woensdag 20 oktober 2021

65 năm Báo cáo “mật” : Tại sao Stalin vẫn được hoài niệm ở Nga? + Công bố danh tính 50.000 nạn nhân của chế độ Staline + Stalin tìm cách tiêu diệt Ukraina bằng nạn đói : 4 triệu người chết

 

65 năm Báo cáo “mật” : Tại sao Stalin vẫn được hoài niệm ở Nga?

Phần âm thanh 08:57
Rất đông người dân Nga đến tưởng niệm Stalin trước mộ ông, tại Quảng trường Đỏ, Matxcơva, ngày 05/03/2021.
Rất đông người dân Nga đến tưởng niệm Stalin trước mộ ông, tại Quảng trường Đỏ, Matxcơva, ngày 05/03/2021. © R. Shikhatova/RFI

“Đồng chí Stalin đã bỏ qua những phương pháp thuyết phục và giáo dục của Lenin, thay cuộc đấu tranh tư tưởng bằng phương pháp bạo lực hành chính, đàn áp và khủng bố hàng loạt. Stalin thiên về sử dụng những tổ chức công quyền của Nhà nước và trong hành dộng, đồng chí thường xuyên vi phạm những chuẩn mực đạo đức và luật pháp Xô-viết”.


Trích đoạn nói trên trong bài phát biểu nổi tiếng của lãnh tụ Xô-viết Nikita Khrushchev, được vang lên tròn 65 năm trước đây tại phiên họp kín vào ngày cuối của Đại hội đảng Cộng sản Liên Xô lần thứ 20 (25/2/1956), cho dù còn rất nhẹ nhàng so với sức nặng của tội ác mà nhà “độc tài đỏ” Stalin đã gây ra, nhưng cũng khiến cả thế giới cộng sản bàng hoàng và chấn động.

Vào khoảnh khắc bấy giờ, được coi là một cơn đại địa chấn, một trái bom nguyên tử khổng lồ được tung ra, bản báo cáo mật mang tựa đề “Về tệ sùng bái cá nhân và những hậu quả của nó” lần đầu tiên vạch trần một số tội ác của “Đại nguyên soái” Stalin tuy đã qua đời được 3 năm, nhưng vẫn trong vầng hào quang của một thủ lĩnh chiến thắng phát-xít Đức hơn 10 về trước.

65 năm sau ngày “tờ trình bí mật của Khrushchev” - tên gọi của bản báo cáo trong một số tư liệu Việt ngữ - lần đầu tiên chính thức lên án người tiền nhiệm Stalin, sự đánh giá của dân Nga hiện tại với “Ông chủ của điện Kremlin” một thời như thế nào? Phải chăng, sự tố cáo đến từ chính thủ lĩnh cộng sản tối cao một thời cũng không có ảnh hưởng nhiều tới góc nhìn của dân Nga?

Bản cáo trạng kéo dài 4 giờ

Với sự tham gia của gần 1.500 đại biểu cùng 55 phái đoàn của các đảng Cộng sản ngoại quốc, Đại hội lần thứ 20 đảng Cộng sản Liên Xô khai mạc ngày 14/2/1956 tại Matxcơva và trong gần 2 tuần đầu, không có gì đáng kể diễn ra. Vẫn là những khâu hiệu mang tính tuyên truyền, như mục tiêu “đuổi kịp và vượt” các nước tư bản phát triển nhất trong giai đoạn lịch sử ngắn nhất.

Đột ngột đối với nhiều người, trong phiên họp kín vào ngày cuối, bí thư thư nhất Nikita Khrushchev có bài phát biểu “động trời”, vạch trần cái gọi là “tệ sùng bái cá nhân” và những hiện tượng, hậu quả đi kèm của nó, khiến Đại hội 20 đi vào lịch sử. Các đại biểu sững sờ và kinh ngạc khi được nghe từ miệng một lãnh tụ cộng sản danh sách những tội ác khủng khiếp của Stalin.

Đó là những đợt thanh trừng phi pháp, những biện pháp nhục hình về tinh thần và thể xác do chính Stalin thông qua, là việc Stalin đã sát hại già nửa số đại biểu của Đại hội 17, đã tự làm suy yếu mình trước chiến tranh với Đức bằng cách tiêu diệt đại đa số Ban lãnh đạo Hồng quân gồm cả những tướng lĩnh và nguyên soái từng vào sinh ra tử, “công thần” của thể chế Bolshevik.

Khrushchev còn nhắc đến phong cách lãnh đạo méo mó của “Ông chủ”, đến chứng đa nghi ở mức cuồng, bệnh hoạn, “nhìn đâu cũng thấy địch”, khiến hàng triệu người thiệt mạng oan uổng, và đến sự thần thánh hóa lãnh tụ đến mức lố bịch xung quanh Stalin. Theo các ghi chép, nhiều đại biểu đã kêu trời đau đớn, thậm chí đã ngất đi khi biết tội ác của “thần tượng”.

Sau bài phát biểu, không có phần thảo luận công khai, các đoàn đại biểu ngoại quốc được thông báo riêng. Tuy nhiên, bản báo cáo “mật” vẫn được lọt sang Phương Tây khá nhanh chóng - có thể do chính Khrushchev và “ê-kíp” của ông cố tình cho rò rỉ - và được in lần đầu tại Washington. Tại Liên Xô, sau đó, bài phát biểu có được cho “phổ biến” tại các cơ sở đảng địa phương.

Tuy nhiên, nguyên văn của báo cáo được giữ kín, không công khai trong vòng 33 năm! Chỉ đến ngày 5/4/1989, chương trình “Vremya” của Đài Truyền hình Liên Xô đưa ra tuyên bố đặc biệt: lần đầu, trên tinh thần “công khai hóa” (glasnost), tờ “Izvestia” - cơ quan ngôn luận của Trung ương đảng Cộng sản Liên Xô - đăng tải toàn văn bài phát biểu trong số thứ 3 của năm.

Như vậy, không thể nói là người dân Xô-viết xưa, và dân Liên bang Nga hiện tại không biết tới cách đánh giá chính thống về Stalin. Hơn thế nữa, trong lịch sử, báo cáo “mật” còn là động lực cho các biến chuyển dân chủ ở Ba Lan và Hungary, cũng như, cho phong trào“Bách hoa tề phóng - Cách gia tranh minh” ở Trung Quốc, hay “Nhân văn Giai phẩm” ở Việt Nam năm 1956.

Vẫn là “anh hùng dân tộc”?

Trên cái nền ấy, có thể khó hiểu khi trong những năm gần đây, càng ngày, sự đánh giá về Stalin càng trở nên tích cực ở nước Nga của Putin, mà phương Tây cũng xem như một nhà độc tài. Những thăm dò gần đây nhất, trước làn sóng dịch bệnh Covid-19 cách nay 2 năm, cho thấy có tới 70% dân Nga cho rằng sự nghiệp chính trị của Stalin là tích cực, tức là tăng 16% so với 3 năm trước đó.

Khảo sát của Trung tâm Leveda - một viện thăm dò dư luận độc lập - cũng cho thấy, nếu vào năm 2016, có 31% số người được hỏi có ý kiến phản diện về Stalin, thì tỷ lệ này vào năm 2019 chỉ còn là 19%. Đặc biệt, có tới 45% cho rằng “quy” những tội ác cho Stalin là điều “thiếu công bằng”. Trước đó, 25% cho rằng những hành động của Stalin vào thời đó là “tất yếu về mặt chính trị”.

Leonty Byzov, chuyên viên xã hội học thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Nga cho rằng với một số người, Stalin còn được coi là “biểu tượng của công lý”. Một thăm dò khác cho thấy, 48% không hề muốn coi Stalin là có tội, và với nhiều người, tên tuổi của nhà độc tài gắn liền với chiến thắng của Liên Xô trước phát-xít Đức, niềm tự hào khiến 79% người được hỏi có mặt tại các buổi lễ lạt.

Nhà cầm quân vĩ đại hay kẻ độc tài tội lỗi? Nhiều thập niên sau khi những tư liệu cho thấy cái gọi là “thiên tài quân sự” của Stalin là không tồn tại, hoặc chí ít cũng cần xem xét lại, xã hội Nga vẫn bị chia rẽ, chưa có câu trả lời đồng nhất. Trong mắt rất nhiều người, tội ác của Stalin không có ý nghĩa gì lớn, bên cạnh việc ông đã dẫn dắt Liên Xô chiến thắng trong Thế chiến 2.

Góc nhìn ấy có thể là nguy hiểm, vì những tội ác của thể chế Stalin và con số những nạn nhân của nó từ lâu nay đã được giới sử học vạch ra khá rõ ràng. Tổ chức Memorial (Hồi tưởng) của Nga, trong nỗ lực đấu tranh để tưởng nhớ những nạn nhân của “kỷ nguyên Stalin”, cho hay có khoảng 10 triệu người chết đói, 6-7 triệu người bị tù đày vì lý do chính trị, và hơn 5 triệu bị đày ải.

Thế nhưng, theo các khảo sát, Stalin vẫn được xếp vào hàng những nhân vật lịch sử quan trọng nhất của nước Nga, và trong tâm thức của một đại cường, ông vẫn được xem như người đã phục hồi vinh quang của đế chế này. Nhất là từ năm 2014, sau khi mối quan hệ giữa Nga và phương Tây ngày một căng thẳng, nước này càng cần hình ảnh những lãnh tụ ái quốc cứng rắn.

Không phải ngẫu nhiên mà các kênh truyền hình Nga gần đây cho chiếu loạt phim mang tựa đề “Đất nước của những người Xô-viết”, hồi nhớ về những yếu nhân của bộ máy khủng bố và đàn áp Stalinist như Dzerzhinsky, Voroshilov, Molotov, Zhdanov hay Berya, khiến một số bình luận viên chính trị cho rằng, đây là một sự vinh danh những kẻ sát nhân, bên cạnh “ông trùm” Stalin.

Nền “dân chủ cọc cạch”

Việc những tội lỗi của Stalin dường như bị xóa nhòa trong mắt nhiều người dân Nga, có thể xuất phát từ chính ý đồ của Nikita Khrushchev khi chỉ coi đó là vấn đề của sự “sùng bái cá nhân”, chứ không phải bản chất của chính thể có cội nguồn từ Lenin, mà một nhà cách mạng cùng thời, bà Rosa Luxemburg ngay từ năm1918, đã vạch ra những “yếu huyệt” về sự độc đoán và phi dân chủ.

Khrushchev muốn tách biệt Stalin khỏi Lenin, nhằm từ giã “kỷ nguyên Stalin” nhưng vẫn giữ được nguyên trạng vị thế lãnh đạo của giới cầm quyền cộng sản, nên những tội ác của Stalin - trong thực tế là môn đệ trung thành và xuất sắc của Lenin - có thể sẽ không thuyết phục nhiều người, cho rằng có thể lấy một số “thành tựu” của Liên Xô để biện minh cho mọi tệ hại của thể chế này.

Rada Adzhubei, ái nữ của Khrushchev, không hề biết cha mình chuẩn bị làm điều gì vào năm 1956. Bà kể lại, cùng các bạn đồng môn ở đại học, bà vô cùng sững sờ trước bài phát biểu của cha, và bài phát biểu ấy đã khiến rất nhiều người trở nên cấp tiến hẳn lên. “Nhưng cha tôi, Khrushchev, giận dữ phản đối mọi biểu hiện hướng tới sự thanh toán thể chế Xô-viết, dù là ở Liên Xô hay Đông Âu”.

“Nước Nga không bao giờ có thể phủ nhận hoàn toàn Stalin! Đây là một trong những lý do khiến chúng tôi dậm chân tại chỗ, thậm chí tụt hậu. Ngày nay, vẫn còn một số kẻ tìm cách làm mới, hoặc ít nhất cũng mô phỏng thể chế độc tài Stalin”. Đó là ý kiến cách đây nhiều năm của Yury Levada, tên tuổi lớn của nền xã hội học Nga, người từng sáng lập viện nghiên cứu dư luận mang tên ông.

Người kế nhiệm ông tại đó, Vlagyimir Petukhov, thì khẳng định: “Người ta không lãng mạn hóa thể chế Stalin. Họ biết Stalin có nhiều tội ác, nhưng họ không muốn lịch sử Nhà nước [Xô-viết] cũng bị hủy hoại cùng với những kỷ niệm của ông ta”. Cháu gái của Khrushchev, bà Nina Khrushcheva, là giáo sư tại Mỹ, cho hay:

Người Nga chúng tôi nhận ra rằng chúng tôi không hề thích được tự do (…) Sau khi Liên Xô sụp đổ năm 1991, sự vô chính phủ hoành hành. Đối với chúng tôi, dân chủ đồng nghĩa với hỗn loạn, tội phạm, nghèo đói, thổ hào cát cứ và sự thất vọng. Trong nhiều thế kỷ, chúng tôi tìm kiếm lòng tự trọng từ Nhà nước. Chúng tôi hoài nhớ những vị quân vương xưa, những người đảm bảo trật tự, khêu gợi cảm giác ái quốc và khiến chúng tôi tin rằng Nga là một dân tộc vĩ đại”.

Ngay từ khi Putin mới nắm quyền được nhiệm kỳ đầu, bà Khrushchova đã cho rằng dân Nga cần một “lãnh tụ mạnh”, nếu có đáng sợ đi nữa cũng chả sao. Vì thế nước Nga mới sùng Putin, và theo bà cho dù người Nga không coi Putin là một Stalin mới, một “cha già dân tộc”, mà tìm thấy ở ông hiện thân của một người Nga bình thường, muốn yên ổn. “Đây cũng đã là một thứ dân chủ cọc cạch”.

Và rất có thể, trong nền “dân chủ cọc cạch” ấy, Stalin - bên cạnh những tội ác tầy trời, vẫn được vinh danh và hoài niệm, kể cả sau khi tất cả những ai trải qua và được hưởng chút lợi nào đó ở thể chế cộng sản xưa đã không còn trên thế gian này, trái với dự đoán của nhiều cây bút thời “cải tổ” (perestroika) ở Liên Xô, cho rằng sự tồn tại của tâm lý sùng bái Stalin chỉ là vấn đề thời gian...

65 năm Báo cáo “mật” : Tại sao Stalin vẫn được hoài niệm ở Nga? - Tạp chí xã hội (rfi.fr)

Công bố danh tính 50.000 nạn nhân của chế độ Staline

Lãnh tụ cộng sản Nga Lênin (T) và J. Staline tại Gorki, tháng 09/1922.
Lãnh tụ cộng sản Nga Lênin (T) và J. Staline tại Gorki, tháng 09/1922. (wikipedia)

Kiến tha lâu cũng đầy tổ : Nhà sử học người Nga, Anatoli Razoumov, trong 30 năm sự nghiệp, dành trọn thời gian để đi tìm quá khứ. Nhờ ông, 50.000 nạn nhân của chế độ Staline tại Leningrad không còn là những "người vô danh".

Hai mươi  năm 1987-2017 là thời gian nhà sử học Razoumov thai nghén để cho ra đời 13 tập cuốn "Martyrologe de Leningrad", tạm dịch là Những người bị hy sinh của thành Leningrad, tức Saint Petersbourg.

Họ là những người bị sát hại tại Leningrad trong những năm tháng Staline thi hành chính sách thanh lọc. Trả lời hãng tin Pháp AFP, tác giả cho biết ông bắt tay vào việc, vì "không tìm thấy một logic nào" để giải thích được những cái chết ấy, "về mặt con người, đấy là một sự kiện không thể nào giải thích nổi".

Có điều như ghi nhận của AFP, sử gia Anatoli Razoumov đã dày công nghiên cứu về một thời đại đen tối nhất trong lịch sử của nước Nga, trong sự thờ ơ của công luận.

Trên nước Nga của Vladimir Putin ngày nay, 80 năm sau những trang sử kinh hoàng mang đậm dấu ấn của Staline, đi tìm sự thật là một nhiệm vụ vô cùng gian nan. Không mấy ai muốn nhắc lại thời kỳ mà hàng triệu người bị hành quyết, bị đầy tới những xứ sở ngục tù, bị chết đói. Vẫn theo AFP, nước Nga ngày nay, đứng đầu là tổng thống Putin, luôn nhân danh tinh thần đoàn kết dân tộc, để hạ thấp tầm mức nghiêm trọng của những trang sử đen tối đó.

Trong bộ sách nghiên cứu "Martyrologe de Leningrad" của sử gia Razoumov, người ta đã tìm thấy nào là tên tuổi, ngày sinh, ngày tử, nghề nghiệp và cả địa chỉ của những người đã "mất tích" tại Leningrad, như thể họ "chưa bao giờ hiện hữu trên đời".

Trong tác phẩm này, Razoumov kể lại : trong giai đoạn Đại Khủng Bố, kéo dài trong vòng gần một năm rưỡi, cho tới mùa thu 1938, "đêm nào cũng có hàng loạt người bị sát hại. Họ không hề được xét xử". Trong thời kỳ đó, nhà sử học người Nga cho biết "cỗ máy thanh trừng hoạt động với công suất tối đa". Khoảng 40.000 người tại Leningrad bị giết trong vòng vài tháng.

Thân phụ của tác giả công trình nghiên cứu dài hơi nói trên là một vị tướng dưới thời Liên Xô. Gia đình ông không có ai là nạn nhân của các đợt thanh trừng dưới thời Staline.

Công bố danh tính 50.000 nạn nhân của chế độ Staline (rfi.fr)

Stalin tìm cách tiêu diệt Ukraina bằng nạn đói : 4 triệu người chết

Người dân đặt vòng hoa và nến tưởng niệm các nạn nhân của nạn đói Holodomor năm 1932-1933 tại Kiev, ngày 23/11/2019.
Người dân đặt vòng hoa và nến tưởng niệm các nạn nhân của nạn đói Holodomor năm 1932-1933 tại Kiev, ngày 23/11/2019. Genya SAVILOV / AFP

Từ năm 1932 đến 1933, một nạn đói khủng khiếp đã diễn ra tại Liên bang Xô viết. Gần 5 triệu người đã bị chết đói, trong đó có đến 4 triệu tại Ukraina. Được gọi là « holodomor » (diệt chủng bằng nạn đói), thảm trạng này không phải do thiên tai hay mất mùa, là mà hậu quả của chính sách cưỡng bức tập thể hóa ở nông thôn do đảng Cộng Sản đưa ra, buộc nông dân phải từ bỏ mảnh đất thân yêu của họ để vào nông trang hợp tác.

Tại Ukraina, một loạt các chỉ thị trấn áp đã gây ra « nạn đói trong nạn đói, một thảm họa dành riêng cho người Ukraina ». Đó là danh sách đen các làng và nông trang cần phải trừng phạt vì không đạt chỉ tiêu về ngũ cốc, tịch thu tất cả những thứ gì có thể ăn được, kiểm soát biên giới không cho những người nông dân đói khổ ra khỏi làng…

Song song đó, là một chiến dịch đàn áp trí thức Ukraina : giáo sư, nhà văn, nghệ sĩ, linh mục bị vu khống, đày ải, tàn sát, nhằm hủy hoại từ gốc rễ mọi ý định dân tộc vừa chớm nở - bị coi là thách thức cho sự « đoàn kết » của Liên bang Xô viết, được Stalin tưởng tượng ra.

« Diệt chủng bằng nạn đói » hoàn toàn bị che giấu trong thời Liên Xô cũ : về mặt chính thức, thì không hề có nạn đói. Các tài liệu lưu trữ bị hủy một cách có phương pháp, gây khó khăn cho mọi nghiên cứu về chủ đề này, ngoài những nhân chứng còn sống sót. Sau khi Liên Xô sụp đổ, người dân bắt đầu lên tiếng và các bằng chứng xuất hiện.

Nhà sử học kiêm nhà báo Anne Applebaum, đoạt giải thưởng Pulitzer năm 2004 với tác phẩm « Gu-lắc, một câu chuyện » lần này ra mắt cuốn sách gây chấn động « Nạn đói đỏ ». Tác phẩm kể lại một chương tang tóc trong quá khứ của Ukraina, nay đã trở thành một quốc gia độc lập nhưng luôn phải chiến đấu với nước láng giềng to lớn là Nga để bảo vệ chủ quyền. Tác giả đã trả lời phỏng vấn báo Libération số ra ngày 26/12/2019.

Điều gì đã thúc đẩy bà viết về chủ đề này ?

Cuốn sách là sự tiếp nối những cuốn trước, theo một cách nào đó. Tôi đã viết hai cuốn khác về chủ nghĩa Stalin, và nay có thể coi như một bộ ba cuốn. Từ lâu tôi đã muốn tìm hiểu về nạn đói này : tại sao nó xảy ra, tại sao Nhà nước lại để xảy ra, và vì sao người dân lại chấp nhận. Trong thập niên 80, nhà sử học tên tuổi Robert Conquest đã viết một tác phẩm nổi tiếng là « Mùa mưa đẫm máu ». Ngày nay khi chúng ta có thể tham khảo văn khố, thì thời kỳ này phải được mô tả cụ thể hơn, từ đầu cho đến cuối. Tôi muốn viết về lịch sử Liên Xô là vì vậy : chúng ta có thể tham khảo các tài liệu lưu trữ mới, các hồi ký, một điều không thể có được cách đây mười năm.

Phải chăng nạn đói không phải là không tránh được, nhưng Stalin vẫn để cho diễn ra ?

Còn hơn thế nữa ! Cuốn sách của tôi chứng minh rằng vào năm 1932, sự hỗn loạn, nạn đói ngự trị khắp nơi tại Liên bang Xô viết, và Stalin biết rằng Ukraina bị ảnh hưởng nặng nhất. Ông ta đã có một loạt quyết định vào mùa thu 1932, nhằm làm trầm trọng thêm nạn đói ở Ukraina. Quota ngũ cốc phải nộp được tăng lên, kèm theo các đạo luật làm giảm đi khả năng sử dụng ngôn ngữ Ukraina. Nói cách khác, đây là sự tấn công vào bản sắc Ukraina. Có những vụ bắt bớ hàng loạt trí thức. Stalin muốn thông qua sự hỗn loạn từ nạn đói để tiêu diệt ý hướng xác lập chủ quyền Ukraina.

Một trong những khó khăn đối với việc xác lập trách nhiệm của Stalin, là không có tờ giấy nào mang chữ ký của ông ta, ra lệnh gây ra nạn đói…

Hẳn là như vậy, nhưng chúng tôi có những lá thư do Stalin viết vào mùa hè1932 cho Kaganovitch, một trong những tay sai của ông ta, trong đó Stalin tỏ ra giận dữ. Vào lúc tập thể hóa, khi Ukraina bắt đầu chịu đựng nạn đói, đã xảy ra các vụ nổi dậy và phản kháng, thậm chí nổi dậy vũ trang chống lại đảng, để chống chủ trương tịch thu ngũ cốc. Một số đảng viên cộng sản Ukraina bắt đầu đánh hơi thấy, họ từ chối tịch thu thực phẩm của nông dân, khiến Stalin nổi trận lôi đình. Ông ta viết trong thư, đây là lúc phải đàn áp.

Vài tuần sau, có các chỉ thị mật nhắm vào Ukraina. Nạn đói gia tăng, và đến mùa xuân 1933, tỉ lệ tử vong lên rất cao. Cần nhắc lại rằng đó không phải do hạn hán, mà trước hết là lúa mì rồi rau quả, khoai tây và gia súc lần lượt bị tịch biên. Tháng 12 rồi tháng Giêng, tháng Hai, các đội dân quân đi càn khắp Ukraina và tịch thu thực phẩm, tuy biết rằng người dân đang chết đói. Có rất nhiều bản báo cáo, kể cả của công an, về các vụ ăn thịt người. Như vậy có rất nhiều bằng chứng là Stalin đã biết.

Bà dành phần kết cho nạn « diệt chủng » khi nói về nạn đói này …

Từ này là của Raphael Lemkin, một luật sư Ba Lan gốc Do Thái, nay sống tại Ukraina. Theo định nghĩa ban đầu, đây không chỉ là sự tàn sát hàng loạt mà còn là mưu toan tiêu diệt một nền văn hóa khác, vốn đã từng xảy ra nhiều lần trong lịch sử thế giới và đặc biệt tại khu vực này của châu Âu. Một sự chiếm đóng không chỉ đơn thuần chính trị mà đi kèm việc phá hủy các nhà thờ, cấm sử dụng ngôn ngữ…đó là hiện tượng mà Lemkin muốn định nghĩa.

Sau Đệ nhị Thế chiến, từ « diệt chủng » đã được quốc tế luật hóa, có hẳn một chương của Liên Hiệp Quốc. Rốt cuộc ý nghĩa được chấp nhận là điều tương tự như diệt chủng người Do Thái, tức là một quốc gia muốn sát hại toàn bộ cư dân của một quốc gia khác. Nạn đói ở Ukraina như vậy không nằm trong ý nghĩa này, nhưng là diệt chủng theo nghĩa nguyên thủy – mưu toan giết người vì nguồn gốc của họ, gây thiệt hại về văn hóa và hủy hoại chủ quyền Ukraina.

Tôi đưa chủ đề diệt chủng vào phần kết vì không muốn cuốn sách bị coi là tranh luận về diệt chủng – vốn mang tính pháp luật và đạo đức – trong khi tôi viết sách về lịch sử. Việc này làm nhiều người Ukraina thất vọng vì họ muốn holodomor phải được nhìn nhận là diệt chủng.

Có sự lặp lại trong quan hệ giữa Matxcơva và Kiev trong thập niên 30 và ngày nay ?

Cần chú ý, Putin không phải là Stalin, chúng ta đang trong một kỷ nguyên hoàn toàn khác. Nhưng lịch sử nạn đói cho thấy tư duy của Matxcơva về Ukraina. Điều làm Stalin lo sợ là khả năng nổ ra một phong trào quốc gia Ukraina, tách rời Ukraina ra khỏi Liên Xô, thách thức lý tưởng bôn-sê-vich. Stalin lo ngại chủ nghĩa dân tộc tự do phương Tây và ý hướng dân chủ, sợ Ukraina quan hệ chặt chẽ hơn với phương Tây.

Putin ngày nay cũng nghi ngại Ukraina với cùng một lý do. Tất nhiên Ukraina không phải là mối đe dọa quân sự cho Nga, nhưng là vấn đề lớn về ý thức hệ. Khi những người biểu tình ở Kiev vẫy cờ châu Âu, kêu gọi chấm dứt tham nhũng và tổng thống phải bỏ trốn, đó chính là kịch bản mà Putin sợ hãi. Trong thập niên 30 cũng như bây giờ, phong trào quốc gia Ukraina luôn là thách thức đối với Kremlin. Trong quá khứ là chế độ toàn trị bôn-sê-vich, còn giờ đây là chế độ độc tài tham nhũng của Putin.

Ngược lại, nạn đói đã thay đổi cái nhìn của Ukraina về Nga như thế nào ?

Chính phủ Ukraina luôn rất thận trọng, nói về một tội ác do Nhà nước xô viết gây ra chứ không phải Nga. Đây không phải là xung đột quốc gia giữa Nga với Ukraina. Nhưng trong suốt thế kỷ 20, nạn đói là bí mật tại Liên Xô và chỉ được cộng đồng Ukraina lén lút đề cập đến. Đó là điều đã diễn ra khi người Ukraina không có chủ quyền và Nhà nước của chính mình : họ bị thảm sát.

Bà hy vọng cuốn sách của mình sẽ có tác động gì ngoài giới học thuật ?

Tôi viết cho một công chúng rộng hơn. Tôi muốn người đọc biết được lịch sử Ukraina, nhất là từ khi nước này trở thành vấn đề địa chính trị hết sức quan trọng. Nói thẳng ra là nếu bị Nga nuốt chửng, thì Nga sẽ trở thành một siêu cường châu Âu ; nhưng không có Ukraina, Nga không thể là đế quốc. Như vậy Ukraina độc lập, có chủ quyền và làm chủ định mệnh của mình chứ không phải chư hầu, là điều cốt lõi cho an ninh châu Âu, cho tất cả chúng ta.

Lịch sử ít được biết đến này ảnh hưởng đến dư luận phương Tây về cuộc xung đột hiện nay giữa hai nước ?

Chắc chắn rồi. Người ta không biết về lịch sử Ukraina, không coi là một Nhà nước thực sự - điều này có thể hiểu được vì cho đến 1991 Ukraina mới có chủ quyền. Một trong những mục tiêu của tác phẩm là giới thiệu đất nước này, lý do của cuộc xung đột với Nga, những nguyên nhân sâu xa hơn trong lịch sử đương đại.

Liệu bà sẽ tiếp tục nghiên cứu về thời kỳ xô viết ?

Tôi sẽ không viết thêm cuốn sách nào nữa về Stalin, « Nạn đói đỏ » quá đau lòng khi viết ra. Trận đói này là một trong những thảm họa tàn bạo nhất, câu chuyện của những nông dân mù chữ và các em bé chết vì đói. Những trí thức bị nhốt trong trại cải tạo thì còn có thể hiểu được, đằng này tai họa lại giáng xuống những con người nhỏ nhoi tội nghiệp không thể tự vệ…

Một số đoạn trong cuốn sách khó viết ra hơn là « Gu-lắc » - dù « Gu-lắc » nói về một chủ đề phức tạp hơn. Nhưng khi tôi kết thúc bằng màu sắc hết sức bi quan, và đưa cho một nhà sử học Ukraina trẻ đã giúp đỡ tôi xem qua, thì cô ấy nói : « Bà không thể kết như vậy được. Lịch sử của chúng tôi không dừng lại vào năm 1934. Stalin tìm cách tiêu diệt Ukraina nhưng thất bại. Ukraina đã sống sót và ngày nay là một quốc gia có chủ quyền, đó là hồi kết có hậu ». Cô ấy có lý, và tác phẩm của tôi đã kết thúc như thế. Chúng ta có thể vui mừng với sự độc lập của Ukraina ngày nay.

Stalin tìm cách tiêu diệt Ukraina bằng nạn đói : 4 triệu người chết (rfi.fr)

Geen opmerkingen:

Een reactie posten