15 năm Internet VN: Hành trình thuyết phục ròng rã
Tiến sĩ Mai Liêm Trực, nguyên Thứ trưởng Bộ Bưu chính viễn
thông, chia sẻ rằng mỗi ngày thấy chị bán rau, anh xe ôm... trước nhà cũng có
điện thoại, cũng bàn chuyện trên Internet, ông lại xúc động và thấy may mắn vì
đã mạnh dạn vận động mở cửa Internet.
Được mệnh danh là người có ảnh hưởng số một đến Internet Việt Nam và có tên
trong danh sách 50 Người Tiên phong do VnExpress.net
tổ chức bầu chọn, tiến sĩ Mai Liêm Trực không giấu được sự bồi hồi khi nhớ
lại quãng thời gian không thể nào quên - những ngày đầu Việt Nam hoà mạng
Internet toàn cầu cách đây 15 năm (Internet mở cửa từ 19/11/1997) và quá trình
vận động nhằm thay đổi quan niệm về quản lý Internet kéo dài xuyên qua hai thế
kỷ.
- Cách đây 15 năm, không phải ai cũng có thể hiểu được tầm quan trọng của
Internet. Trong hoàn cảnh nào ông đã nhận thấy sự cần thiết phải triển khai
Internet ở Việt Nam?
- Năm 1991, tôi sang Mỹ dự hội nghị thông tin vệ tinh của thế giới và bạn bè quốc tế giới thiệu với tôi về Internet. Tôi cảm thấy rất hấp dẫn bởi khi đó chúng ta đã có điện báo, điện thoại, fax nhưng cùng với Internet là sự phát triển của thư điện tử. Cũng trong năm đó, World Wide Web ra đời đã tiếp sức mạnh và làm tăng triển vọng của mạng kết nối toàn cầu. Khi về nước, tôi cùng các nhà khoa học công nghệ như ông Bạch Hưng Khang, Trần Bá Thái... hỗ trợ nhau về viễn thông và công nghệ để làm sao kết nối Internet ra nước ngoài. Những bức thư điện tử đầu tiên của các lãnh đạo và chuyên gia Việt Nam với một số nước, như e-mail của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt gửi cho lãnh đạo Thụy Điển chính là chất xúc tác lớn cho khát vọng của những người làm khoa học công nghệ và viễn thông là sớm triển khai Internet ở Việt Nam.
Chúng ta biết rằng, nhiều công nghệ đã xuất hiện muộn tại Việt Nam như điện thoại chậm khoảng 50 năm, truyền hình chậm 30 năm so với thế giới. Ngành viễn thông may mắn đã được số hóa (hướng đi được giới chuyên môn đánh giá là táo bạo vì lúc đó, đa số mạng viễn thông thế giới vẫn là analog) song song với sự phát triển của Internet cuối những năm 80 đầu 90 của thế kỷ trước. Cho nên chúng tôi quyết tâm rằng cùng với sự hiện đại hóa của viễn thông, Internet sẽ là nhu cầu, sức ép của thời đại mới.
- Ông và các chuyên gia gặp khó khăn gì khi thuyết phục các nhà lãnh đạo?
- Khi lãnh đạo Đảng và Chính phủ lắng nghe đề xuất đầu tiên, nhiều lo ngại được đề cập như nguy cơ lộ bí mật Nhà nước hay liệu có quản được thông tin độc hại trên Internet không. Những lo ngại đó hoàn toàn chính đáng. Chúng ta đã hy sinh, mất mát quá lớn trong chiến tranh nên phải thận trọng. Nhưng chúng tôi đặt vấn đề là không kết nối Internet thì Việt Nam không thể hội nhập. Thế giới đang bước vào thời kỳ mà Internet sẽ đóng vai trò rất quan trọng. Khi Việt Nam tham gia Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á năm 1995, người ta đã bắt đầu nói đến ASEAN điện tử. Việt Nam không mở Internet thì làm sao gia nhập được ASEAN điện tử. Đây là vấn đề cấp bách, không làm không được, không làm thì Việt Nam bị cô lập và lạc hậu.
- Vậy ông và các chuyên gia đã làm thế nào để "trấn an" cấp trên và đâu là cú hích khiến Internet được mở cửa?
- Trong nhiều năm, Tổng cục Bưu điện (tiền thân của Bộ Bưu chính Viễn thông Việt Nam) nơi tôi làm Tổng cục trưởng được lãnh đạo Đảng và Nhà nước yêu cầu làm sao để báo chí Việt Nam, như Nhân Dân, Quân Đội và các báo kinh tế có thể tuyên truyền ra nước ngoài. Tuy nhiên, chi phí một cân báo gửi tới châu Âu hoặc châu Mỹ mất khoảng 10 USD, chưa kể sau khi chuyển lại không có ai đi phân phối. Internet chính là câu trả lời cho vướng mắc đó. Đây là một trong những yếu tố khiến các nhà lãnh đạo đồng ý mở Internet, nhưng tôi nghĩ, tác động mạnh nhất tới quyết định cuối cùng chính là sự tin cậy vào những con người trực tiếp triển khai.
Chúng tôi cũng học hỏi kinh nghiệm nhiều nước đồng thời áp dụng biện pháp riêng để ngăn ngừa mặt tiêu cực như triển khai tường lửa hay ký thông tư liên tịch giữa Tổng cục Bưu điện và Bộ Công an... Thế nhưng, ở giai đoạn sơ khai với nhiều nhạy cảm, các nhà lãnh đạo đã ra quyết định rằng quản lý Internet được đến đâu thì mở đến đó. Tuy không ủng hộ quan điểm này, tôi cho rằng đó là điều hợp lý trong thời kỳ đầu của Internet.
- Cảm xúc của ông thế nào vào thời khắc Internet được mở cửa?
- Thở phào nhẹ nhõm. Trước đó, tôi cùng một số chuyên gia đã có cuộc gặp gỡ tại nhà riêng của Thủ tướng Phan Văn Khải. Khi về, Thủ tướng vỗ vai tôi nhắn nhủ: "Trực ơi, quản lý cho tốt vào nhé". Tôi bỗng hiểu rằng, đó vừa là lời động viên, là sự thể hiện quyết tâm chính trị của lãnh đạo trong thời mở cửa và hội nhập nhưng cũng vừa là lời nhắc nhở về trách nhiệm của mình, rằng mình cần thận trọng, theo dõi sát sao khi Internet ra đời.
Ngày 19/11, lễ ấn nút mở cửa Internet đã diễn ra. Mở cửa Internet không chỉ mang lại lợi ích cho đất nước mà còn tác động lớn đến niềm tin của các nước rằng chúng ta đang tích cực hội nhập. Nhưng sau khoảng 6 tháng, trong cuộc họp của ban chỉ đạo quốc gia, một vài cơ quan chức năng đề cập đến một loạt bài viết có nội dung tiêu cực trên mạng. Lắng nghe báo cáo, tôi giật mình nhớ tới câu nói của Thủ tướng Phan Văn Khải rằng nếu mở Internet ra rồi mà còn đóng lại thì không biết ăn nói thế nào. Làm sao yên lòng tiếp tục tham gia, tiếp tục phát triển trên Internet? Lại phải thuyết phục thôi. Tôi nói báo chí quê hương đã lên mạng, người ta nói sai thì Internet mang đến cho mình cơ hội nói lại. Nếu chúng ta không có Internet, người ta vẫn nói những điều không đúng và cả thế giới vẫn đọc được trong khi mình không có điều kiện phản bác. Thời đó, các báo chính thống như Nhân Dân, Quân Đội, truyền hình... đều không tiếp cận được hoặc tiếp cận rất hạn chế với đồng bào ở nước ngoài. Internet không chỉ giúp chúng ta phản biện trên mạng mà còn khiến Việt Nam không bị cô lập về mặt thông tin.
- Mở Internet đã khó, thay đổi quan điểm "quản đến đâu mở đến đó" còn khó hơn. Ông và các chuyên gia đã làm thế nào để thuyết phục các nhà lãnh đạo?
- Với quan điểm quản đến đâu mở đến đó, Việt Nam chưa có đại lý Internet nên số người sử dụng rất hạn chế. Giới khoa học và chuyên gia tiếp tục thực hiện cuộc vận động mới với mong muốn có nghị định mới về Internet. Rào cản lớn nhất là sự độc quyền viễn thông - Internet. Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt từ năm 1995 đã có chủ trương mở cửa thị trường viễn thông nhưng nhiều năm không thực hiện được vì cái gọi là "sự độc quyền tự nhiên". Đây là vấn đề nhạy cảm, khó thực hiện ở hầu hết tất cả các nước chứ không riêng gì Việt Nam. Như Mỹ, Australia cũng mất đến 10 năm mới có thể phá bỏ độc quyền.
Từ năm 1997 đến năm 1999, Việt Nam bắt đầu các phiên đàm phán hiệp định thương mại Việt - Mỹ, trong đó có lộ trình mở cửa thị trường viễn thông. Đến giờ chót, trước khi ông Vũ Khoan, khi đó là Bộ trưởng Bộ Thương mại, đặt bút ký Hiệp định tại Washington (Mỹ) vào năm 2001, Ban Thường vụ Bộ chính trị đã gọi trực tiếp cho tôi và ông Lê Đức Thúy, Thống đốc ngân hàng, yêu cầu giải trình lần cuối để cân nhắc có gọi sang cho Vũ Khoan ký hay không. Nói vậy để thấy quyết định mở cửa viễn thông nhạy cảm tới mức nào. Mở Internet chủ yếu là thuyết phục cấp trên nhưng với viễn thông thì còn là sự thuyết phục ngay bên trong nội bộ. Tôi động viên mọi người rằng mình cạnh tranh sòng phẳng thì thành tích của mình mới xứng đáng, chứ độc quyền thì sẽ liên tục bị xã hội lên án. Như hiện nay người ta kêu ngành điện lực thu nhập cao thế sao cứ kêu lỗ, người làm điện lực hẳn thấy tự ái, nếu là tôi thì tôi cũng cảm thấy tự ái. Nhưng nếu cạnh tranh bình đẳng, anh có thu nhập cao anh sẽ càng tự hào. Quan trọng hơn, nó tạo ra sức ép trong nội bộ, còn không tư duy bao cấp, ỷ lại sẽ còn tồn tại mãi.
Chúng tôi may mắn được phối hợp với đồng chí Đặng Hữu, khi đó là Trưởng Ban khoa giáo Trung ương, người rất ủng hộ cho Internet phát triển. Chúng tôi cương quyết thay đổi quan niệm, không phải quản đến đâu mở đến đấy mà là quản lý phải theo kịp sự phát triển. Vì thế, khi Nghị định 55 về quản lý Internet được ban hành năm 2001, các đại lý Internet, như thể bấy lâu bức bí không thoát ra được, nở rộ như nấm mọc sau mưa. Cũng chỉ sau một năm có quyết định cho phép doanh nghiệp cùng cạnh tranh Internet, FPT đã chiếm được 30% thị phần. Tôi rất mừng và thở phào bởi từ lúc này, không ai có thể đóng Internet vì cả xã hội đã thấy được sức mạnh quá lớn của nó. Nhiều doanh nghiệp cảm ơn Tổng cục Bưu điện và tôi, nhưng tôi mới phải cảm ơn lại FPT, Viettel vì nếu họ không thành công tức là chính sách của tôi thất bại. VNPT có công rất lớn trong quá trình số hóa, nhưng phá bỏ độc quyền nghĩa là chúng ta không cản trở sự phát triển của đất nước.
Sau 15 năm nhìn lại, có thể khẳng định Việt Nam đã thành công khi có thị trường viễn thông - Internet vào loại hàng đầu của khu vực và thế giới trên ba tiêu chí. Thứ nhất, công nghệ của chúng ta tương đồng không thua nước nào từ cáp quang, 3G và sắp tới là 4G. Đứng về giá cả, cước phí dịch vụ trong nước thấp hơn so với nhiều quốc gia khác. Nhiều người đi nước ngoài về nói Internet Việt Nam là "thiên đường". Thứ ba là về mức độ phổ cập, Internet hiện chiếm hơn 30%, thuê bao di động chiếm 130% trên tổng số dân.
- Chứng kiến Internet ngày càng phát triển, cảm xúc của ông - người số một của Internet Việt Nam - như thế nào?
- Tôi rất vui vì mình đã đóng góp cho sự phát triển của Internet và được xã hội tôn vinh, nhưng đó chỉ là một phần. Điều tôi mừng nhất là khi chứng kiến công nghệ và Internet đang thay đổi cuộc sống xung quanh. Mỗi ngày nhìn ra cửa thấy mọi người từ già đến trẻ đều cầm điện thoại bấm bấm, thấy chị bán rau, bác đồng nát cũng bàn chuyện mới diễn ra trên mạng, mình xúc động lắm chứ. Và trên hết, tôi thấy may mắn vì Việt Nam đã không chậm chân trước con tàu Internet, bởi nếu lúc đó chúng ta không mạnh dạn mở cửa với lý do an ninh, nhạy cảm... thì giờ sẽ cảm thấy có lỗi với dân vì đã cản trở sự phát triển của đất nước.
- Ông cảm thấy thế nào khi giới trẻ dành quá nhiều thời gian trên mạng xã hội và diễn đàn hiện nay?
- Diễn đàn, mạng xã hội không chỉ là nơi giới trẻ yêu thích mà ở đó, người tham gia tự điều chỉnh những cái lệch lạc. Những quan điểm vô văn hóa sẽ bị "ném đá", có người tưởng mình giỏi, mình hay nhưng khi đưa quan điểm lên mạng, được góp ý, phân tích thì hóa ra mình sai, mình ngộ nhận. Chính những phản ứng xã hội trên mạng giúp nâng cao dân trí. Vì thế, chúng ta nên tích cực trao đổi và đối thoại. Giới trẻ lọc thông tin rất tốt. Tôi rất cảm động khi chứng kiến mọi người chung tay giúp đỡ các hoàn cảnh khó khăn được chia sẻ trên mạng. Tôi cũng rất vui khi thấy mọi người cùng phản đối những câu nói vô cảm trên diễn đàn.
- Thế hệ trẻ ngày nay coi Internet như một nỗi đam mê. Tôi có 4 đứa cháu (17 tuổi, 12 tuổi, 8 tuổi và 3 tuổi) đều lên mạng cả. Bé nhỏ nhất cũng đã biết tự mở FaceTime (dịch vụ chat hình trên iPhone và iPad) để gọi về cho ông và đôi khi tôi bị đánh thức lúc 1h đêm vì cháu đang ở nước ngoài và chưa hiểu về chênh lệch múi giờ.
Tôi đi du học ở Đức lúc 17-18 tuổi, ấn radio còn sợ điện giật. Thế mà giờ một em bé cũng có thể sử dụng thiết bị thành thạo. Trước tôi cũng lo lắng sợ mấy đứa trẻ trong nhà nghiện chơi game vì mình bận rộn công việc còn bọn trẻ lại thiếu không gian chơi nên chỉ có thể tiêu khiển bằng xem phim hoạt hình và vào mạng. Thống kê những năm đầu cho thấy 30-40% lưu lượng Internet đến từ game nên tôi cũng sốt ruột nhưng hóa ra, nhiều nước khác thời kỳ đầu cũng na ná như vậy. Bên cạnh đó, tiếng Anh của các cháu khá hơn hẳn, rèn luyện trí thông minh và quen làm việc tốc độ cao. Cháu tôi lúc 10 tuổi lần đầu đi trại hè quốc tế nhưng nhập cuộc rất nhanh. Ngôn ngữ có thể bất đồng nhưng chỉ cần vào mạng hay dùng chung iPad là chúng hiểu nhau ngay, không có Internet thì làm sao được như vậy?
- Năm 1991, tôi sang Mỹ dự hội nghị thông tin vệ tinh của thế giới và bạn bè quốc tế giới thiệu với tôi về Internet. Tôi cảm thấy rất hấp dẫn bởi khi đó chúng ta đã có điện báo, điện thoại, fax nhưng cùng với Internet là sự phát triển của thư điện tử. Cũng trong năm đó, World Wide Web ra đời đã tiếp sức mạnh và làm tăng triển vọng của mạng kết nối toàn cầu. Khi về nước, tôi cùng các nhà khoa học công nghệ như ông Bạch Hưng Khang, Trần Bá Thái... hỗ trợ nhau về viễn thông và công nghệ để làm sao kết nối Internet ra nước ngoài. Những bức thư điện tử đầu tiên của các lãnh đạo và chuyên gia Việt Nam với một số nước, như e-mail của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt gửi cho lãnh đạo Thụy Điển chính là chất xúc tác lớn cho khát vọng của những người làm khoa học công nghệ và viễn thông là sớm triển khai Internet ở Việt Nam.
Chúng ta biết rằng, nhiều công nghệ đã xuất hiện muộn tại Việt Nam như điện thoại chậm khoảng 50 năm, truyền hình chậm 30 năm so với thế giới. Ngành viễn thông may mắn đã được số hóa (hướng đi được giới chuyên môn đánh giá là táo bạo vì lúc đó, đa số mạng viễn thông thế giới vẫn là analog) song song với sự phát triển của Internet cuối những năm 80 đầu 90 của thế kỷ trước. Cho nên chúng tôi quyết tâm rằng cùng với sự hiện đại hóa của viễn thông, Internet sẽ là nhu cầu, sức ép của thời đại mới.
- Ông và các chuyên gia gặp khó khăn gì khi thuyết phục các nhà lãnh đạo?
- Khi lãnh đạo Đảng và Chính phủ lắng nghe đề xuất đầu tiên, nhiều lo ngại được đề cập như nguy cơ lộ bí mật Nhà nước hay liệu có quản được thông tin độc hại trên Internet không. Những lo ngại đó hoàn toàn chính đáng. Chúng ta đã hy sinh, mất mát quá lớn trong chiến tranh nên phải thận trọng. Nhưng chúng tôi đặt vấn đề là không kết nối Internet thì Việt Nam không thể hội nhập. Thế giới đang bước vào thời kỳ mà Internet sẽ đóng vai trò rất quan trọng. Khi Việt Nam tham gia Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á năm 1995, người ta đã bắt đầu nói đến ASEAN điện tử. Việt Nam không mở Internet thì làm sao gia nhập được ASEAN điện tử. Đây là vấn đề cấp bách, không làm không được, không làm thì Việt Nam bị cô lập và lạc hậu.
- Vậy ông và các chuyên gia đã làm thế nào để "trấn an" cấp trên và đâu là cú hích khiến Internet được mở cửa?
- Trong nhiều năm, Tổng cục Bưu điện (tiền thân của Bộ Bưu chính Viễn thông Việt Nam) nơi tôi làm Tổng cục trưởng được lãnh đạo Đảng và Nhà nước yêu cầu làm sao để báo chí Việt Nam, như Nhân Dân, Quân Đội và các báo kinh tế có thể tuyên truyền ra nước ngoài. Tuy nhiên, chi phí một cân báo gửi tới châu Âu hoặc châu Mỹ mất khoảng 10 USD, chưa kể sau khi chuyển lại không có ai đi phân phối. Internet chính là câu trả lời cho vướng mắc đó. Đây là một trong những yếu tố khiến các nhà lãnh đạo đồng ý mở Internet, nhưng tôi nghĩ, tác động mạnh nhất tới quyết định cuối cùng chính là sự tin cậy vào những con người trực tiếp triển khai.
Chúng tôi cũng học hỏi kinh nghiệm nhiều nước đồng thời áp dụng biện pháp riêng để ngăn ngừa mặt tiêu cực như triển khai tường lửa hay ký thông tư liên tịch giữa Tổng cục Bưu điện và Bộ Công an... Thế nhưng, ở giai đoạn sơ khai với nhiều nhạy cảm, các nhà lãnh đạo đã ra quyết định rằng quản lý Internet được đến đâu thì mở đến đó. Tuy không ủng hộ quan điểm này, tôi cho rằng đó là điều hợp lý trong thời kỳ đầu của Internet.
- Cảm xúc của ông thế nào vào thời khắc Internet được mở cửa?
- Thở phào nhẹ nhõm. Trước đó, tôi cùng một số chuyên gia đã có cuộc gặp gỡ tại nhà riêng của Thủ tướng Phan Văn Khải. Khi về, Thủ tướng vỗ vai tôi nhắn nhủ: "Trực ơi, quản lý cho tốt vào nhé". Tôi bỗng hiểu rằng, đó vừa là lời động viên, là sự thể hiện quyết tâm chính trị của lãnh đạo trong thời mở cửa và hội nhập nhưng cũng vừa là lời nhắc nhở về trách nhiệm của mình, rằng mình cần thận trọng, theo dõi sát sao khi Internet ra đời.
Ngày 19/11, lễ ấn nút mở cửa Internet đã diễn ra. Mở cửa Internet không chỉ mang lại lợi ích cho đất nước mà còn tác động lớn đến niềm tin của các nước rằng chúng ta đang tích cực hội nhập. Nhưng sau khoảng 6 tháng, trong cuộc họp của ban chỉ đạo quốc gia, một vài cơ quan chức năng đề cập đến một loạt bài viết có nội dung tiêu cực trên mạng. Lắng nghe báo cáo, tôi giật mình nhớ tới câu nói của Thủ tướng Phan Văn Khải rằng nếu mở Internet ra rồi mà còn đóng lại thì không biết ăn nói thế nào. Làm sao yên lòng tiếp tục tham gia, tiếp tục phát triển trên Internet? Lại phải thuyết phục thôi. Tôi nói báo chí quê hương đã lên mạng, người ta nói sai thì Internet mang đến cho mình cơ hội nói lại. Nếu chúng ta không có Internet, người ta vẫn nói những điều không đúng và cả thế giới vẫn đọc được trong khi mình không có điều kiện phản bác. Thời đó, các báo chính thống như Nhân Dân, Quân Đội, truyền hình... đều không tiếp cận được hoặc tiếp cận rất hạn chế với đồng bào ở nước ngoài. Internet không chỉ giúp chúng ta phản biện trên mạng mà còn khiến Việt Nam không bị cô lập về mặt thông tin.
- Mở Internet đã khó, thay đổi quan điểm "quản đến đâu mở đến đó" còn khó hơn. Ông và các chuyên gia đã làm thế nào để thuyết phục các nhà lãnh đạo?
- Với quan điểm quản đến đâu mở đến đó, Việt Nam chưa có đại lý Internet nên số người sử dụng rất hạn chế. Giới khoa học và chuyên gia tiếp tục thực hiện cuộc vận động mới với mong muốn có nghị định mới về Internet. Rào cản lớn nhất là sự độc quyền viễn thông - Internet. Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt từ năm 1995 đã có chủ trương mở cửa thị trường viễn thông nhưng nhiều năm không thực hiện được vì cái gọi là "sự độc quyền tự nhiên". Đây là vấn đề nhạy cảm, khó thực hiện ở hầu hết tất cả các nước chứ không riêng gì Việt Nam. Như Mỹ, Australia cũng mất đến 10 năm mới có thể phá bỏ độc quyền.
Từ năm 1997 đến năm 1999, Việt Nam bắt đầu các phiên đàm phán hiệp định thương mại Việt - Mỹ, trong đó có lộ trình mở cửa thị trường viễn thông. Đến giờ chót, trước khi ông Vũ Khoan, khi đó là Bộ trưởng Bộ Thương mại, đặt bút ký Hiệp định tại Washington (Mỹ) vào năm 2001, Ban Thường vụ Bộ chính trị đã gọi trực tiếp cho tôi và ông Lê Đức Thúy, Thống đốc ngân hàng, yêu cầu giải trình lần cuối để cân nhắc có gọi sang cho Vũ Khoan ký hay không. Nói vậy để thấy quyết định mở cửa viễn thông nhạy cảm tới mức nào. Mở Internet chủ yếu là thuyết phục cấp trên nhưng với viễn thông thì còn là sự thuyết phục ngay bên trong nội bộ. Tôi động viên mọi người rằng mình cạnh tranh sòng phẳng thì thành tích của mình mới xứng đáng, chứ độc quyền thì sẽ liên tục bị xã hội lên án. Như hiện nay người ta kêu ngành điện lực thu nhập cao thế sao cứ kêu lỗ, người làm điện lực hẳn thấy tự ái, nếu là tôi thì tôi cũng cảm thấy tự ái. Nhưng nếu cạnh tranh bình đẳng, anh có thu nhập cao anh sẽ càng tự hào. Quan trọng hơn, nó tạo ra sức ép trong nội bộ, còn không tư duy bao cấp, ỷ lại sẽ còn tồn tại mãi.
Chúng tôi may mắn được phối hợp với đồng chí Đặng Hữu, khi đó là Trưởng Ban khoa giáo Trung ương, người rất ủng hộ cho Internet phát triển. Chúng tôi cương quyết thay đổi quan niệm, không phải quản đến đâu mở đến đấy mà là quản lý phải theo kịp sự phát triển. Vì thế, khi Nghị định 55 về quản lý Internet được ban hành năm 2001, các đại lý Internet, như thể bấy lâu bức bí không thoát ra được, nở rộ như nấm mọc sau mưa. Cũng chỉ sau một năm có quyết định cho phép doanh nghiệp cùng cạnh tranh Internet, FPT đã chiếm được 30% thị phần. Tôi rất mừng và thở phào bởi từ lúc này, không ai có thể đóng Internet vì cả xã hội đã thấy được sức mạnh quá lớn của nó. Nhiều doanh nghiệp cảm ơn Tổng cục Bưu điện và tôi, nhưng tôi mới phải cảm ơn lại FPT, Viettel vì nếu họ không thành công tức là chính sách của tôi thất bại. VNPT có công rất lớn trong quá trình số hóa, nhưng phá bỏ độc quyền nghĩa là chúng ta không cản trở sự phát triển của đất nước.
Sau 15 năm nhìn lại, có thể khẳng định Việt Nam đã thành công khi có thị trường viễn thông - Internet vào loại hàng đầu của khu vực và thế giới trên ba tiêu chí. Thứ nhất, công nghệ của chúng ta tương đồng không thua nước nào từ cáp quang, 3G và sắp tới là 4G. Đứng về giá cả, cước phí dịch vụ trong nước thấp hơn so với nhiều quốc gia khác. Nhiều người đi nước ngoài về nói Internet Việt Nam là "thiên đường". Thứ ba là về mức độ phổ cập, Internet hiện chiếm hơn 30%, thuê bao di động chiếm 130% trên tổng số dân.
- Chứng kiến Internet ngày càng phát triển, cảm xúc của ông - người số một của Internet Việt Nam - như thế nào?
- Tôi rất vui vì mình đã đóng góp cho sự phát triển của Internet và được xã hội tôn vinh, nhưng đó chỉ là một phần. Điều tôi mừng nhất là khi chứng kiến công nghệ và Internet đang thay đổi cuộc sống xung quanh. Mỗi ngày nhìn ra cửa thấy mọi người từ già đến trẻ đều cầm điện thoại bấm bấm, thấy chị bán rau, bác đồng nát cũng bàn chuyện mới diễn ra trên mạng, mình xúc động lắm chứ. Và trên hết, tôi thấy may mắn vì Việt Nam đã không chậm chân trước con tàu Internet, bởi nếu lúc đó chúng ta không mạnh dạn mở cửa với lý do an ninh, nhạy cảm... thì giờ sẽ cảm thấy có lỗi với dân vì đã cản trở sự phát triển của đất nước.
- Ông cảm thấy thế nào khi giới trẻ dành quá nhiều thời gian trên mạng xã hội và diễn đàn hiện nay?
- Diễn đàn, mạng xã hội không chỉ là nơi giới trẻ yêu thích mà ở đó, người tham gia tự điều chỉnh những cái lệch lạc. Những quan điểm vô văn hóa sẽ bị "ném đá", có người tưởng mình giỏi, mình hay nhưng khi đưa quan điểm lên mạng, được góp ý, phân tích thì hóa ra mình sai, mình ngộ nhận. Chính những phản ứng xã hội trên mạng giúp nâng cao dân trí. Vì thế, chúng ta nên tích cực trao đổi và đối thoại. Giới trẻ lọc thông tin rất tốt. Tôi rất cảm động khi chứng kiến mọi người chung tay giúp đỡ các hoàn cảnh khó khăn được chia sẻ trên mạng. Tôi cũng rất vui khi thấy mọi người cùng phản đối những câu nói vô cảm trên diễn đàn.
Ở đâu cũng có mặt hạn chế, tiêu cực, phải coi đó là chuyện không thể tránh.
Nếu thấy thông tin sai thì các nhà lý luận chính trị - xã hội... có thể lên mạng
xã hội để đối thoại một cách quang minh chính đại chứ không nhất thiết phải lên
tiếng trên mặt báo hay các kênh chính thống. Chúng ta không nên lo ngại mà cần
tăng cường trao đổi (tôi không thích dùng từ tuyên truyền) để hướng đến giá trị
chân chính.
- Đang làm giám khảo của cuộc thi "Internet thay đổi cuộc sống của bạn như thế
nào", ông có thể chia sẻ Internet đã thay đổi cuộc sống của gia đình ông ra
sao?
Với sự phổ biến của smartphone, tablet, băng rộng..., chắc chắn Internet
còn tác động mạnh hơn nữa đến con người. Rồi đây, ranh giới giữa cuộc sống
online và offline sẽ bị xóa nhòa. Người ta hay nhắc đến cuộc sống ảo nhưng không
phải, đó là cuộc sống thật. Thực ra, cuộc sống online còn thật hơn offline vì
người ta có thể thẳng thắn nêu quan điểm mà chưa chắc đã dám nói khi đối
mặt.
- Thế hệ trẻ ngày nay coi Internet như một nỗi đam mê. Tôi có 4 đứa cháu (17 tuổi, 12 tuổi, 8 tuổi và 3 tuổi) đều lên mạng cả. Bé nhỏ nhất cũng đã biết tự mở FaceTime (dịch vụ chat hình trên iPhone và iPad) để gọi về cho ông và đôi khi tôi bị đánh thức lúc 1h đêm vì cháu đang ở nước ngoài và chưa hiểu về chênh lệch múi giờ.
Tôi đi du học ở Đức lúc 17-18 tuổi, ấn radio còn sợ điện giật. Thế mà giờ một em bé cũng có thể sử dụng thiết bị thành thạo. Trước tôi cũng lo lắng sợ mấy đứa trẻ trong nhà nghiện chơi game vì mình bận rộn công việc còn bọn trẻ lại thiếu không gian chơi nên chỉ có thể tiêu khiển bằng xem phim hoạt hình và vào mạng. Thống kê những năm đầu cho thấy 30-40% lưu lượng Internet đến từ game nên tôi cũng sốt ruột nhưng hóa ra, nhiều nước khác thời kỳ đầu cũng na ná như vậy. Bên cạnh đó, tiếng Anh của các cháu khá hơn hẳn, rèn luyện trí thông minh và quen làm việc tốc độ cao. Cháu tôi lúc 10 tuổi lần đầu đi trại hè quốc tế nhưng nhập cuộc rất nhanh. Ngôn ngữ có thể bất đồng nhưng chỉ cần vào mạng hay dùng chung iPad là chúng hiểu nhau ngay, không có Internet thì làm sao được như vậy?
Hiện mỗi ngày tôi vẫn online ít nhất là 3 tiếng. Từ bé tôi đã mê đọc nên giờ
tôi tải rất nhiều sách trong iPad. Tôi vẫn trò chuyện với con cháu qua FaceTime
và giờ không còn đọc báo giấy.
Bài và ảnh: Châu
An
Geen opmerkingen:
Een reactie posten