Hồng Quân Liên Xô và 45 năm « lạc lối » ở Hungary
Đăng ngày:
Tròn 30 năm trước, sáng 19/6/1991, một thanh niên, trong tay nắm chắc chiếc máy ảnh, bồn chồn ngồi trong chiếc xe Trabant trước một biệt thự ở Mátyásföld, vùng ven ngoại ô Budapest. 28 năm sau, phóng viên ảnh nghiệp dư Zámbó László chia sẻ với truyền thông Hungary: ông đã chờ đợi 3 ngày 2 đêm để ghi lại khoảng khắc lịch sử mà cả nước Hung chờ đợi từ nhiều thập niên.
Rốt cục, Zámbó László cũng thấy một người đàn ông Nga mặc âu phục đen ra sau cùng, khi tất cả đều đã rời khu biệt thự. Khi thấy chiếc máy ảnh đang chờ mình, ông ta ngập ngừng rồi đi vào nhà. Một lát sau, ông mới bước ra, khóa cổng cẩn thận, rồi vung vẩy một chiếc ô, lên chiếc Volga màu đen và xe nổ máy tới thành phố Záhony, ngã ba biên giới giữa Hungary với Ukraina và Slovakia, 2 nước khi đó còn thuộc Liên Xô và Tiệp Khắc.
Vào hồi 15h cùng ngày, vẫn người đàn ông nọ, khi đó đã mặc quân phục, nghiêm trang giơ tay chào các sĩ quan Hungary đang đứng thành hàng và chúc tụng. Sau một phát biểu ngắn, ông nói ngắn gọn “Tạm biệt, cầu chúc vạn sự tốt lành!” rồi lên chiếc Volga đen. Xe từ từ chuyển bánh qua cây cầu biên giới, trước sự chứng kiến của tốp ký giả đang săn hình. Trung tướng Viktor Silov, người lính Liên Xô cuối cùng đã rời Hungary như thế.
Từ “tạm thời”, thành “vô thời hạn”
Sự ra đi của vị Tư lệnh Liên quân phía Nam (*) của Liên Xô chấm dứt hơn 45 năm Hồng quân Xô-viết “đồn trú tạm thời” tại Hungary kể từ lúc Đệ Nhị Thế Chiến chấm dứt tháng 5/1945. Tuy nhiên, những hệ lụy của nó, thì đã xảy ra từ trước, vào hạ tuần tháng 6/1941, khi Vương quốc Hungary buộc phải tuyên chiến với Liên Xô sau một vụ không kích không rõ nguồn gốc, mà tới giờ vẫn được coi là bí ẩn lớn nhất trong lịch sử nước Hung.
Ở vào thế không tránh khỏi, Hungary đã trở thành đồng minh với Đức quốc xã trong cuộc chiến chống Liên bang Xô-viết và mặc dù vào thời gian cuối Thế chiến, nước này có tìm cách chạy sang phe Đồng Minh nhưng thử nghiệm đó thất bại, Đệ tam Đế chế đưa quân kiểm soát nước Hung và dựng nên ở Hungary một nội các thân Đức theo xu hướng dân tộc cực đoan. Rượt đuổi quân Đức tới đâu, Hồng quân “tiện thể” chiếm đóng Hungary tới đó!
Trong những giờ khắc rối ren nhất trong lịch sử Vương quốc Hungary, người dân nước này lâm vào cảnh “một cổ hai tròng”: Đức Quốc Xã và Liên Xô Cộng Sản! Cuối tháng 9/1944, quân đội Xô Viết tràn vào lãnh thổ Hungary, Giáng Sinh năm ấy, thủ đô Budapest bị phong tỏa và toàn bộ nước Hung rơi vào tay các đạo quân của 2 vị thống chế Hồng quân vào trung tuần tháng 4/1945. Không ai nghĩ tình trạng ấy còn kéo dài gần nửa thế kỷ.
Kể từ đó, khẩu hiệu “Quân Nga, cút về nước!” rất được ưa chuộng và trở thành mong muốn thường trực của những người Hung có tinh thần ái quốc, nhưng trước mắt, họ phải chấp nhận một thực tế, là cần chờ đợi. Bởi lẽ, Hiệp định hòa bình năm 1947 ký ở Paris cho phép quân đội Liên Xô đóng quân ở Hungary một cách tạm thời để tiếp viện cho cánh quân đồn trú ở Áo.
Tuy nhiên, mùa hạ năm 1955, người dân Hungary lại hy vọng, bởi lẽ vào ngày 15/5, Hiệp định Quốc gia Áo - Liên Xô tạo điều kiện để Áo tách khỏi vòng kiềm tỏa của Xô Viết và trở thành một quốc gia trung lập vĩnh viễn tại Phương Tây. Cơ sở pháp lý để Hồng quân ở lại Hungary không còn, nhưng ngay trong ngày hôm đó, Matxcơva cho thành lập Khối Hiệp Ước Vacxava, liên minh chính trị và quân sự của phe Cộng Sản mà Hungary là một thành viên. Quân Liên Xô tiếp tục ở Hung để bảo vệ “phe Xã Hội Chủ Nghĩa”.
Hơn 1 năm sau, cách mạng 1956 bùng nổ, khẩu hiệu “Quân Nga, cút về nước!” lại vang lên, nhưng hậu quả là có thêm rất đông chiến xa Xô Viết tràn vào Hungary để đàn áp nỗ lực dân chủ của nước này. Tháng 5/1957, chính quyền mới của Hungary do điện Kremlin lập nên ký Hiệp định Nhà nước với Matxcơva chính thức hóa trạng thái “đồn trú tạm thời” của Hồng quân tại Hung, và đây là chính điều mà tổng bí thư Kádár János mong muốn.
Các tư liệu của kho thư khố Nga về sau này cho thấy, mặc dù năm 1958, thủ lĩnh Cộng Sản Liên Xô Nikita Khrushchev đề xuất để Hồng quân rời Hungary, nhưng Kádár János đã không đồng tình. Từ “đồn trú tạm thời” trở nên “đóng quân vô thời hạn”, lan truyền câu chuyện tiếu lâm chính trị dở cười dở khóc, rằng Hungary là nước lớn nhất thế giới vì quân Liên Xô lạc vào đây từ năm 1945 mà mãi mấy chục năm vẫn chưa tìm được đường ra!
Ở lâu, ra nhanh
Sau hơn 4 thập niên, tình hình hoàn toàn không thay đổi, người Hung dần quen với sự hiện diện của quân đội “ngoại bang”, với hàng trăm trại lính và căn cứ quân sự mà tiếng Nga là thứ tiếng chính thức. Tuy nhiên, từ giữa những năm 80, chính sách cải tổ và công khai hóa của tổng Bí thư Mikhail Gorbachev và các diễn tiến dân chủ tại vùng Đông - Trung Âu đã thúc đẩy quá trình rút quân của Liên Xô diễn ra trong thời gian nhanh khó ngờ!
Sự lụn bại trong nền kinh tế các nước Cộng Sản, may thay, lại mở ra cánh cửa đầu tiên cho việc Matxcơva triệu hồi quân đội. Năm 1988, thủ tướng Hungary Grósz Károly - và 1 năm sau, thủ tướng Németh Miklós - thông báo với điện Kremlin: nước Hung buộc phải giảm chi phí cho quân sự vì túng thiếu, đồng thời thận trọng đưa ra vấn đề Hồng quân nên rút quân. Bước ngoặt thực sự diễn ra cuối năm 1988, tại phiên họp Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc.
Khi đó, tổng bí thư Mikhail Gorbachev hứa rằng sẽ rút một phần quân đội khỏi 3 nước Đông Âu - Hungary, Ba Lan và Tiệp Khắc - trong 3 năm. Ngày đầu năm 1989, 10.000 lính Liên Xô tại Hungary (chiếm 1/5 tổng quân số khi đó) được lệnh hồi hương. Và các sự kiện ở Hungary đã thúc đẩy nhanh quá trình này: Hung tiến hành “Bàn tròn Dân tộc”, mang dấu ấn một “Hội nghị Diên Hồng”, và đơn phương dỡ bỏ “bức màn sắt” tại biên giới Áo.
Dầu vậy, Budapest vẫn luôn phải “nắn gân” Moscow. Tháng 3/1989, thủ tướng Németh Miklós đàm phán về việc rút quân đội Xô Viết khỏi Hung, nhưng quyết định không được công bố. Theo hồi tưởng sau này của vị chính khách Hung, Mikhail Gorbachev “đập 2 tay và nói, chừng nào tôi còn ngồi ở ghế này, thì 1956 không thể tái diễn”. Hungary hiểu thông điệp đó, và tháng 9/1989, mở biên giới cho hàng trăm ngàn người tỵ nạn Đông Đức.
23/10 cùng năm, đúng vào dịp kỷ niệm cuộc Cách mạng dân chủ 1956, nước Hung tuyên bố đoạn tuyệt với Chủ Nghĩa Cộng Sản và thành lập nền Đệ tam Cộng hòa. Giáng Sinh năm đó, George Bush và Mikhail Gorbachev bàn luận về những vấn đề của thời kỳ chuyển tiếp dân chủ và ôn hòa. Sự có mặt của quân đội Liên Xô ở Hungary trở nên lạc lõng và hoàn toàn vô duyên cớ xét về mọi mặt, và khẩu hiệu “Quân Nga, cút về nước!” không còn là cấm kỵ.
Mùa xuân 1990, trong chiến dịch tranh cử cho kỳ bầu cử Quốc Hội tự do và dân chủ đầu tiên sau hơn 4 thập niên, “Diễn đàn Dân chủ Hungary” (MDF) - chính đảng giành được chiến thắng sau này đã dùng biểu ngữ bằng tiếng Nga “Các đồng chí, chấm dứt đi!”. Tháng 3/1990, ngoại trưởng Hung và Liên Xô ký Hiệp định Nhà nước với điều khoản quan trọng nhất là Matxcơva sẽ cho rút toàn bộ binh lính và nhân viên dân sự với thời hạn 30/6!
Hai ngày sau, khởi đầu đợt rút quân đầu tiên của các đơn vị thiết giáp, và sẽ còn kéo dài hơn 1 năm, vì việc đưa hồi hương hơn 100 ngàn quân nhân và thành viên gia đình, cùng các nhân viên và vài trăm ngàn tấn vũ khí, khí tài đạn dược, xe cộ... là việc không đơn giản. Ngành đường sắt Hungary đã “thắng lớn” trong “phi vụ” này, khi vận động tới 35 ngàn toa tầu cho một “sứ mệnh” chưa từng có trong lịch sử hơn 120 năm của ngành.
Điều thú vị còn ở phía sau
Rốt cục, phía Liên Xô đã hoàn thành cam kết trước thời hạn 2 tuần: chuyến tàu cuối cùng rời Hungary ngày 16/6, nhưng trước đó 2 ngày, sau khi trung tướng Viktor Silov chia tay tổng thống và thủ tướng Hung lúc bấy giờ, báo chí Hung đã “giật tít” “Hungary giành lại hoàn toàn quyền tự quyết”, “Tư lệnh Liên Xô đã từ giã”... “Ngày quan trọng đối với Tổ quốc chúng tôi và quý vị, và với cả châu Âu”, như lời tổng thống Göncz Árpád phát biểu khi ấy.
Tuy nhiên, ngay hôm sau, tướng Viktor Silov đã nhắc nhở, rằng chuyện “tiền nong” vẫn chưa được thanh toán theo ý Matxcơva. Bởi lẽ, theo điện Kremlin, Liên Xô không hề can thiệp vào “công việc nội bộ” của Hungary, Hồng quân đồn trú tại Hung đã khiến nước này tiết kiệm được rất nhiều kinh phí cho quân sự, dân Hung có thêm công ăn việc làm, Liên Xô xây nhiều căn cứ ở Hung và do đó, Budapest phải chi trả khoản “tiền phạt” là 100 tỷ Forint.
Mặc dù không thực hiện lời dọa dẫm trước đó của Liên Xô, rằng sẽ không rút hết quân chừng nào Hungary chưa trả hết tiền, nhưng “tiền nong” vẫn là vấn đề mà tướng Viktor Silov phàn nàn khi chia tay vào hồi 3h chiều hôm 19/6/1991. Báo chí Hungary lưu ý: trên tư cách người lính Xô Viết cuối cùng, nhưng ông không làm điều mà phía Hung muốn, là đi bộ qua cây cầu biên giới Hung - Liên Xô, mà phóng xe qua với chiếu khán ngoại giao trong tay.
Được chứng kiến sự ra đi của tốp quan nhân Liên Xô cuối cùng tại đại bản doanh ở Budapest của họ, phóng viên ảnh Zámbó László, người đã được nhắc tới ở đầu bài, cho hay: lính Xô Viết đã để lại một đống rác khổng lồ khi họ tháo hết nhà cửa và mang đi mọi thứ chổi cùn rế rách. Nhiều người cởi quần áo lính treo lên hàng rào, mặc đồ thường dân và tẩu thoát. Hẳn nhiên là họ không muốn về nước vì ở Hungary cuộc sống ổn hơn tại Liên Xô nhiều.
Báo chí Hungary cho hay, sau thời điểm 19/6, còn thấy lính Liên Xô lai vãng ở nhiều thành phố lớn và sẵn sàng trả rất nhiều tiền cho các cô gái Hung để có hôn thú giả, nhằm hợp thức hóa sự hiện diện của họ tại Hungary. Trước đó, để được thực hiện “nghĩa vụ quốc tế” ở Hung, họ đã phải đút lót không ít tiền ở quê hương: Hungary khi đó là nước “đầu bảng”, phải “lót tay” 2.000 Rup để được đi, trong khi sang Đông Đức chỉ cần 1.500 Rup!
Trở lại cuộc chiến tài chính, Hungary phải tiếp quản hàng trăm cơ sở quân sự và dân sự của Liên Xô mà hầu như không còn bất cứ thứ gì có thể sử dụng được, vì lính Xô Viết đã tháo dỡ hết về trong 1.500 chuyến tàu liên vận hồi hương, hoặc bán tống hết cho dân Hung tại “chợ đen”. Phía Hungary cho rằng thiệt hại - mà chủ yếu là về môi trường - của Hung còn lớn gấp đôi như vậy, và khởi đầu một xung đột kéo dài nhiều tháng giữa 2 nước.
Rốt cục, đôi bên đi tới một thỏa thuận “hòa giải”, khi cả hai đều từ bỏ yêu sách của mình. Biên bản thương lượng này được tổng thống Nga Boris Yeltsin ký năm 1992 trong chuyến thăm Budapest, kèm 2 điều khoản: Hungary chấp nhận viện trợ nhân đạo về thuốc men trị giá 10 triệu đô la cho Nga và xem xét khả năng giúp đỡ lính Xô Viết hồi hương giải quyết được vấn đề nhà cửa thiếu thốn. Câu chuyện 46 năm kết thúc “có hậu” như vậy.
Năm 2001, Quốc Hội Hungary quyết định lấy ngày 19/6, khi người lính nước ngoài cuối cùng rời nước này, là ngày kỷ niệm cấp quốc gia, bởi lẽ kể từ khi Đức Quốc Xã đưa quân vào Hung ngày 19/3/1944, phải tới ngày 19/06/1991 nước Hung mới không còn bóng “ngoại xâm”. Còn Ngày Tự Do Hungary thì được ấn định vào thứ Bảy cuối cùng của tháng Sáu để khỏi thêm 1 ngày nghỉ lễ, và đây cũng là dịp kỷ niệm được tổ chức tưng bừng ở nhiều nơi tại Hung.
Nhân vật chính của ngày 19/6 - tướng Viktor Silov, một quân nhân người Ukraina - vẫn còn sống và ở cách biên giới Hungary chừng 35km, nhưng ông không muốn phát biểu với báo chí về những gì đã diễn ra. Sau khi rời Hungary, ông còn phục vụ trong quân ngũ tại Moldova trên cương vị Tư lệnh lực lượng gìn giữ hòa bình. Tại đó, ông bị thương trong chiến trận và bị bắt làm tù binh 2 ngày, chứ không được yên lành như tại nước Hungary...
(*) Tên gọi đầy đủ là Liên quân các lực lượng vũ trang tác chiến - chiến thuật Liên Xô khu vực phía Nam.
Hồng Quân Liên Xô và 45 năm « lạc lối » ở Hungary - Tạp chí xã hội (rfi.fr)
Bí ẩn lịch sử : Vụ ném bom khiến Hungary buộc tham gia Đệ Nhị Thế Chiến
Đăng ngày:
Tròn 80 năm trước, những chiếc máy bay lạ mặt ồ ạt không kích thành phố cổ Kassa của Vương quốc Hungary (nay là Košice của Slovakia). Tổng cộng, 29 trái bom được ném xuống đô thị này, khiến 32 cư dân thiệt mạng và 80 người bị thương. Sự việc diễn ra chỉ vỏn vẹn 4 ngày sau khi phát-xít Đức tấn công Liên Xô vào rạng sáng 22/6/1941.
Mặc dù không thật rõ ngọn nguồn, nhưng nội các Bárdossy khi đó của Hungary vẫn coi đó là hành vi xâm lược của Liên bang Xô Viết, và lập tức tuyên chiến với Liên Xô. Vụ oach tạc Kassa nhờ vậy là yếu tố quyết định khiến Vương quốc Hungary tham gia Đệ Nhị Thế Chiến, hơn 1 năm rưỡi sau khi cuộc chiến này bùng nổ vào ngày 1/9/1939 với cuộc tấn công của Đức quốc xã nhằm vào Ba Lan.
Thân Đức để “báo thù”
Vụ ném bom không rõ nguồn gốc này, cho tới nay, vẫn chưa có lời giải đáp, và thuộc vào hàng những bí ẩn nổi tiếng nhất và để lại hậu quả thảm khốc nhất trong lịch sử Hungary. Dầu khó tránh được việc phải tham chiến và đứng về phe Đệ tam Đế chế, nhưng những trái bom ném xuống Kassa đã góp phần khiến nước Hung, một lần nữa, trở thành đất nước tổn thất bậc nhất sau cuộc Thế chiến này.
Để hiểu được nguồn cơn câu chuyện, cần trở về những ngày tháng của mùa hè 1920, khi Vương quốc Hungary - thành viên nền “song quốc quân chủ” Áo - Hung - bị “phe thắng cuộc” áp buộc ký kết Hiệp định hòa bình Trianon, khiến nước này đánh mất 2/3 diện tích đất nước và 2/3 dân số khi đó. Hungary còn bị giải trừ quân bị và bị cấm sở hữu các vũ khí hạng nặng và binh chủng không quân.
“Quý vị giờ đây đã đào mồ chôn nước Hung, nhưng Hungary sẽ có mặt tại tang lễ của tất cả các quốc gia mà bây giờ đang đào nấm mồ cho nước Hung” - bá tước Apponyi Albert, nhà bác học và nhà ái quốc vĩ đại của Hungary, được mệnh danh là “Đại lão trượng vùng Trung Âu”, đã nói như vậy nhân ngày 4/6/1920 định mệnh. Cả dân tộc Hung sục sôi trong tâm cảm phải phục thù bằng mọi giá.
Không chấp nhận “nỗi đau Trianon”, không nhắm mắt trước cảnh nước Hung lịch sử trôi nổi bên bờ vực thẳm của sự chia cắt, Hungary phải tìm đến đồng minh là nước Đức Hitler, vốn cũng thuộc “phe thua cuộc”, để chấn hưng kinh tế và được vực dậy sau đòn đánh quá thảm khốc này. Tuy nhiên, lệ thuộc vào kinh tế, ắt dẫn đến lệ thuộc vào chính trị với nước Đức đang cần đến “không gian sinh tồn”.
Sự lớn mạnh của các đảng phái, phong trào cực hữu theo chủ nghĩa xét lại ở Hungary khiến quốc gia do Nhiếp chính vương Horthy Miklós đứng đầu này ngày càng có sự gắn bó mật thiết với Đức. Bài xích người Do Thái để làm “đẹp lòng” Đức, nhờ sức ép của Đệ tam Đế chế, Hung được trả lại phân nửa diện tích đất đai bị cắt cho ngoại quốc qua hai hội nghị quốc tế ở Vienna (Áo) thời kỳ 1938-1940.
Nhưng chính giới Hungary không phải không biết rằng, nước Hung nên tránh chiến tranh. Trải nghiệm Đệ Nhất Thế Chiến, khi nước này buộc tham gia cuộc chiến chung của Đế chế Áo - Hung cho dù không có chút lợi lộc gì trong thực tế, khiến lãnh đạo Hung phải cân nhắc. Tuy nhiên, sau khi nỗ lực trung lập về quân sự gặp phải thất bại, sự “vào cuộc” của Hungary với Đức chỉ còn là vấn đề thời gian.
Vụ không kích Kassa
Sáng 26/6/1941, từ một phi đội máy bay không rõ nguồn gốc, những tay súng đã nhả đạn vào một đoàn tầu hỏa chạy từ Budapest, khiến 3 người chết và 6 người bị thương. Khả năng là vẫn chính 3 máy bay ấy, sau 13h chiều cùng ngày, chỉ trong vòng 2 phút, đã oanh tạc trên bầu trời Kassa, vốn là một trong 8 “thành phố hoàng gia tự do”của Vương quốc Hungary từ cuối thế kỷ 15, gây thiệt hại không nhỏ.
Vì Kassa là nơi tọa lạc căn cứ của Học viện Không quân Hungary, nên rất nhanh chóng, các chiến đấu cơ của Hung lập tức rượt đuổi theo 3 chiếc máy bay lạ, nhưng không tiếp cận được dưới khoảng cách 1km. Theo lời các nhân chứng, không ai phát hiện ra được xuất xứ của đội bay, nhưng sau vị ném bom, các chuyên gia quân sự tìm thấy 2 trái tác đạn không nổ và kết luận là khả năng là của Liên Xô.
Cho dù Tư lệnh Sân bay Kassa, ông Krúdy Ádám viết trong tường trình rằng có thể đây là các máy bay chiến đấu của Đức, nhưng điều này bị giấu kín trước nội các thân Đức của Thủ tướng Bárdossy László. Bầu không khí chính trị khi ấy rất căng thẳng : 4 hôm trước, Hitler vừa tấn công Liên Xô và quân đội các nước khi đó bị xem là thù địch với Hungary là Rumani và Slovakia cũng tham gia cuộc chiến đó.
Hungary bị đặt trước một bài toán khó : Liên Xô dường như muốn Vương quốc Hungary đứng ở vị trí trung lập, và thậm chí có thể ủng hộ nước này trong nỗ lực “xét lại”. Đồng thời, chính phủ Hung sợ rằng, Rumani và Slovakia do hiện diện trong chiến dịch “đánh nhanh, thắng nhanh” của Đức, sẽ có lợi thế trong việc giành lại những vùng đất mà Hungary đã nhận lại qua các hội nghị quốc tế ở Vienna.
Sau chiến thắng như chẻ tre của phát-xít Đức trong những ngày đầu trước Hồng quân, Bộ Tổng tư lệnh Hungary cho rằng cuộc tấn công Liên Xô có thể chỉ kéo dài vài tuần, giống như hồi Đức đánh Pháp, và do đó, Hungary có thể tham gia mà không hề hấn gì, thậm chí có thể còn có lợi về mặt lãnh thổ sau này. Ngay trong ngày 26/6, nội các Hungary nhóm họp và đặt đất nước vào tình trạng chiến tranh.
Rạng sáng hôm sau, Vương quốc Hungary bước vào Đệ Nhị Thế Chiến sau khi Quốc Hội nước này thông qua quyết định “trả đũa”. Ngày 1/7/1941, 40 ngàn quân nhân Hungary được huy động tham gia cùng Đức quốc xã trong cuộc chiến chống Liên Xô mà khi đó, ít ai nghĩ là sẽ kéo dài nhiều năm, rốt cục dẫn đến thảm họa lớn nhất của Quân đội Hoàng gia Hungary, và của cả nước Hung ngàn năm tuổi.
Vì sao nên nỗi ?
Vụ không kích Kassa như là yếu tố làm bùng nổ chiến tranh với Hungary, sau 80 năm vẫn rất được giới sử học quan tâm, và là nguồn cơn của nhiều giả thuyết trái ngược. Khó tin được rằng đây là sự khiêu khích của Liên Xô, khi đó đang khốn đốn vì bị Đức tấn công và Stalin không có lợi lộc gì khi có thêm một kẻ thù, nhất là khi Ngoại trưởng Vyacheslav Molotov cũng đang đề nghị nước Hung hãy trung lập.
Nói về trái tạc đạn không nổ bị coi là của Liên Xô, điều này cũng không có gì chắc chắn vì khi đó, ở châu Âu, quân đội Tiệp Khắc, Nam Tư và Tây Ban Nha thời nội chiến cũng dùng loại vũ khí đó. Thế thì phải chăng, đây là âm mưu của Đức để buộc Hungary tham chiến cùng? Điều này cũng vô cơ sở vì trong những ngày đầu của chiến tranh, Đức quốc xã chưa hề cần Quân đội Hoàng gia Hungary phải hỗ trợ.
Hơn thế nữa, các phi đội máy bay của Không quân Đức (Luftwaffe) không xa lạ với dân Hung, vì trước đó đã nhiều lần họ được thấy, nên có thể phát hiện ngay. Giả thuyết các phần tử thân Đức của Vương quốc Hungary tự “thiết kế” một cuộc tấn công như vậy để có cớ “lâm trận” với phát-xít Đức cũng khá phi lý, vì nếu vậy, không khó khăn gì để máy bay Hung dội bom xuống chính căn cứ quân sự Hung!
Còn lại một giả thuyết được chấp nhận rộng rãi nhất cho tới giờ, là quả thực cuộc tấn công do Liên Xô thực hiện, nhưng họ nhầm lẫn địa chỉ! Vào thời điểm đó, Slovakia đã tham chiến cùng Đức và tại thành phố Eperjes về phía Bắc của Kassa, có một cứ điểm thông tin đáng kể của Đức tọa lạc. Rất có thể, máy bay Liên Xô do “trục trặc kỹ thuật”, đã nhầm Eperjes với Kassa, khi họ muốn triệt hạ cơ sở này của Đức.
Dầu sao đi nữa, khả năng này đã không được nội các thân Đức của Hungary để tâm đến, và nó cũng chỉ là một giả thuyết mà không ai có thể kiểm chứng được. Vụ ném bom Kassa khả năng vĩnh viễn sẽ là một bí ẩn của lịch sử, nhưng hậu quả của nó thì vô bờ : mặc dầu dự định vượt qua chiến tranh với tổn thất tối thiểu, nhưng tới năm 1944-45, Hungary trở thành vùng đệm của chiến sự Liên Xô - Đức.
Rốt cục, Vương quốc Hungary lại đại bại trong Đệ Nhị Thế Chiến: với Hiệp định Hòa bình Paris năm 1947, nước Hung đánh mất tất cả những vùng đất đã được nhận lại và còn mất thêm đất cho Tiệp Khắc, Hungary phải bồi hoàn chiến tranh và hậu quả dài lâu của cuộc chiến, là nước này nằm dưới ách thống trị của Liên Xô tới năm 1991, khi người lính cuối cùng của Hồng quân vĩnh viễn rời đất nước này ...
Bí ẩn lịch sử : Vụ ném bom khiến Hungary buộc tham gia Đệ Nhị Thế Chiến - Tạp chí xã hội (rfi.fr)
Geen opmerkingen:
Een reactie posten