zaterdag 4 mei 2013

Một cuộc hòa giải khác, 500 năm Việt – Chăm

Một cuộc hòa giải khác, 500 năm Việt – Chăm

Kính Hòa, phóng viên RFA
2013-05-03
Email
Ý kiến của Bạn
Chia sẻ
In trang này

000_SAPA970430433270-305.jpg
Tháp Chăm ở tỉnh Ninh Thuận, ảnh chụp trước đây.
AFP



Inra Sara là nhà thơ người Chăm có tiếng tại Việt Nam hiện nay. Anh cũng có nhiều công trình nghiên cứu về văn hóa và nghệ thuật của dân tộc Chăm cũng như Vương quốc Champa. Tác phẩm nổi tiếng của anh là tập thơ Lễ tẩy trần tháng tư được xuất bản năm 2002. Kính Hòa có buổi trò chuyện với Inra Sara về sự giao tiếp văn hóa và lịch sử giữa hai cộng đồng Chăm và Việt.

Tiếp biến và giao lưu văn hóa

Kính Hòa: Chào nhà thơ Inra Sara. Là một nhà thơ Chăm viết bằng tiếng Chăm lẫn tiếng Việt, xin anh cho khán giả biết đôi điều về sự tiếp biến và giao lưu văn hóa giữa hai cộng đồng Chăm và Việt từ mấy trăm năm nay.
Inra Sara: Cộng đồng Chăm là hậu duệ của Vương quốc Champa cổ tồn tại từ năm 192 và biến mất vào đầu thế kỷ 19. Một dân tộc có chữ viết sớm nhất Đông Nam Á. Dù nền văn minh ấy bây giờ chỉ còn là những mảnh vụn, nó vẫn có nhiều cái đáng giá, và người Chăm vẫn còn bảo lưu những cái quý giá đó. Khi nhắc đến Chăm người ta thường chỉ chú đến kiến trúc điêu khắc, trong đó có thánh địa Mỹ Sơn, một di tích được UNESCO xếp hạng di sản văn hóa thế giới, và một phần nào ngôn ngữ, ca múa, mà không nói đến văn học nghệ thuật Chăm, mà theo tôi là khá lớn. Đến bây giờ trong chương trình văn học sử Việt Nam vẫn chưa có bài nào, điều này tôi cho rằng hết sức là lạ.
Không thể khư khư giữ cái bản sắc của mình. Người Chăm học hỏi nhiều từ người Việt, tích cực lẫn tiêu cực.
-Inra Sara
Ở miền Trung vẫn còn ghi đậm dấu ấn Champa như trong cách phát âm của người Quảng, các từ ngữ, nhiều dòng họ không có lập bàn thờ, các họ Chăm Ông, Ma, Trà, Chế vẫn còn tồn tại vùng Quảng Nam, Huế.
Trong ẩm thực có nước mắm. Kiểu nước chấm ở miền bắc là theo kiểu tương, trong khi miền Trung thì mắm là đặc trưng, và có thể nói xuất phát từ người Chăm, tuy chưa có nghiên cứu nào sâu để chứng minh.
Người Chăm hay thờ cúng cá voi. Ngay cả các làng Việt khi làm tập tục này họ cũng mời thầy cúng người Chăm đến hành lễ.
Không thể khư khư giữ cái bản sắc của mình. Người Chăm học hỏi nhiều từ người Việt, tích cực lẫn tiêu cực. Những người viết văn làm thơ người Chăm rất thông thạo tiếng Việt.
is-250.jpg
Nhà thơ InraSara, ảnh chụp trước đây. Photo courtesy of inrasara.com

Đến thập niên tám mươi, nghệ sĩ Đặng Hùng đã mã hóa các động tác trên đền tháp Chăm thành điệu múa Apsara, và sáng tạo này đã được phụ nữ, cộng đồng Chăm tiếp nhận.
Kính Hòa: Trong thời gian gần đây có một quyển sách của tác giả Hồ Trung Tú là Có 500 năm như thế, viết về vết tích rõ ràng của ngôn ngữ và dòng máu Champa lên cư dân miền Trung Việt Nam, anh nhận xét về quyển sách này như thế nào?
Inra Sara: Theo tôi đây là một quyển sách có giá trị, nhất là dối với một tác phẩm đầu tay của một tác giả không chuyên. Nhất là kết luận của tác giả, rằng Chúng ta là những người Chàm nói tiếng Việt bằng giọng Chàm. Đó là một câu nói đầy quả cảm.
Kính Hòa: Thưa anh, trong tiến trình lịch sử Champa và Đại Việt, người ta đã nói đến Nam tiến, là một quá trình chinh phục vùng đất phương Nam của người Việt. Song trong các sách sử chính thống người ta lại không đề cập đến chuyện này.
Inra Sara: Champa và Đại Việt là hai quốc gia rạch ròi. Cõi đàng trong này không phải là đất vô chủ, mà có chủ là Vương quốc Champa. Nam tiến là có thật, chuyện Champa mất về tay Đại Việt là có thật, cái tất yếu của mạnh được yếu thua. Champa thua là thua về văn hóa, văn hóa xuất thế Ấn Độ thua văn hóa xử thế Trung Hoa, con người A La Hán thua lý tưởng đấng trượng phu của khổng giáo. Dẫu sao dân tộc Chăm cũng tồn tại trong nền văn hóa đó. Suốt 10 thế kỷ Nam tiến phải ghi nhận là người Việt hiếm khi phá hoại đền tháp Chăm, có khi họ còn biến tháp Chăm thành của họ để thờ. Bên cạnh điểm son đó còn có chính sách đàn áp cộng đồng Chăm của vua Minh Mạng là một sự kiện đen tối nhất trong quan hệ giữa hai dân tộc này. Đó là một sự xung đột dữ dội, nó thể hiện rất rõ trong hai câu thơ của Hùynh Văn Nghệ:
“Từ thuở mang gươm đi mở nước,
Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long.”
Tôi nghĩ rằng người Việt và chính quyền VN hôm nay cần nhận ra và nói ra sự thật lịch sử đó, không nên giấu, không phải để khơi dậy hiềm khích dân tộc mà để hiểu lẫn nhau. Phải có chính sách đặc biệt cho cộng đồng này và văn hóa của cộng đồng này. Chỉ khi làm được điều đó chúng ta mới có thể hóa giải lịch sử, đi đến hòa giải dân tộc.
Kính Hòa: Xin Cám ơn nhà thơ Inra Sara. Chúc cho tác giả “Lễ tẩy trần tháng tư” dồi dào sức khỏe. Chúc cho “Lễ tẩy trần tháng tư” của anh mang lại niềm vui hòa giải cho cộng đồng dân tộc.

http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/other-reconciliation-viet-cham-500-years-kh-05032013160540.html

Nhà văn Inrasara và công trình bảo tồn, nghiên cứu văn học Chăm

Chương trình Văn Học - Nghệ Thuật tuần này Mặc Lâm giới thiệu nhà văn Inrasara và cũng là người nghiên cứu văn hóa Chăm cùng các công trình bảo tồn và nghiên cứu văn học Chăm của ông.
Mặc Lâm, phóng viên đài RFA
2009-07-25
Email
Ý kiến của Bạn
Chia sẻ
In trang này



inrasara-150.jpg
Nhà văn Inrasara. Photo courtesy of inrasara.com.
Inrasara tên thật là Phú Trạm, ông sinh năm 1957 tại huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận. Ông vừa là nhà văn, nhà phê bình văn học, và cũng là một nhà nghiên cứu văn hóa Chăm nổi tiếng. Những công trình nghiên cứu của ông phải nói là đồ sộ với hơn một chục đầu sách, vừa văn học, vừa tự điển, và nhất là nghiên cứu văn hóa dân gian Chăm. Từ năm 1992 ông nghiên cứu tại Trung Tâm Nghiên Cứu Việt Nam – Đông Nam Á (Đại Học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn TP Hồ Chí Minh).
Inrasara nhận được rất nhiều giải thưởng trong và ngoài nước do các công trình văn hóa mà ông sưu tập cũng như giới thiệu với thế giới.
Chúng tôi có cuộc nói chuyện với ông xoay chung quanh những công tình nghiên cứu về văn hóa Chăm của ông. Mời quý vị theo dõi sau đây.

Một nền văn học bị lãng quên

Mặc Lâm: Thưa ông, được biết ông là người nặng lòng với văn hóa Chăm và đã có nhiều công trình sưu tập cũng như sáng tác về nền văn hóa này. Ông có thể cho biết nét đặc thù nào mà ông cho là đáng chú ý nhất của văn hóa Chăm đã khiến ông bỏ công gần như suốt cuộc đời để nghiên cứu và giới thiệu nó cho người đọc hôm nay?
Nhà văn Inrasara: Thưa anh, người Chăm có chữ viết từ rất sớm, từ Thế Kỷ IV, người Chăm ở Mỹ Sơn người ta đã xác định là có chữ bản địa. Một dân tộc có chữ viết sớm như vậy là đương nhiên văn học của họ phát triển, nhất là văn học viết. Nhưng mà lâu nay, khi nói đến người Chăm thì người ta cứ tập trung về kiến trúc, điêu khắc, hoặc là các điệu múa, âm nhạc còn tồn đọng lại, còn văn học Chăm thì rất ít khi được nhắc đến. Ngay cả trong văn học sử Việt Nam cũng vậy, không có một dòng về văn học Chăm. Đó là một điều đáng tiếc! Và tôi nghĩ văn học Chăm là một nền văn học khá phong phú, đa dạng, cho nên năm 15 tuổi là tôi đã tập trung sưu tầm và nghiên cứu, rồi đến 20 năm sau - năm 1995 tôi ra bộ Văn Học Chăm - Khái Luận & Văn Tuyển, bộ ba gồm có Văn Học Chăm - Khái Luận, Văn Học Chăm -Trường Ca, Văn Học Dân Gian Chăm. Điều tôi muốn nhấn mạnh là chỉ giới thiệu mang tính khái quát một khuôn mặt cụ thể và bao quát nhứt về văn học Chăm đến với độc giả nói chung, cả giới chuyên gia cũng như giới phổ thông.

Nhưng mà lâu nay, khi nói đến người Chăm thì người ta cứ tập trung về kiến trúc, điêu khắc, hoặc là các điệu múa, âm nhạc còn tồn đọng lại, còn văn học Chăm thì rất ít khi được nhắc đến.
Nhà văn Inrasara
Sau cuốn Văn Học Chăm, 10 năm sau thì lúc này tôi đang tập trung vào bộ được gọi là Tủ Sách Văn Học Chăm, gồm 10 tập. Chính Tủ Sách Văn học Chăm này mà tôi ước lượng khoảng 5 ngàn trang, tôi sẽ giới thiệu đến giới chuyên gia để họ có thể biết rằng kho tàng văn học Chăm là như thế. Và biết đâu sự giới thiệu này sẽ cống hiến cho nền văn học đa dân tộc Việt Nam một khuôn mặt hoàn toàn mới và độc đáo.
Mặc Lâm: Đối với những công trình nghiên cứu văn hóa cũng như văn học Chăm của ông thì giới nào chú ý nhiều nhất và ông có nhận được nhiều phản hồi hay không, thưa ông?
Nhà văn Inrasara: Phản hồi thì tôi thấy rất là chậm và rất ít. Tôi hoạt động trên nhiều lãnh vực khác nhau, từ nghiên cứu cho đến sáng tác và hoạt động xã hội. Ở lĩnh vực sáng tác tôi nhận được rất nhiều phản hồi, còn về nghiên cứu thì rất ít. Người Chăm thì họ cũng đánh giá nghiên cứu của tôi rất là cao, có thể nói là luôn luôn động viên tôi. Chẳng hạn như nghiên cứu về văn chương, về ngôn ngữ thì tôi cũng làm bộ ba từ điển là Từ Điển Chăm - Việt, Từ Điển Việt - Chăm, Từ Điển Việt - Chăm Dùng Trong Nhà Trường. Riêng phần tôi làm về tuyển tập Tagalau, tức Tuyển Tập Bằng Lăng, đến hôm nay đã ra đến số 10 rồi, và phản hồi của độc giả là tích cực. May mắn là độc giả Chăm đón nhận bộ này rất là tốt.
Còn nghiên cứu cái cụ thể nhứt là văn học Chăm, mới đây - năm ngoái Giáo sư Nguyễn Vạn Hùng ở Trường Đại Học Quốc Gia Hà Nội đã viết một bài là Văn Học Champa Ở Đâu? Và anh ta đặt vấn đề về nền văn học này, nền văn học độc đáo của một dân tộc mà vương quốc của họ đã biến vào quốc gia Việt Nam nói chung, nó không có trong văn học sử Việt Nam. Cái đó tôi nghĩ đó là phản hồi tích cực nhứt đối với nghiên cứu của tôi.
Mặc Lâm: Ông vừa cho biết là giới học thuật đã chú ý tới những nghiên cứu này của ông, thế còn các cơ quan văn hóa dành cho tộc người thiểu số do nhà nước chủ quản thì sao?
Nhà văn Inrasara: Thật ra phản hồi mang tính cụ thể gọi là chính sách thì chưa có rõ ràng. Nhà nước ghi nhận các nghiên cứu của tôi qua các giải thưởng. Về đầu tư chiều sâu, đầu tư để làm một bộ gọi là tủ sách văn học Chăm thì cũng chưa có phản hồi gì cụ thể.
Mặc Lâm: Trong khi đi sưu tầm những văn bản về văn hóa Chăm thì khó khăn nhất có lẽ là thời gian đã tàn phá hết mọi tài liệu vậy làm sao ông có thể sưu tập các văn kiện từ dân gian?
Nhà văn Inrasara: Nói chung là văn bản Chăm đang nằm rải rác trong dân và người Chăm có thể nói họ rất yêu văn học, mặc dù văn hóa Chăm chưa trải qua kỹ thuật in ấn như là người Trung Hoa, hoặc như người Việt, nhưng người Chăm rất là siêng chép tay các văn bản và họ giữ trong một cái giỏ được đan bằng chiếu cói rất là tốt và bảo quản rất là tốt. Có thể nói tất cả các gia đình người Chăm đều có giỏ sách này. Và tôi say sưa mày mò từ năm 15 tuổi, tôi tìm các giỏ sách này và tôi chép.

… cái ngại nhứt là vấn đề lai tạp về ngôn ngữ, mà tôi gọi là "độn ngôn ngữ", tức là ngay cả các cụ già 80 tuổi mà khi chúng tôi có dịp đi phỏng vấn thì cụ trả lời bằng tiếng Chăm thôi nhưng mà lai độn tiếng Việt đến 70-80 phần trăm.
Nhà văn Inrasara
Mặc Lâm: Theo chuyên môn thì một văn bản có tính văn hóa và học thuật lâu đời thì phải xác định được tính khả tín của nó về niên đại, ông dựa vào đâu để đối chiếu?
Nhà văn Inrasara: Tôi đối chiếu nhiều vùng khác nhau, và đồng thời cũng dựa vào một số văn bản có trước năm 75 đã được in ra, chẳng hạn như của Trung Tâm Văn Hóa Chàm, hoặc là của ông Thiên Sơn Cảnh đã làm Tập San Phan Rang mà tôi cũng có đối chiếu và tôi hy vọng là nguồn trích dẫn của tôi tương đối là chuẩn xác.

Nguy cơ Việt hóa

Mặc Lâm: Trong số các tộc người sống gần cộng đồng người Việt thì tộc người Chăm là gần gũi nhất. Ông có cho rằng văn hóa Chăm có nguy cơ bị Việt hóa hay không?
Nhà văn Inrasara: Có thể nói văn hóa Chăm có một sức sống rất là mãnh liệt. Chẳng hạn như chế độ gia đình mẫu hệ Chăm, thì chế độ gia đình mà hồi đó người ta không thấy là người Chăm có hiện tượng đĩ điếm hoặc là đi ăn xin ở trong xã hội Chăm, tuyệt đối là không có. Nhưng mà trong thời gian gần đây, 20 năm trở lại đây, khi môi trường xã hội nông thôn bị phá vỡ và thanh niên đi vào thành phố kiếm sống thì họ có thể đã đánh mất phần nào lối sống văn hóa Chăm và họ mang lối sống ở thành thị về quê, từ đó nó tác động không tốt lắm đến môi trường văn hóa xã hội Chăm ở thôn quê. Cái đó thì không có ngại lắm mà cái ngại nhứt là vấn đề lai tạp về ngôn ngữ, mà tôi gọi là "độn ngôn ngữ", tức là ngay cả các cụ già 80 tuổi mà khi chúng tôi có dịp đi phỏng vấn thì cụ trả lời bằng tiếng Chăm thôi nhưng mà lai độn tiếng Việt đến 70-80 phần trăm. Cái đó là một nguy cơ. Và nguy cơ thứ hai nữa, ngay cả quan niệm về ngôn ngữ của một số gia đình trẻ, có một số trí thức dạy cấp III, hoặc là cao hơn nữa, ở trong gia đình họ nói tiếng Việt với nhau. Cái đó là nguy cơ rất là lớn trong việc đồng hóa văn hóa Chăm trong một nền văn hóa lớn hơn tức văn hóa của người Kinh, của Việt Nam.

Mặc Lâm: Với nguy cơ về ngôn ngữ mà ông vừa trình bày, xin ông cho biết nỗ lực của ông để đối phó vấn đề này là gì ?
Nhà văn Inrasara: Trong thời gian qua cũng có nhiều sách nghiên cứu, nhiều tác phẩm cũng ra đời về văn hóa Chăm, ngôn ngữ hoặc văn chương Chăm, nhưng sức phổ biến cũng chưa được rộng rãi trong quần chúng Chăm. Riêng cá nhân tôi, nỗ lực chính yếu của tôi là tiếp tục nghiên cứu, nghiên cứu nhiều chừng nào tốt chừng nấy về văn chương và nhứt là ngôn ngữ Chăm, và truyền bá bằng mọi cách đến quần chúng Chăm. Thứ hai nữa là sáng tác bằng tiếng mẹ đẻ. Bên cạnh việc Inrasara làm thơ bằng tiếng Việt thì tôi cũng có rất nhiều bài thơ và tác phẩm sáng tác bằng tiếng Chăm, và tôi lập website với nhiều sáng tác bằng tiếng Chăm được đưa lên. Điều quan trọng nhứt mà tôi nghĩ và tôi đã làm được là chúng tôi và một nhóm trí thức Chăm đã làm được Tuyển Tập Tagalau. Tuyển tập này đã ra được 10 số. Tuyển tập này có sức tác động rất là tích cực.

Vừa xa cách về địa lý, vừa có khoảng cách về tôn giáo nên nhu cầu tìm đến nhau rất là khó khăn.
Nhà văn Inrasara
Mặc Lâm: Chúng tôi xin hỏi một câu nữa. Hiện nay người Chăm tập trung chính tại Ninh Thuận, An Giang và một số ở Tây Ninh. Điều mà nhiều nhà nghiên cứu Chăm lo ngại là sự khác biệt về tôn giáo cũng như địa lý và ngôn ngữ nữa sẽ khiến cho cộng đồng Chăm dễ bị phân tán, ông có đồng ý với nhận xét này hay không?
Nhà văn Inrasara: Đúng. Người Chăm ngày xưa có hai tôn giáo chính, đó là Chăm Bà La Môn và Chăm Bà Ni. Chăm Bà Ni là người Chăm theo Hồi Giáo nhưng đã được bản địa hóa, gọi là Chăm Bà Ni hoặc là Hồi Giáo cũ. Nhưng mà trong khoảng hai trăm năm nay người Chăm ở An Giang, ở TP.HCM, ở Tây Ninh lại theo Hồi Giáo mới, đó là Hồi Giáo mà khi người Chăm chạy qua Campuchia thì họ hình thành và họ cố kết cộng đồng kể từ khi Vương Quốc Chăm bị mất. Trong cách biệt về địa lý cũng như thổ ngơi, đó cũng là trở ngại rất lớn để cộng đồng Chăm đến với nhau. Nhưng qua giao thông hiện đại thì đó không còn là vấn đề nữa, song vấn đề quan trọng là vấn đề ngôn ngữ. Chẳng hạn như Inrasara là người ở Phan Rang, nói chuyện với một anh bạn rất là thân ở An Giang thì có khi chúng tôi phải dùng tiếng Việt. Những người bình dân, những người sinh hoạt đời thường thì họ phải dùng tiếng Việt để nói chuyện với nhau. Đó là nguy cơ rất là lớn cho hai cộng đồng tìm lại nhau. Bên cạnh đó là vấn đề tôn giáo cũng rất là quan trọng. Hai tôn giáo, Hồi Giáo cũ (Islam được bản địa hóa) và Hồi Giáo mới (Islam Chính Thống) cũng ít có nhu cầu tìm đến nhau. Vừa xa cách về địa lý, vừa có khoảng cách về tôn giáo nên nhu cầu tìm đến nhau rất là khó khăn. Chỉ những người rất nhiệt tình thì họ mới có thể tìm đến nhau, chẳng hạn như chúng tôi và bạn bè tôi cũng ít khi đến An Giang hoặc là Tây Ninh, và ngược lại cũng thế. Đó là một trở ngại để hai cộng đồng, mặc dù là cũng một nguồn gốc, cùng một chủng tộc, nhưng xa cách về tôn giáo, từ đó có một khoảng cách về văn hóa, thì hai cộng đồng này cũng chưa tìm được nói chung.
Mặc Lâm: Xin cảm ơn nhà nghiên cứu văn hóa Chăm Inrasara. Hy vọng rằng buổi nói chuyện ngày hôm nay sẽ mang tới cho thính giả thêm nhiều thông tin mới về nền văn hóa Chăm. Chúng tôi cũng hy vọng những công trình nghiên cứu của ông sẽ sớm được quảng bá tới cộng đồng người Chăm đang sinh sống tại Việt Nam.

Geen opmerkingen:

Een reactie posten