏ hết lòng yêu thương của ông ta. Đến khi ván đã đóng thuyền, biết chắc là của mình rồi, ông Trác lại ngựa quen đường cũ, không có ý bỏ vợ, nhưng lại lén lút trăng hoa với nhiều người phụ nữ khác.

Cũng vào năm 1972, ông Mai Bá Trác viện dẫn lý do bận rộn việc nhà binh nên thường xuyên vắng nhà. Thật ra, ông đang chung sống với một người con gái khác, tên là Thơ, còn rất trẻ và đẹp hơn Khánh Ly nhiều. Chuyện vụng trộm này rồi cũng đến tai Khánh Ly.

Trong lòng đã nguội lạnh nhiều rồi, nhưng bà vẫn nhờ người theo dõi và biết rõ chỗ ở của ông Trác với tình nhân. Không làm ồn ào, Khánh Ly đã âm thầm nhờ văn phòng Thừa Phát Lại ập vào bắt quả tang để có chứng cứ ly dị.

Thế là chia tay, ông Mai Bá Trác vẫn thường xuyên về thăm con và rất muốn nối lại tình xưa, nhưng Khánh Ly cương quyết từ chối. Chính vì thế mà sau này đã xảy ra trận đánh ghen của ông Mai Bá Trác dành cho tình địch của mình.

Và, cho đến bây giờ, hơn 40 năm trời trôi qua, Khánh Ly đã có chồng khác, và Mai Bá Trác cũng đã trải qua không biết bao nhiêu mối tình theo kiểu “già nhân ngãi, non vợ chồng”, nhưng lúc nào ông ta cũng nhắc đến Khánh Ly một cách yêu quý và tỏ ra thích thú khi có ai đó gọi mình bằng “ông Khánh Ly”.

Hiện Mai Bá Trác định cư ở Mỹ và rất thường về Việt Nam để thăm nhà. Lần về nào ông cũng lên Thủ Đức ghé thăm bà chị ruột của Khánh Ly đang sinh sống tại đó.

“Mối tình tuyệt vời” của Khánh Ly

Năm 1972, sau khi nói lời chia tay với Mai Bá Trác, trong một lần ra Huế hát phục vụ cho binh sĩ, Khánh Ly đã gặp Đỗ Hữu Tùng trong một bữa tiệc khao quân.

Sinh ra và lớn lên tại Đà Nẵng, sau khi học xong tú tài, Đỗ Hữu Tùng đã tình nguyện vào học khóa 16, trường Võ bị Đà Lạt. Ra trường với cấp bậc Thiếu úy, ông xin về Thủy quân Lục chiến và trở thành một sĩ quan nổi tiếng của binh chủng được coi là thiện chiến nhất của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.

Dáng người thấp nhưng chắc chắn và có làn da ngăm đen, khuôn mặt hiền lành, không có vẻ gì là người của trận mạc. Ông ta lại ít nói, có vẻ hơi thâm trầm. Khi gặp Khánh Ly, Đỗ Hữu Tùng đã 32 tuổi, mang hàm Trung tá, giữ chức vụ Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 6, rồi sau đó lên Quyền Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 147 Thủy quân lục chiến. Lúc bấy giờ, ông ta đã có vợ và 1 con. Người đàn bà này tên Nguyễn Thị Lan, vốn là một cô gái Huế nhưng lớn lên tại Đà Nẵng và là bạn của Tùng từ thời mới lớn.

Sau đó, ông Tùng mải theo đơn vị hành quân, ít có thời gian ở nhà với vợ. Không biết có phải là định mệnh hay không mà ngay phút đầu gặp nhau, Đỗ Hữu Tùng và Khánh Ly đã bị tiếng sét ái tình đánh trúng trái tim.

Họ dường như không còn biết đất trời là gì. Dù đã có vợ con nhưng ông Tùng tâm sự đây mới đích thực là mối tình đầu và ông đã yêu một cách say đắm. Còn Khánh Ly cho đến mãi sau này, bà vẫn xác định, mối tình với Đỗ Hữu Tùng là tuyệt vời hơn cả mà suốt đời không dễ gì quên!



Khánh Ly, (thứ 2 từ trái qua) trong buổi biểu diễn văn nghệ 1972

Khi chuyện tình của Đỗ Hữu Tùng và Khánh Ly đã đi đến chỗ mặn nồng, ông Tùng có ý sẽ đi đến hôn nhân, thì bạn bè hỏi: “Còn bà Lan và thằng con trai thì sao?”. Ông Tùng không trả lời thẳng câu hỏi mà kể, có lần ông về Sài Gòn, ghé vào bệnh viện Từ Dũ tìm vợ thì bắt gặp bà ta đang tình tứ với viên bác sĩ trực.

Chuyện này có vẻ khó tin, vì khi đã muốn thay lòng, đổi dạ, người ta phải viện dẫn một lý do nào đó để tự bào chữa cho mình. Bởi lẽ, ông Tùng đến bệnh viện Từ Dũ thì lúc nào cũng được, nhưng xông thẳng vào phòng trực mà không ai biết thì hơi lạ! Hơn nữa, ngay khi chứng kiến tận mắt, tại sao ông Tùng lại không có phản ứng gì, để rồi sau này mới nói cho bạn bè biết.

Suốt năm 1973 cho đến ngày Mai Bá Trác đánh ghen, Khánh Ly thường xuyên bay ra chung sống với Đỗ Hữu Tùng tại vị trí đóng quân. Hầu như tất cả sĩ quan và thuộc cấp của Đỗ Hữu Tùng đều biết, ông ta đã đặt cho Khánh Ly một cái tên được mật mã hóa là Kí-Lô, để tránh tai vách mạch rừng.

Lần cuối cùng Kí-Lô ra tìm Tùng và ở lại mấy ngày là giữa năm 1974, khi bộ chỉ huy hành quân Lữ đoàn của Tùng đang đóng tại Mỹ Chánh. Vài tháng sau, Đỗ Hữu Tùng được nghỉ phép về Sài Gòn thì đụng đầu với Mai Bá Trác.

Trận đánh ghen chớp nhoáng

Biết chắc sau khi chia tay, Khánh Ly đã dan díu với Đỗ Hữu Tùng nên Mai Bá Trác hết sức ghen tức. Nhưng lúc bấy giờ, Trác đã bị thuyên chuyển lên Buôn Ma Thuột nên không biết làm cách nào để đối mặt tình địch.

Chẳng may thời gian Đỗ Hữu Tùng về phép thì Mai Bá Trác cũng có mặt tại Sài Gòn. Ông ta theo dõi và biết Tùng thường xuyên có mặt tại phòng trà Khánh Ly, nên rủ thêm vài chiến hữu, lặng lẽ mở cuộc đột kích.

Khi Đỗ Hữu Tùng xuất hiện, mới bước vào bên trong, Trác đã bám theo và đánh Tùng hai tát tai. Trước khi định móc súng ra để xiết cò, thì mọi người kịp thời can ngăn. Đỗ Hữu Tùng đã nhanh chóng rút lui, nhưng ông đâu có chịu nhục, nhất là khi Mai Bá Trác và Khánh Ly đã không còn là chồng vợ.

Ông ta vội huy động một số đàn em Thủy Quân Lục Chiến ở hậu cứ ra trả đũa, nhưng Mai Bá Trác cũng đoán được ý đồ đó của Tùng nên cũng vội biến khỏi đấu trường.

Mọi chuyện không dừng ở đó. Nắm được vụ việc này, như bắt được vàng, ngày hôm sau nhật báo Trắng Đen đã chạy tít 8 cột trang nhất, mô tả lại trận đánh ghen mà họ đã vẽ rắn thêm chân cho ly kỳ hấp dẫn.

Kết quả, Đỗ Hữu Tùng thay vì đang chờ được cất nhắc lên Đại tá thì bị ngưng lại và mất luôn chức Lữ Đoàn Trưởng 147, phải về làm Lữ Đoàn Phó 258 cho người bạn cùng khóa là Nguyễn Xuân Phúc.

Cả Đỗ Hữu Tùng và Nguyễn Xuân Phúc đều tử trận vì đạn pháo kích ngày 29.3.1975 tại bờ biển Đà Nẵng.

Năm 1991, nhân kỷ niệm 30.4 trong một bài viết về chiến trường Đà Nẵng những ngày cuối cùng trên báo Công An thành phố, có nhắc đến cái chết của 2 Trung tá Thủy Quân Lục Chiến là Nguyễn Xuân Phúc và Đỗ Hữu Tùng.

Sau khi đọc bài báo này, bà Lan, vợ ông Tùng đã đến tòa soạn dò hỏi, với hy vọng sẽ tìm được hài cốt của chồng mình. Bởi theo bà thì dầu ai có phụ bạc ai đi nữa, thì một ngày cũng là nghĩa vợ chồng.

Theo Duyên Dáng Việt Nam. Ảnh: Tư liệu

http://vietsn.com/forum/showthread.php?t=763302

Nhớ Trịnh Công Sơn khi đón Khánh Ly trở về
Click image for larger version Name: 20140429102647-20140412123421-khanhly2.jpg Views: 0 Size: 20.7 KB ID: 607202  Click image for larger version Name: 20140502143504-khanhly3.jpg Views: 0 Size: 110.8 KB ID: 607203  
LTS:Ngày 9/5 tới đây, ca sỹ Khánh Ly sẽ về biểu diễn tại Việt Nam. Tuần Việt Nam trân trọng giới thiệu bài viết của một người trẻ nhiều trăn trở với nhạc Trịnh.

Giờ đây tôi tự tin đáp rằng người ta chỉ thôi nghe Trịnh khi họ ngừng tư duy về chính mình và thế giới cũng như thôi rung động trước những vẻ đẹp diệu vời của cuộc sống từng phút, từng giây.
LTS: Ngày 9/5 tới đây, ca sỹ Khánh Ly sẽ về biểu diễn tại Việt Nam. Tuần Việt Nam trân trọng giới thiệu bài viết của một người trẻ nhiều trăn trở với nhạc Trịnh.

Chẳng còn mấy ngày nữa, Khánh Ly sẽ trở về. Rồi đây, chúng ta lại được đằm lòng lắng nghe giọng ca đặc biệt ấy rung lên những nhạc phẩm tuyệt diệu của Trịnh Công Sơn. Ấy cũng là khi tôi chợt tự hỏi: Liệu có bao giờ người ta thôi nghe Trịnh?

Có lẽ, để trả lời cho câu hỏi mang cái dự cảm kết thúc đó, ta nên bắt đầu từ việc truy nguyên: "Khi nào người ta bắt đầu nghe Trịnh?"


Trịnh Công Sơn và ca sĩ Khánh Ly (trái) và cô em gái ca sĩ Trịnh Vĩnh Trinh (phải)

Tôi nhớ tuổi thơ mình đã từng loáng thoáng trong những câu hát Cát Bụi, hay miên man cùng Diễm Xưa... nhưng chắc chắc đó chưa phải là "nghe Trịnh" nếu hiểu theo nghĩa rộng của thuật ngữ này, bởi lẽ âm nhạc và nhất là ca từ của ông vượt tầm thụ cảm của tôi khi ấy. Dù vậy, khá may là tôi không thể quên lần đầu rung động trước âm nhạc của bậc tài hoa vào cái đêm xa nhà đầu tiên, cách đây tầm 10 năm. Thằng tôi ở tuổi 14 khi ấy[1] đã thổn thức với giọng nữ mezzo-alto (trung trầm) ca một trong những câu hát khắc khoải và ám ảnh nhất của nhạc Trịnh: "Vì em đã mang lời khấn nhỏ, bỏ tôi đứng bên đời kia"[2] mà đâu biết rằng 10 năm sau và chắc là nhiều năm sau nữa mỗi lần nghe lại là một lần xúc động như thuở ban đầu!

Theo cách ấy mối giao hòa của tôi và Trịnh đã khởi đầu, một cuộc gặp gỡ định mệnh đến không quá sớm để nhuộm buồn tuổi thơ nhưng cũng chẳng quá muộn để tuổi trẻ phải buông câu tiếc nuối: "Giá mà mình nghe nó sớm hơn!".

Gần một nửa thế kỷ trôi qua kể từ khi bản Uớt mi[3]ra đời, người ta đã nghe, đã nói và tranh luận nhiều và sẽ còn rất nhiều về Trịnh và âm nhạc của ông, bởi họ chẳng thể hiểu trọn vẹn con người ông cũng như chẳng thể cảm hết thứ giai điệu và ca từ "thần thánh" ấy. Cá nhân tôi chỉ biết, yêu nhạc Trịnh tôi yêu thêm tiếng Việt và càng chia sẻ với tâm tư bất hủ của Lưu Quang Vũ:

"Ôi tiếng Việt suốt đời tôi mắc nợ
Quên nỗi mình quên áo mặc cơm ăn"[4]


Ca sĩ Khánh Ly mang hồng vàng đến viếng mộ nhạc sĩ Trịnh Công Sơn trong dịp trở về lần này. Ảnh: Cao Trung Hiếu

Nên nhớ rằng một người yêu Trịnh thật sự sẽ chẳng quan tâm ông khóc hai hay một giọt nước mắt[5] vì đơn giản thông qua âm nhạc của Trịnh, họ đồng cảm được với dòng lệ âm nhạcsiêu hình từ Trịnh đã tuôn chảy không ngừng, suy cảm không ngừng cho sự hữu hạn, nhỏ bé và vô thườngcủa kiếp người và mọi sinh thể khác trong mối tương quan với cái vô cùng tận của vũ trụ. Nhưng nếu chỉ có vậy thì nhạc Trịnh đâu khác gì những luận đề Triết học hay giáo lý của các Tôn giáo chỉ để người ta bị kích thích thông hiểu thay vì tình yêu thật sự?

Theo tôi, thứ khiến nhạc Trịnh chạm đến và sẽ ở mãi trong trái tim của những người mộ điệu phần nhiều ở tính duy mỹ tuyệt vời của nó - cái đã được tạo nên từ tài năng bậc thầy, được "chắt chiu" từ thanh âm, tiếng nói và hồn cốt xứ sở.Bởi vậy, "dù có miệt thị ông Sơn ra làm sao thì người ta vẫn nghe nhạc của ông hằng ngày"[6].

Trở lại với câu hỏi lúc ban đầu, Bao giờ người ta thôi nghe Trịnh? Giờ đây tôi tự tin đáp rằng người ta chỉ thôi nghe Trịnh khi họ ngừng tư duy về chính mình và thế giới cũng như thôi rung động trước những vẻ đẹp diệu vời của cuộc sống từng phút, từng giây. Thật vậy, khi bạn đọc những dòng này, vũ trụ mà chúng ta đang trôi dạt trên đó vẫn đang tiếp tục cuộc hành trình của nó kể từ 13,7 tỉ năm qua[7] và vẫn tiếp tục tăng lên cả về chiều không gian lẫn thời gian, cũng giống như tình yêu của người mộ điệu với âm nhạc của họ Trịnh - thứ mà người ta chỉ có thể nhớ khi nào mình bắt đầu nghe và hoằng họa là tại sao chúng ta lại yêu nhưng khó biết bao giờ mình hết bị thôi miên bởi nó - thứ nghệ thuật mang vẻ đẹp của trí tuệ và con tim.

[1] và cả bây giờ và có lẽ nhiều nhiều năm sau nữa

[2] Lời cuối bài hát "Đêm thấy ta là thác đổ" của Trịnh Công Sơn

[3] Bài hát đầu tiên của Trịnh Công Sơn, sáng tác năm 1958

[4] Trích bài thơ "Tiếng Việt" của Lưu Quang Vũ

[5] Dòng này lấy cảm hứng từ bài viết "Trịnh Công Sơn, người khóc ra hai giọt nước mắt" của tác giả Đức Hoàng đăng trên Báo điện tử VnExpress ngày 01/04/2014.

[6] Trác Thụy, bài viết "Trịnh Công Sơn: "Chúa và Phật đã bỏ loài người...", đăng trên Facebook Người Sài Gòn ngày 31/03/2014.

[7] Xem "Đại sử - Từ vụ nổ lớn đến hiện tại", Cynthia Stokes Brown, NXB Trẻ, 2004, trang 17.

Lê Nguyễn Anh Vũ
Theo vietnamnet.vn

http://vietsn.com/forum/showthread.php?t=763335

Geen opmerkingen:

Een reactie posten