1962 - 2012
Ngày 12-12-2012Hình: Nguyễn Hiệp, Gx Chính Tòa
http://www.simonhoadalat.com/DIAPHAN/MUCVU/2012/MV1212/11SimonHoa50Nam/50NamSMH.html
CHỦNG VIỆN MINH
HÒA
50 NĂM HÌNH THÀNH
VÀ PHÁT TRIỂN
1. Tiểu chủng viện
Simon-Hòa (1962-1980)
Ngay sau ngày nhận
Giáo phận Đàlạt vừa được thiết lập, Đức cha Simon-Hòa Nguyễn Văn Hiền, Giám mục
tiên khởi Giáo phận, đã gửi thư đến công đồng Dân Chúa nói lên mối ưu tư “bảo đảm cho tương lai Giáo phận nhiều linh
mục thánh thiện và đầy đủ khả năng làm việc tông đồ”. Vì chưa có cơ sở thiết
lập tiểu chủng viện, nên số 44 tiểu chủng sinh ban đầu được gửi học tại Tiểu
chủng viện Tân Thanh thuộc Giáo phận Thanh Hóa di cư, niên khóa
1961-1962.
Sang niên khóa
1962-1963, Giáo phận đã mượn nhà của ông bà Farrault tại Chi Lăng để bắt đầu
sinh hoạt của một Tiểu chủng viện mang tên Simon-Hòa, một Chân phước (thời đó gọi
là Á Thánh) giáo dân tử đạo, với 2 lớp đệ thất và đệ bát. Tại đây, cha Giuse
Phạm Văn Trần được Đức Giám mục đặt làm Bề trên với Ban Giám đốc gồm các linh
mục và thầy giúp xứ, có các nữ tu Mến Thánh Giá Thủ Thiêm phục vụ. Các tiểu
chủng sinh học tại nhà theo chương trình trung học và được cấp học bạ của Trường
tư thục Trí Đức. Bên cạnh việc học, các chủng sinh còn được đào luyện về đạo đức
phù hợp với đời sống theo Chúa, thêm các môn học cần thiết là la văn và sinh
ngữ.
Sau khi được cấp đất
xây dựng cơ sở, và sau hơn một năm thi công, ngày 23.02.1967, Tiểu chủng viện
Simon Hòa chính thức khai giảng niên khóa 1966-1967 tại Đa Thiện, với 6 lớp :
Giuse, Phanxicô Xaviê, Mẹ Vô Nhiễm, Kitô Vua, Têrêsa, Các thánh Tử đạo Việt Nam.
Cha Luy Phạm Văn Nhượng làm Giám đốc thay cha Giuse đau bệnh nghỉ hưu. Niên khóa
1967-1968 có thêm lớp Ba Vua.
Niên khóa 1968-1969
khai giảng ngày 03.8.1968 với đầy đủ các lớp bậc trung học. Một dãy nhà xây được
làm thêm để có chỗ cho 54 chủng sinh nhỏ nhất thuộc lớp 6 (Mông Triệu). Cha
Phêrô Trần Bảo Thạch làm Giám đốc. Từ đây, Tiểu chủng viện chuẩn bị để thiết lập
trường tư thục riêng mang tên Thụ
Nhân. Niên khóa này được ghi nhớ đặc biệt với lễ mừng Bổn mạng trang trọng
qua chương trình đồng diễn vào ngày 12.12. Tiểu chủng viện cũng có một ca đoàn
mang tên Thông Reo. Cuối niên khóa,
các chủng sinh lớp đầu tiên ra trường, được gửi học tại các đại chủng
viện.
Vì không muốn có một
năm dự bị đệ thất (đệ bát), nên từ niên khóa 1968-1969, hai lớp thứ năm (Têrêsa)
và thứ sáu (Các thánh Tử đạo Việt Nam) được chuẩn bị để nhập chung khi bước vào
đệ nhị cấp, lớp 10, trong niên khóa 1970-1971. Cũng từ niên khóa này, bên cạnh
Tiểu chủng viện Simon-Hòa, còn có Chủng viện Đàlạt, mượn cơ sở của Biệt thự
Thánh Tâm. Tại đây, các thầy bắt đầu chương trình Đại chủng viện với việc theo
học Đại học Đà Lạt, để sau chu kỳ triết học, các thầy có thể lãnh bằng cử
nhân.
Ngày 01.8.1971 khai
giảng niên khóa 1971-1972, với cha Gioan B. Trần Thái Huân, Giám đốc thứ tư.
Niên khóa 1972-1973 được ghi dấu bằng kỷ niệm 10 năm thành lập. Thêm vào số sinh
hoạt của Tiểu chủng viện, có chương trình sinh hoạt hiệu đoàn, phối hợp những
sinh hoạt của các phong trào Hùng tâm Dũng chí, Thiếu nhi Thánh Thể và Hướng đạo
giúp cho các chủng sinh có những kỹ năng sinh hoạt căn bản khi đi giáo xứ; có
chương trình giao lưu với các học viện và chủng iện khác trên Đà Lạt, chủ yếu
qua các buổi tranh tài thể thao
Để đáp ứng nhu cầu
của Chủng viện, một dãy nhà xây thứ hai, song song với dãy nhà xây năm 1968,
được làm thêm. Cũng từng bước, chủng viện trang bị thêm cabin điện, sân basket,
hồ nước. Chủng viện có các nữ tu thuộc hội dòng Mến Thánh Giá Phát Diệm (Gò Vấp)
đến phục vụ.
Bước vào niên khóa
1973-1974, Đức cha Simon-Hòa lâm trọng bệnh, và qua đời ngày 05.9.1973. Từ đây,
các chủng sinh mất đi một người Cha và không còn một người khi đến thăm, huấn
đức, thì ban phép cho các chủng sinh được “nghỉ tự do” một buổi… Dầu sao mối
quan tâm và ước muốn của Đức cha Cố là các linh mục tương lai biết sống tinh
thần đơn sơ, nghèo khó… vẫn luôn được gia đình Simon-Hòa ghi
nhớ.
Tháng 3.1975 Giáo
phận đón chào vị Chủ chăn mới sau một thời gian dài “trống tòa” (05.9.1973 –
19.3.1975). Nhưng liền sau đó, Tiểu chủng viện bước vào một giai đoạn mới : tại
Đàlạt chỉ còn 2 lớp Giuse 2 và Phanxicô Xaviê 2, theo học chương trình trung học
tại trường Trần Hưng Đạo. Để sinh sống, các chủng sinh phải chia nhau chăn nuôi
hay làm vườn. Ở đây đất rộng người thưa,
tương đối thuận lợi cho những công việc này. Cha Giuse Đinh Lập Liễm được đặt
làm Giám đốc từ tháng 5.1975. Khoảng cuối năm 1978, cha Micae Trần Đình Quảng
tiếp tục công việc của Giám đốc với 2 lớp đại chủng sinh. Riêng tại Bảo Lộc, các
chủng sinh còn lại rất ít, được gửi tại nhà xứ Thanh Xuân do cha Luy Nguyễn Mạnh
Trình phụ trách. Tại chủng viện, hai cô giúp việc cũng thuộc Hội dòng Mến Thánh
Giá Phát Diệm đến phục vụ, thay cho các nữ tu về Tòa Giám Mục.
2. Đại chủng viện
Minh-Hòa (1972-1980)
Như đã nói trên, niên
khóa 1968-1969 kết thúc với việc các “chú” lớp Giuse tốt nghiệp chương trình
trung học và được gửi học các Đại chủng viện : có 6 thầy đi du học ngoại quốc, 2
thầy học ở Giáo hoàng Học viện Thánh Piô X Đà Lạt, và các thầy còn lại theo học
Đại chủng viện Thánh Giuse Sàigòn.
Vì tại Đàlạt có Viện
đại học công giáo, nên Đức cha Simon-Hòa đã quyết định cho các thầy cũng có thể
theo học chương trình đại học, để thuận lợi hơn trong việc mục vụ, có thể đứng
tên hiệu trưởng các trường tư thục khi đến phục vụ các giáo xứ sau này. Từ đây,
khi mãn Tiểu chủng viện, các thầy tiếp tục ở lại Giáo phận để theo học Đại học
và học một số môn tại Giáo hoàng Học viện. Ban đầu, trong khi chờ đợi có cơ sở
thích hợp, các thầy sống tại Biệt thự Thánh Tâm dưới sự chăm sóc của cha Giuse
Vũ Đình Tân từ tháng 8.1970 đến tháng 2.1972.
Sau khi ngôi nhà “Cư
xá” trên đồi Mục Đồng, Đa Thiện, được xây dựng xong, vào giữa tháng 2.1972, các
thầy lớp Phanxicô Xaviê và Mẹ Vô Nhiễm bắt đầu dọn về sống tại đây. Đây chính là
Đại chủng viện Minh-Hòa của Giáo phận, nhưng vì lý do tế nhị, nên được gọi là
“cư xá”. Cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn được đặt làm Giám đốc, có cha Phaolô Bùi Văn
Đọc và cha Luy Phạm Văn Nhượng cộng tác, sau này có thêm cha Giuse Võ Đức Minh
du học về. Tại đây, các thầy sẽ theo học 3 năm triết học, cộng với 1 năm đi giúp
xứ, một thời gian 4 năm vừa đủ để hoàn tất chương trình cử nhân; sau đó bắt đầu
học thần học tại Chủng viện Thánh Giuse Sàigòn.
Lớp Phanxicô Xaviê là
lớp đầu tiên theo mô hình đào tạo tại Đại chủng viện mới này. Các thầy đi giúp
xứ niên khóa 1973-1974, rồi niên khóa sau 1974-1975 học thần học tại Chủng viện
Sàigòn.
Cũng như tại Tiểu
chủng viện, ngày 20.3.1975 các thầy đại chủng viện được lệnh giải tán… Nhưng
bước vào giai đoạn mới, sinh hoạt tại Đại chủng viện cũng thay đổi. Không còn
quy tụ đông đảo tại Đàlạt, các thầy được chia về các trung tâm và giáo xứ. Tại
Đàlạt, ngoài Cư xá Minh Hòa còn có thêm biệt thự số 3 Cộng Hòa (căn nhà của Đan
viện Châu Sơn), cha Phaolô Bùi Văn Đọc được đặt làm Giám đốc Đại chủng viện ;
các trung tâm : tại giáo xứ Thánh Tâm Lộc Phát cho các thầy lớp lớn do cha Gioan
B. Trần Thái Huân phụ trách, tại Kitô Viện Lộc Thanh cho các thầy lớp nhỏ do cha
Giuse Nguyễn Hữu Duyên phụ trách, tại giáo xứ An Hòa cho các thầy thuộc vùng Đức
Trọng do cha Luy Phạm Văn Nhượng phụ trách. Vào đầu tháng 9, các thầy ở 3 Cộng
Hòa và An Hòa được gọi về sống tại Minh Hòa. Dì Năm Hữu (Maria Nguyễn Thị Hữu)
giúp việc nấu ăn hằng ngày.
Bắt đầu từ đây, sinh
hoạt của Đại chủng viện được thích nghi với hoàn cảnh chung của đất nước. Không
còn theo học đại học, các thầy tập trung vào các môn thuộc chương trình triết
học và thần học, khi có giáo sư. Trong phần lớn thời gian, các thầy tham gia
sinh hoạt chăn nuôi hay làm vườn… tại nhà hay tại các khu vườn ở Thánh Mẫu, Đa
Thiện. Phải ghi nhận rằng tại Đàlạt, các thầy có nhiều cơ hội và điều kiện thuận
lợi hơn để được đào sâu việc trí thức, như có nhiều cha giáo dòng triều sẵn sàng
giúp…
Từ 1975-1980, trong
hoàn cảnh có nhiều khó khăn, thử thách, có hai biến cố được nhiều anh em sinh
sống luôn ghi nhớ : việc Đức cha Bartôlômêô âm thầm phong chức linh mục ngày
25.01.1977 cho 6 cha trẻ lớp Phanxicô Xaviê I, và việc 17 anh em, trong đó có 5
anh em bên nhà Tiểu chủng viện, lên đường đi thanh niên xung phong trong Tuần
Thánh 1978. Trong thời gian anh em đi thanh niên xung phong, anh em ở nhà được
phân chia đi làm tại các hợp tác xã thủ công mỹ nghệ.
Nhìn lại thời gian
này, mọi người đều nhận ra bàn tay quan phòng yêu thương của Chúa đã luôn che
chở giữ gìn, để dầu có vất vả, gian khổ … nhưng anh em sống với nhau rất chân
thành. “Ơn của Thầy đủ cho con, vì sứ mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong
sự yếu đuối” (2Cr 12,9). Cuối năm
1978, một số khá đông anh em, vì những lý do này khác, đã về gia đình… làm cho
số chủng sinh giảm bớt đáng kể.
3. Chủng viện
Minh-Hòa (22.4.1980 đến nay)
Bước vào năm 1980,
nhiều cơ sở tôn giáo tại Đàlạt được bàn giao cho Nhà Nước quản lý, trong đó có
hai Đại chủng viện là Giáo Hoàng Học Viện và Cư xá Minh Hòa.
Ngày 22.4.1980 các
cha các thầy từ Cư xá Minh Hòa trở về lại mái trường Tiểu chủng viện. Từ đây nhà
Simon-Hòa trở thành Chủng viện Minh-Hòa, với tổng số 28 người (8 cha, 20 thầy).
Trong sinh hoạt hằng ngày, ngoài các giờ phụng vụ và đạo đức, anh em lao động
buổi sáng tại nhà, buổi chiều có giờ lớp hoặc làm việc riêng. Cũng như bên Cư xá
Minh Hòa, việc học có nhiều thuận lợi. Đặc biệt Chủng viện có hai thư viện khá
lớn: thư viện của Giáo Hoàng Học Viện, với khoảng 50.000 đầu sách, và thư viện
của Chủng viện. Về việc linh hướng, hằng tuần có cha Phi-Khanh Vương Đình Khởi
dòng Phanxicô, từ tu viện tại Đàlạt, đến giúp anh em.
Để đáp ứng nhu cầu
sinh hoạt, cơ sở Chủng viện được sửa chữa thêm. Đây là lần đại tu thứ hai sau
năm 1975. Sau này, từ năm 2004, còn có một lần đại tu nữa cho phù hợp với điều
kiện sống mới và để chuẩn bị mừng 50 năm. Tuy được sửa chữa, nhưng nhìn đại
cương, cơ sở Chủng viện vẫn duy trì những nét cũ.
Đáng ghi nhớ trong
thời gian này là lễ mừng Ngân khánh linh mục của Đức cha Bartôlômêô (29.6.1982).
Trước lễ mừng là tuần tĩnh tâm linh mục Giáo phận được tổ chức lần đầu tiên tại
Chủng viện. Anh em trong nhà có một chương trình văn nghệ nhỏ nhưng rất cảm
động. Bài ca “Linh mục, đầy tớ vô
dụng” lần đầu tiên được hát lên cùng với tập sách nhỏ “Mầu nhiệm Linh mục”, được in ronéo, gồm những bài nghiên cứu và suy tư
thần học về chức linh mục, là “hoa quả
của tình yêu dành cho Đấng Chủ Chăn vô hình là Chúa Kitô và Người chủ chăn hữu
hình là Đức Giám mục”.
Trung tuần tháng
3.1983 cụ Phanxicô Xaviê Nguyễn Đức Vát (Bát), người vẫn ở Chủng viện từ trước
năm 1975, được Chúa gọi về. Lần đầu chủng viện có tang lễ. Và để tỏ lòng biết ơn
những người đã ngày đêm phục vụ Nhà Chúa, Đức cha Bartôlômêô đã chủ sự lễ an
táng cho cụ tại nhà thờ giáo xứ Thánh Mẫu Đàlạt.
Sinh hoạt tại Chủng
viện tiếp tục bình thường cho đến tháng 8.1985 khi có đợt xét duyệt lý lịch: một
số anh em được đề nghị trở về gia đình. Ngôi nhà dần dần bớt người, khi các cha
được Nhà Nước công nhận, lần lượt đi làm việc mục vụ trong các giáo xứ, và các
thầy già đi giúp xứ.
Đầu năm 1987, Đại
Chủng viện thánh Giuse Sàigòn mở cửa đón nhận các thầy thuộc Tổng giáo phận
Sàigòn, Mỹ Tho, Phú Cường, Phan Thiết, Xuân Lộc và Đà Lạt. Số thầy được chấp
thuận gửi đi theo học chưa nhiều nhưng cũng mở ra một giai đoạn mới. Cũng năm
này, sau một thời gian dài không được phép, vào tháng 8.1987, có hai lễ phong
chức linh mục được chính thức tổ chức tại Đà Lạt và Bảo Lộc, làm cho các thầy
còn lại cảm thấy một tương lai tốt đẹp hơn đang hé mở.
Để có những người
tiếp nối các thầy đã đi tu từ trước năm 1975, thì vào cuối thập niên 80, Chủng
viện bắt đầu nhận những em mới. Những em này, từ các giáo xứ hoặc đang theo học
Đại học, được các gha giới thiệu, đến tập tu tại chủng viện một thời gian lâu
hay mau tùy điều kiện và hoàn cảnh.
Một sinh hoạt khác
được chủng viện quan tâm đáp ứng: từng người hay từng nhóm muốn tìm một “bầu khí
thinh lặng” để làm việc trí thức hay tĩnh tâm. Nhóm Các Giờ Kinh Phụng Vụ hay
nhóm các cha thuộc Ủy ban Giám mục về Phụng Vụ, mỗi nhóm đã có mấy tuần làm việc
tại Chủng viện.
Từ 1990 nhà nguyện
Chủng viện được chọn làm nơi cử hành lễ phong chức phó tế khi có các ứng
viên.
Từ năm 1992 việc nấu
ăn hằng ngày được trao cho các chị thuộc Tu hội Tận hiến ICM, thay cho dì Năm đã
cao niên.
Ngày 22.4.1994 Tòa
Thánh loan tin Đức cha Bartôlômêô được bổ nhiệm làm Giám mục Thanh Hóa và Đức
cha phó Phêrô kế vị. Trước khi lên đường nhận Giáo phận, ngày 31.5 Đức cha đã
đến Chủng viện chia sẻ niềm vui tạ ơn của hai cha Giuse Trần Văn Chiến và Đaminh
Nguyễn Văn Mạnh vừa mới được thụ phong. Tại đây, ngài nhắn nhủ anh em hãy giữ
lấy truyền thống của Minh Hòa, nơi “toát
ra một bầu khí đạo đức, hiếu khách và hiếu học”.
Khi Đức cha Phêrô
chính thức coi sóc Giáo phận, cha Giám đốc Phaolô được chọn làm Tổng đại diện.
Ngày 28.5.1996, Đức cha đặt cha Micae Trần Đình Quảng làm Giám đốc để cha Tổng
đại diện có thể về sống tại Tòa Giám mục. Cộng tác với cha Giám đốc mới, ngoài
cha Gioan B. Trần Quang Truyền và cha Giuse Giuse Trần Ngọc Liên, lần lượt có
các cha Athanasiô Nguyễn Quốc Lâm, Giuse Lê Anh Tuấn, Đaminh Nguyễn Quốc
Việt.
Khóa đầu tiên thuộc
“thế hệ mới” ra trường vào tháng 9.1993 đã hình thành tiến trình đào tạo
tiền-chủng-viện mới. Bước đầu các ứng sinh được giới thiệu đến Chủng viện để tìm
hiểu. Các em có thể tiếp tục theo học cao đẳng hay đại học, trong khi đó vẫn đến
Chủng viện sinh hoạt vào các buổi sáng chúa nhật và tĩnh tâm tháng. Vào năm lẻ,
Chủng viện tổ chức thi tuyển với số được chọn từ 15 đến 20 người. Các em trúng
tuyển sẽ vào sinh sống hai năm tại Chủng viện. Ngoài các giờ đạo đức và thiêng
liêng, hằng ngày các em có giờ lao động và học tập về Giáo lý Hội Thánh Công
Giáo, Dẫn vào Kinh Thánh, sinh ngữ, cổ ngữ, nhân bản và tu đức… chuẩn bị cho
chương trình đại chủng viện.
Kết thúc thời gian
đào tạo 2 năm, các chú được mặc áo soutane để thành chủng sinh của Giáo phận, và
được sai đi giúp xứ trước khi được gửi học Đại chủng viện liên giáo phận, trước
đây là Sàigòn, nay là Xuân Lộc, không kể một số được gửi đi học khóa bổ túc tại
chủng viện Sao Biển Nha Trang. Từ năm tới, sau hai năm đào tạo, một nửa số các
em được gửi đi học Đại chủng viện, nửa còn lại sẽ học thêm tai Mninh Hòa, chờ
đến lượt.
Đã có 10 khóa tốt
nghiệp :
1. Tôma Thiện
(1989-1993)
2. Emmanuel Lê Văn
Phụng (1993-1995)
3. Philipphê Minh
(1995-1997)
4. Anrê Phú Yên
(1997-1999)
5. Phaolô Lê Bảo Tịnh
(1999-2001)
6. Phêrô Khanh
(2001-2003)
7. Micae Nguyễn Huy
Mỹ (2003-2005)
8. Anrê Nguyễn Kim
Thông (2005-2007)
9. Phêrô Đoàn Công
Quý (2007-2009)
10. Anrê Trần An
Dũng-Lạc (2009-2011)
Hiện chủng viện đang
đào tạo khóa XI với 19 em.
http://www.simonhoadalat.com/DIAPHAN/MUCVU/2012/MV1212/13HinhThanhPhatTrien.htm
Geen opmerkingen:
Een reactie posten