maandag 15 februari 2021

Trung Quốc ngấm ngầm tạo “hiện trạng mới” độc chiếm Biển Đông với Luật Hải cảnh + Tuần duyên Đông Nam Á và Trung Quốc : Cuộc đấu không cân sức

 

Trung Quốc ngấm ngầm tạo “hiện trạng mới” độc chiếm Biển Đông với Luật Hải cảnh

Phần âm thanh 08:59
Tầu hải cảnh Trung Quốc phun vòi rồng vào tầu cá Philippines, ngày 23/09/2015 trong khu vực bãi cạn Scarborough ở Biển Đông. Ảnh minh họa.
Tầu hải cảnh Trung Quốc phun vòi rồng vào tầu cá Philippines, ngày 23/09/2015 trong khu vực bãi cạn Scarborough ở Biển Đông. Ảnh minh họa. AP - Renato Etac
Thu Hằng
20 phút

Luật Hải cảnh mới của Trung Quốc cho phép lực lượng Cảnh sát biển của nước này bắn vào tầu thuyền nước ngoài trong trường hợp tranh chấp, xua đuổi thậm chí là bắt giữ tầu nước ngoài trong vùng biển mà Bắc Kinh tự nhận chủ quyền, như tại biển Hoa Đông và Biển Đông. Đây là hai vùng biển có vị trí chiến lược và giầu nguồn tài nguyên mà Trung Quốc cần để duy trì phát triển kinh tế.


Với Luật Hải cảnh có hiệu lực từ ngày 01/02/2021, từ một lực lượng có nhiệm vụ trị an, tìm kiếm cứu nạn, lực lượng Cảnh sát biển giờ trở thành một công cụ hăm dọa của quân đội Trung Quốc, ép các nước láng giềng tuân thủ quy tắc do họ đặt ra nếu không muốn lĩnh hậu quả. Nói một cách khác, Trung Quốc dùng vũ lực để khẳng định là “ông chủ duy nhất” ở các vùng biển có tranh chấp.

“Hiện trạng mới” này sẽ được ngấm ngầm duy trì với Luật Hải cảnh mới, được một nhà nghiên cứu Philippines ví như "quả bom nổ chậm". Đây là “một mối nguy hiểm cho các nước có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc”, theo nhận định của nhà nghiên cứu Pháp Laurent Gédéon, Trường Sư phạm Lyon (ENS de Lyon), khi trả lời RFI Tiếng Việt.

*****

RFI : Luật Hải cảnh Trung Quốc cho phép Cảnh sát biển Trung Quốc sử dụng vũ lực để bảo vệ chủ quyền. Tại sao luật này được thông qua và có những điểm gì gây lo lắng ?

Laurent Gédéon : Luật này khá mới, được thông qua ngày 22/01/2021 và có hiệu lực từ ngày 01/02/2021. Về mặt chính thức, Bắc Kinh nói rằng Luật Hải cảnh nhằm mục đích bảo vệ chủ quyền quốc gia, an ninh và các quyền hàng hải của Trung Quốc. Theo quan điểm của bộ Ngoại Giao Trung Quốc, luật hoàn toàn phù hợp với các công ước và thông lệ quốc tế.

Tuy nhiên, nếu nhìn vào những gì được nêu trong 84 điều, được chia thành 11 chương, và cho dù luật cố định nghĩa chính xác bộ khung pháp lý can thiệp của lực lượng Hải cảnh Trung Quốc, thì vấn đề đặt ra là luật này vẫn không nêu rõ đâu là những vùng biển thuộc chủ quyền của Trung Quốc.

Thực vậy, người ta có thể thấy không gian này được nhắc trong điều 3. Điều này ghi : Luật được áp dụng đối với các hoạt động của lực lượng Cảnh sát biển và ở phía trong và trên vùng biển nằm trong quyền tài phán của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa. Nhưng khu vực này lại không được nêu cụ thể.

Điều cần chú ý, đó là qua luật này, Trung Quốc gia tăng áp lực pháp lý, mà trên thực tế đã được đẩy mạnh với việc thông qua một số luật, trong đó có “Luật lãnh hải và vùng tiếp giáp” năm 1992. Mục đích của những luật này là củng cố tính hợp pháp trên thực địa những đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc, kể cả ở Biển Đông, bởi vì luật cũng đề cập rõ đến các đảo và đá ngầm. Đây là điều cần lưu ý !

Cụ thể , điều 12 ghi rằng Cảnh sát biển có thể tiến hành tuần tra để bảo vệ các đảo và đá ngầm và quản lý biên giới trên biển. Vẫn điều 12 quy định rằng lực lượng Cảnh sát biển có thể đưa ra những biện pháp cần thiết để bảo vệ an ninh cho các đảo và đá ngầm, cũng như các đảo nhân tạo và các công trình cơ sở hạ tầng. Điều đáng chú ý ở đây là các đảo nhân tạo nằm ở Biển Đông và không nằm trong vùng biển của Trung Quốc.

Vì thế, có thể thấy là luật này nhắm đến mục đích tăng tính pháp lý cho sự hiện diện của Trung Quốc ở Biển Đông, làm dày thêm kho tài liệu pháp lý của Trung Quốc về khu vực này và có khả năng dẫn đến thay đổi quyền tài phán liên quan đến Biển Đông được quy định theo luật pháp quốc tế. Chúng ta có thể nghĩ đây là đích ngắm trong trung hạn ẩn sau kế hoạch này.

RFI : Lực lượng Cảnh sát biển Trung Quốc được thành lập trên cơ sở tái cơ cấu Tổng cục Hải dương Quốc gia năm 2013, đến năm 2018 được chuyển từ Tổng cục Hải dương sang Cảnh sát vũ trang Nhân dân và hiện được trang bị vũ khí. Đây có phải là một mối nguy hiểm trong vùng không ?

Laurent Gédéon : Cảnh sát biển Trung Quốc, từng là một nhánh của Tổng cục Hải dương Quốc gia vào năm 2013, hiện nằm dưới sự quản lý của Quân ủy Trung ương do ông Tập Cận Bình làm chủ tịch.

Quy chế của lực lượng này rất mập mờ bởi vì trên thực tế, đây là một lực lượng bán quân sự hơn là một cơ cấu cảnh sát. Nhưng lực lượng này lại không được coi là một phần của Hải Quân Trung Quốc. Và điều này cho phép lực lượng hải cảnh tiến hành những chiến dịch mà nếu do các tầu chiến đảm nhiệm thì có nguy cơ dẫn đến các cuộc đối đầu vũ trang.

Vì vậy việc sử dụng lực lượng này mang mục đích chính trị. Trung Quốc để quy chế mập mờ, nước đôi của lực lượng Cảnh sát biển vì điều đó cho phép Bắc Kinh giữ được thế mạnh trên thực địa mà vẫn tránh được các mâu thuẫn.

Từ những yếu tố trên, tôi cho rằng Cảnh sát biển Trung Quốc là một mối nguy hiểm tiềm tàng cho các nước láng giềng vì nó cho phép Trung Quốc chiếm ưu thế trên thực địa mà vẫn có thể tránh được đối đầu trực diện với các nước trong vùng.

RFI : Như ông nói, quy chế của Hải cảnh Trung Quốc là mập mờ, nước đôi. Lực lượng này còn có khả năng nào khác nhờ luật mới này ?

Laurent Gédéon : Trên nguyên tắc, Hải cảnh Trung Quốc có nhiệm vụ áp dụng luật của Nhà nước trong các vùng biển thuộc quyền tài phán của họ. Nhưng phải chú ý rằng với luật mới này, Hải cảnh Trung Quốc có thêm chức năng địa-chính trị mới nhờ vào quyền hạn được trao cho lực lượng này về mặt pháp lý, trong đó có việc được phép can thiệp chống tầu thuyền nước ngoài và sử dụng vũ lực nếu cần thiết.

Cần phải nhắc lại rằng đạo luật này được thông qua trong bối cảnh chung mà chúng ta thấy là ngày càng có nhiều sự cố giữa hải quân Trung Quốc và hải quân nước ngoài, trong đó có cả Hoa Kỳ, cũng như trong bối cảnh rộng hơn, đó là căng thẳng Mỹ-Trung thêm gia tăng mà đỉnh điểm hiện nay là vấn đề Đài Loan.

Những điều khoản liên quan đến tầu thuyền nước ngoài gồm có điều 7, 20 và 21, quy định rằng Cảnh sát biển Trung Quốc có quyền tiến hành các biện pháp cảnh cáo, kiểm tra để bắt giữ tầu quân sự nước ngoài. Họ có quyền bắt các tầu nước ngoài rời khỏi những khu vực hoặc vùng biển có tranh chấp. Họ cũng có quyền sử dụng vũ lực. Việc này được nêu trong các điều 22, 47 và 48. Theo ba điều này, Hải cảnh Trung Quốc được phép sử dụng vũ khí cầm tay, vũ khí được phóng từ tầu và hoặc từ trên không.

Việc sử dụng vũ khí được trang bị trên tầu, hoặc phóng từ trên không cho thấy khả năng sử dụng vũ khí hạng nặng hơn, có tính chất hủy diệt hơn. Qua đó có thể thấy là nhiều loại vũ khí không được trang bị cho Hải cảnh Trung Quốc nhưng lực lượng này lại có thể dùng đến để đối phó hiệu quả hơn với tầu thuyền nước ngoài, trong đó có lực lượng hải quân Mỹ.

RFI : Cụ thể hiện tại lực lượng Cảnh sát biển Trung Quốc được trang bị như thế nào ?

Laurent Gédéon : Cảnh sát biển Trung Quốc là lực lượng Hải cảnh lớn nhất thế giới và có nhiều tầu nhất, từ 400 đến 500 tầu. Hải cảnh Trung Quốc cũng có những con tầu mạnh nhất thế giới trong đội tầu kiểu này. Ví dụ, vào năm 2017 hai con tầu lớn nhất của Hải cảnh thế giới đã được bổ sung vào lực lượng này. Đó là những con tầu có lượng giãn nước tới 12.000 tấn và có tốc độ rất cao.

Người ta cũng nhận thấy là đội tầu Hải cảnh Trung Quốc còn có nhiều tầu thực ra được chuyển từ Hải quân của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc sang. Có nghĩa là đó là những con tầu chiến được tái bổ sung vào lực lượng Hải cảnh với chức năng được mở rộng, như chúng ta đề cập ở trên, và một số điểm trong phần nhiệm vụ của lực lượng này thực ra phải thuộc về hải quân.

Do đó, chúng ta có thể thấy là chức năng của lực lượng Hải cảnh Trung Quốc vừa mơ hồ, vừa nhập nhằng, đặc biệt theo những chi tiết trên, thì đó là một đội tầu mang tính quân sự nhiều hơn.

RFI : Việt Nam và ngư dân Việt Nam, cũng như nhiều nước khác trong vùng, bị lực lượng bán quân sự này đe dọa như thế nào ?

Laurent Gédéon : Một trong những khó khăn cho Việt Nam là ở chỗ thiếu sự rõ ràng trong hành động của Trung Quốc và tính mập mờ trong cách diễn giải về không gian có thể có liên quan đến việc áp dụng Luật Hải cảnh mới này. Vấn đề ở chỗ, tình huống không rõ ràng thì sẽ tăng nguy cơ tính toán sai lầm và như vậy sẽ tăng nguy cơ xảy ra sự cố. 

Ngoài ra còn có một vấn đề khác liên quan đến nội dung trong điều 3 về việc áp dụng luật này ở trong và bên trên vùng biển. Điều này ngụ ý rằng khi làm nhiệm vụ, Hải cảnh Trung Quốc chú ý đến cả không phận phía trên vùng biển. Đây là điểm gây lo ngại về khả năng Bắc Kinh gấp rút thiết lập vùng nhận dạng phòng không trên Biển Đông. Như vậy, Hải cảnh Trung Quốc có thêm nhiệm vụ áp dụng luật trong khu vực này.

Việt Nam cũng có lý do để lo lắng về nội dung được ghi trong điều 12, theo đó Cảnh sát biển Trung Quốc giám sát, kiểm tra các hoạt động bất kể đó là hoạt động nuôi, khai thác hải sản hay đánh bắt. Dĩ nhiên, đây là điểm gây lo ngại vì chúng ta biết rằng một phần sự cố giữa Trung Quốc và Việt Nam liên quan đến hoạt động của các tầu cá.

Việt Nam hiện phải đối phó với sức ép từ Trung Quốc. Hà Nội có thể phản ứng qua đường ngoại giao bởi vì nhiều nước khác đã lên tiếng phản đối Luật Hải cảnh của Trung Quốc, như Nhật Bản, Philippines, Malaysia. Việt Nam có thể thử theo lập trường của những nước này và cùng đưa ra một lập trường chính thức chung, có thể gây được chú ý trên thế giới và mang tính răn đe đối với Trung Quốc.

Nhưng song song đó, Việt Nam cũng có thể hợp tác với Trung Quốc bằng cách đề xuất tổ chức các cuộc diễn tập chung giữa lực lượng Hải cảnh hai nước theo hướng quản lý và dàn xếp các sự cố hoặc các trường hợp bất ngờ.

RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, Trường Sư phạm Lyon (ENS de Lyon), Pháp.

Trung Quốc ngấm ngầm tạo “hiện trạng mới” độc chiếm Biển Đông với Luật Hải cảnh - Tạp chí Việt Nam (rfi.fr)

Tuần duyên Đông Nam Á và Trung Quốc : Cuộc đấu không cân sức

Tàu hải cảnh Trung Quốc.
Tàu hải cảnh Trung Quốc. REUTERS
Trọng Nghĩa
9 phút

Trên biển khơi, giới chuyên gia quân sự thường phân biệt hai lực lượng : Tàu trắng (thường được gọi trong tiếng Anh là white-hull), tức là các chiếc tàu tuần duyên hay cảnh sát biển, và tàu xám (gray hull) tức là lực lượng Hải Quân. Trên danh nghĩa, lực lượng tàu trắng được cho là ôn hòa hơn lực lượng tàu xám. Tuy nhiên, thực tế tại Biển Đông rất khác : Tàu trắng Trung Quốc là hung thần.

Trong bài phân tích mang tựa đề « Cuộc chiến tranh tàu vỏ trắng tại Biển Đông » (The South China Sea's ‘White-Hull’ Warfare) đăng trên trang web của tạp chí Mỹ The National Interest ngày 26/03/2016, nhà nghiên cứu Koh Swee Lean Collin tại Singapore đã nêu bật tính chất dầy đặc và hung tợn của đội tàu tuần duyên Trung Quốc so với các nước Đông Nam Á.

Theo Koh Swee Lean Collin, trên lý thuyết thì lực lượng tuần duyên được xếp vào diện bồ câu, trái với Hải Quân luôn gắn liền với khái niệm chiến tranh. Thế nhưng, bồ câu nhiều khi cũng biến thành diều hâu, khi một quốc gia có một quan điểm khác về cách sử dụng các phương tiện này. Trung Quốc nằm trong trường hợp đó, và một loạt sự cố trên Biển Đông trong những năm gần đây là bằng chứng cho thấy là tàu « vỏ trắng » có thể trở thành hung dữ, trong lúc Hải Quân thì lại tương đối ôn hòa hơn.

Trung Quốc hơn hẳn Indonesia, Malaysia, Philippines và Việt Nam

Tác giả trước hết so sánh thực lực của lực lượng tuần duyên – đúng ra là tuần dương – Trung Quốc với lực lượng cảnh sát biển của bốn nước Đông Nam Á thường xuyên là nạn nhân của Trung Quốc : Indonesia, Malaysia, Philippines và Việt Nam.

Ghi nhận đầu tiên là tính chất hùng hậu của hạm đội tàu trắng Trung Quốc, mang tên chính thức là Hải Cảnh, tức là Cảnh Sát Biển, hậu thân của các lực lượng Hải Giám và Ngư Chính, so với các đội tàu yếu hơn nhiều của các đối thủ Đông Nam Á tại Biển Đông.

Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng không cân sức này là thái độ thờ ơ trước đây của các chính phủ Đông Nam Á đối với các lực lượng trên biển, đặc biệt là tuần duyên, thể hiện qua việc dành ngân sách quá ít cho ngành này.

Phải chờ cho mãi đến những năm 2000 mới thấy những thay đổi đầu tiên, khi khu vực chứng kiến một sự bùng lên của nạn cướp biển, cũng như tình trạng tội phạm hàng hải xuyên quốc gia.

Để đối phó, các nước bắt đầu thành lập các cơ quan chuyên trách : Cơ quan Thực Thi Pháp Luật Hàng hải Malaysia (MMEA) được thành lập vào năm 2005, trong lúc Indonesia đổi tên cơ quan điều phối của mình thành BAKAMLA vào năm 2014. Tại Việt Nam, lực lượng Ngư Chính mới thành lập đã góp mặt cùng với lực lượng Cảnh Sát Biển Việt Nam hình thành năm 2013.

Trên nguyên tắc, các cơ quan cảnh sát biển có nhiệm vụ giảm bớt gánh nặng cho lực lượng Hải Quân trong thời bình, và tạo điều kiện cho việc thực thi quyền chủ quyền và quyền tài phán trên biển, được ghi trong Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển.

Tuy nhiên, theo dữ liệu trong bản báo cáo Cán Cân Quân Sự 2016 (Military Balance 2016), so với con số 326 tàu của Hải Cảnh Trung Quốc (trong đó có cả trăm tàu có khả năng tuần tra trên biển khơi), lực lượng cảnh sát biển của các nước Đông Nam Á có quy mô khiêm tốn hơn nhiều.

Tàu thuyền của cảnh sát biển Đông Nam Á chủ yếu cũng chỉ bao gồm các loại hoạt động ven bờ, thiếu trang bị, có thể đủ để chống tội phạm lặt vặt trên biển, nhưng hầu như bất lực khi phải chống lại những đối thủ to lớn hơn, được trang bị tốt hơn, trong một môi trường xa bờ.

Cuộc đối đầu hôm 19/03/2016 giữa hai lực lượng cảnh sát biển Trung Quốc và Indonesia ngoài khơi quần đảo Natuna của Indonesia là minh chứng cụ thể về những giới hạn mà lực lượng tuần duyên Đông Nam Á đang gặp phải.

Đông Nam Á rất thiếu tàu tuần tra ngoài khơi xa

Bài phân tích của chuyên gia Singapore đã nêu bật tính chất yếu kém của lực lượng cảnh sát biển tại 4 quốc gia Đông Nam Á được cho là đang có quan tâm đến vấn đề bảo vệ vùng biển của mình.

Indonesia

Lực lượng tuần duyên BAKAMLA của Indonesia chỉ có hơn một trăm chiếc tàu trực thuộc nhiều cơ quan cấp dưới khác nhau. Vấn đề là đại đa số những phương tiện này chỉ thích hợp cho các hải vụ gần bờ hay ven biển mà thôi, chẳng hạn như chiếc tàu ngư chính Hiu-011, đã can dự vào sự cố với tàu Trung Quốc hôm 19/03 vừa qua. Indonesia chỉ có không đầy mười chiếc tàu có khả năng tuần tra ngoài biển khơi (OPVs).

Hải Quân Indonesia vấn còn được huy động vào các nhiệm vụ cảnh sát, nhưng số lượng tàu hoạt động được ngoài khơi xa chẳng thấm vào đâu so với diện tích quá lớn của quần đảo Indonesia khổng lồ. Dẫu sao thì chỉ có ba trên tổng số 7 chiếc tàu Hải Quân Indonesia là túc trực tại vùng quần đảo Natuna, còn phần lớn công việc thực thi luật pháp thì được giao cho cơ quan BAKAMLA thiếu phương tiện.

Malaysia

Tại Malaysia tình hình khá hơn một chút. Hạm đội của cơ quan MMEA có khoảng 190 chiếc tàu. Thế nhưng cũng chỉ có hai tàu có khả năng bảo vệ tuyên bố chủ quyền của Malaysia ngoài khơi xa, và các chiếc tàu này đều đã khoảng 30 tuổi. Tóm lại, Malaysia có quá ít tàu trắng.

Chính vì lý do đó mà trong sự cố South Luconia Shoals tháng 9 năm 2013, Hải Quân Malaysia là lực lượng đầu tiên phản ứng với sự xâm nhập của Trung Quốc. Rõ ràng là cơ quan MMEA rất cần các phương tiện hoạt động ngoài khơi xa, nhưng 7 chiếc tàu mới được đặt gần đây sẽ còn mất nhiều thời gian nữa mối đi vào hoạt động, và sẽ không đủ cho vùng biển rộng lớn của Malaysia.

Philippines

Lực lượng tuần duyên Philippines thì cũng chỉ có 72 chiếc tàu, trong đó có 5 chiếc đủ sức đi biển. Do đó, lực lượng Hải Quân Philippines phải gánh vác trách nhiệm thực thi luật pháp trên Biển Đông, với hệ quả là bị Trung Quốc làm nhục.

Tại bãi cạn Scarborough vào tháng Tư năm 2012, tàu tuần duyên Trung Quốc, dù nhỏ hơn, đã ngăn cản được không cho tàu Hải quân Philippines BRP Gregorio del Pilar bắt giữ ngư dân Trung Quốc. Kể từ đó, cảnh sát biển Trung Quốc canh giữ thường trực vùng bãi cạn này, trong lúc Manila tránh đưa tàu Hải Quân đến can thiệp.

Rõ ràng là lực lượng tuần duyên Philippines đã bị đối thủ Trung Quốc đè bẹp, và như vậy, đã mặc nhiên nhường quyền kiểm soát bãi Scarborough cho Bắc Kinh.

Việt Nam

Việt Nam trong tư thế khá hơn, với lực lượng Cảnh Sát Biển có gần năm mươi tàu, bao gồm hơn mười chiếc có thể hoạt động ngoài khơi xa. Tuy nhiên, Việt Nam đã thực sự cảm nhận sâu sắc sự thiếu hụt phương tiện của mình nhân cuộc khủng hoảng giàn khoan dầu HD-981 với Trung Quốc từ tháng 5 đến tháng 7 năm 2014.

Trước hết, do việc tàu của mình thuộc loại nhỏ, lực lượng Cảnh Sát Biển Việt Nam thiếu độ bền cần thiết để bám trụ tại hiện trường, và vì vậy cần phải được liên tục luân phiên để duy trì một sự hiện diện thường trực của Việt Nam. Một ví dụ : tàu tuần tra ngoài khơi xa của Trung Quốc có khả năng bám trụ bằng hai chiếc tàu Việt Nam luân phiên thay thế nhau.

Về cơ bản, năng lực bảo vệ bờ biển của Việt Nam đã bị « căng ra » đến mức tối đa khiến cho các phương tiện phải làm việc quá mức, đặt ra vấn đề bảo trì.

Trung Quốc đã hiểu rõ thế yếu của Đông Nam Á để lợi dụng

Trung Quốc có vẻ tự tin về thành công của họ tại Biển Đông. Tính toán của họ đã đạt kết quả. Không những không có nước Đông Nam Á nào có lực lượng tuần duyên nào đông và mạnh, đủ sức đáp trả thách thức đội tàu trắng của Trung Quốc, mà các nước đó lại phải tránh triển khai lực lượng Hải Quân, vì biết rằng về mặt này, họ cũng thua kém.

Đối với tác giả, hiện thực Biển Đông đang là như sau : Trung Quốc có một lực lượng Hải Cảnh có quy mô lớn, bảo đảm năng lực « bình định » khu vực cũng như tạo ra một vùng phòng thủ cho Trung Quốc.

(Bài phát lần đầu ngày 30/03/2016)

Tuần duyên Đông Nam Á và Trung Quốc : Cuộc đấu không cân sức (rfi.fr)

Geen opmerkingen:

Een reactie posten