10 bài bạn có thể chưa biết về cuộc chiến 1979
Ảnh: Cuộc chiến biên giới Việt Trung 1979
Ảnh: Một số bức ảnh ghi lại cuộc chiến biên giới Việt-Trung và các hoạt động tưởng niệm những năm gần đây tại Việt Nam
- 16 tháng 2 2017
Chiến tranh biên giới 1979 qua các con số
Chiến tranh Biên giới Việt-Trung 1979 qua các con số thương vong nêu ra khác nhau.
- 20 tháng 2 2017
Chiến tranh 1979: 'Lịch sử đã bị bóp méo bởi phía TQ'
Ý kiến của nhà nghiên cứu từ Việt Nam và hải ngoại nhìn lại 40 năm cuộc chiến Biên giới Việt - Trung tại Bàn tròn thứ Năm của BBC.
- 1 giờ trước
Ông Hoàng Văn Hoan và vụ thanh trừng 1979
Đọc lại tư liệu về ông Hoàng Văn Hoan và vụ thanh trừng giai đoạn xung khắc Việt -Trung 1979-1980.
- 21 tháng 2 2017
Cuộc chiến 1979 thực sự đã 'bắt đầu từ trước'
- 17 tháng 2 2017
'Ngày này năm 79 là ngày tôi lên biên giới'
- 17 tháng 2 2018
Cuộc chiến 1979: Góc nhìn của Trung Quốc
- 2 tháng 5 2017
Dương Danh Dy: 'Chứng nhân những thăng trầm Việt-Trung'
- 20 tháng 9 2018
Đâu là nguyên nhân cuộc chiến Việt-Trung tháng Hai năm 1979?
BBC mới đăng lại bài viết của tác giả người Hung, Tiến sĩ Balazs Szalontai, tựa đề "Đàm phán biên giới Việt Trung 1974-1978". Tác giả cho biết nguyên nhân chính đưa đến xung đột giữa Việt Nam và Trung Quốc là vấn đề "tranh chấp chủ quyền quần đảo Hoàng Sa":
"Tài liệu từ văn khố Hungary đã hé lộ cho thấy nguyên nhân chính gây ra cuộc xung đột Việt Trung là một vấn đề mà Liên Bang Xô Viết chẳng có dính dáng gì tới: đó là cuộc tranh chấp về chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa."
Trung Quốc đã mở đầu cuộc chiến khi xua quân tràn qua biên giới ngày 17/2/1979. Quần đảo Hoàng Sa đã bị Trung Quốc chiếm từ tháng giêng 1974. Dĩ nhiên Trung Quốc không thể vịn vào "tranh chấp Hoàng Sa" để biện hộ cho hành vi xâm lược. Bởi vì quần đảo này đã yên ổn trong tay họ.
Về phía Việt Nam (VNDCCH), nếu xét sâu xa ở phương diện lịch sử thành hình biên giới Việt-Trung, vấn đề Hoàng Sa cũng là chuyện "đã rồi", ít ra trong khoản thời gian từ năm 1958 cho đến đầu thập niên 70 của thế kỷ trước. Ngay cả lúc sau này VNDCCH thay đổi lập trường, thì kết luận "tranh chấp Hoàng Sa" là nguyên nhân đưa đến cuộc chiến cũng là điều khó thuyết phục.
Các học giả quốc tế, không ngoại lệ, đều cho rằng nguyên nhân chủ yếu đưa đến cuộc chiến "Đông Dương lần thứ ba" là yếu tố Liên Xô mà Tiến sĩ Balazs Szalontai đã loại trừ.
Cuộc chiến nhìn từ phía Trung Quốc
Tác giả King C. Chen trong "China's War Against Vietnam" kể lại buổi họp ngày 16/2/1979 tại Bắc Kinh do Hoa Quốc Phong chủ trì, 17 tiếng đồng hồ trước khi lệnh nổ súng ban ra. Đặng Tiểu Bình có bài thuyết trình cho các lãnh đạo Cộng sản Trung Quốc về bản chất và mục tiêu cuộc chiến.Theo họ Đặng bản chất cuộc chiến là "hoàn kích tự vệ". Cuộc chiến được "giới hạn" về thời gian, không gian cũng như về qui mô. Mục tiêu là dạy cho Việt Nam một "bài học".
Gọi "hoàn kích tự vệ chiến", tức đánh trả để tự vệ, bởi vì Việt Nam đã "trục xuất kiều dân người Hoa" cũng như bộ đội Việt Nam nhiều lần mở các cuộc tấn công vào lãnh thổ Trung Quốc, chiếm đất của Trung Quốc cũng như gây nhiều thiệt hại về nhân mạng.
Mục tiêu "cho Việt Nam một bài học", bởi vì "Việt Nam cực kỳ ngạo mạn", xâm lược Campuchia, khoa trương thế lực là "cường quốc thứ ba trên thế giới".
Học giả Trung Quốc, Xiaoming Zhang, trong "China's 1979 War with Vietnam: A Reassessment", dẫn Nayan Chanda của Tạp Chí Kinh Tế Viễn Đông, nói rằng cấp lãnh đạo Trung Quốc, trong một cuộc họp Bộ Chính trị hàng tuần vào đầu tháng Bảy năm 1978, đã ra quyết định "dạy cho Việt Nam bài học" vì thái độ "vô ơn và ngạo mạn".
Theo tác giả này, trong 20 năm Trung Quốc đã viện trợ cho Hà Nội trên 20 tỷ đô la Mỹ, nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào khác. Nhưng sau 1975 Việt Nam buộc người Hoa hồi cư đồng thời gia tăng chiến sự trên biên giới. Rõ ràng đây là thái độ phủi ơn và hống hách. Ngoài ra còn có vấn đề can thiệp quân sự vào Campuchia.
Tác giả cũng dẫn ý kiến của Châu Đức Lễ (Zhou Deli), tham mưu trưởng quân khu Quảng Châu, trong một cuộc họp được tổ chức trong bộ tổng tham mưu Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc tháng 9 năm 1978. Nội dung nói về "làm sao đối phó với nạn xâm chiếm lãnh thổ của quân đội Việt Nam".
Ý kiến của Châu Đức Lễ (về việc Việt Nam chiếm đất của Trung Quốc) được củng cố nếu ta xét tài liệu "mật" của CIA Mỹ về cuộc chiến 1979 đã được bạch hóa. Theo tài liệu này thì Việt Nam chiếm khoảng 60km² đất của TQ.
Nhưng ý nghĩa của cuộc "phản công tự vệ chiến" (vì Việt Nam chiếm 60km² đất của Trung Quốc) là không có căn cứ. Theo nghiên cứu của cá nhân, chuyện Việt Nam chiếm 60km² đất của TQ là chuyện "bịa đặt" để Trung Quốc "lấy cớ" đánh Việt Nam.
Cuộc chiến đã xảy ra đúng như họ Đặng đã nói. Thời gian xung đột chỉ trong một tháng (quân Trung Quốc hoàn tất việc rút quân vào ngày 17/3/1979). Địa bàn chiến tranh chỉ ở các tỉnh biên giới. Về "qui mô", Trung Quốc cũng giới hạn không sử dụng hải quân và không quân.
Không có một dòng nào để ta có thể nghĩ rằng cuộc chiến biên giới 1979 có mối liên quan với vấn đề tranh chấp chủ quyền quần đảo Hoàng Sa.
Cuộc chiến nhìn từ học giả nước ngoài
Theo cái nhìn của cá nhân tôi, thuyết phục hơn hết là "nguyên nhân chiến lược", dẫn từ tham luận "Security Issues in Southeast Asia: The Third Indochina War" của học giả Carlyle Thayer, đọc tại Hội Nghị "An Ninh và Kiểm Soát Vũ Khí tại Bắc Thái Bình Dương", Đại học Quốc gia Úc (Canberra) tháng Tám năm 1987.Theo học giả Carlyle Thayer, Trung Quốc (và cả khối ASEAN) lo ngại sự thành hình của "liên minh chiến lược Đông Dương" mà liên minh này thân Liên Xô. Quan niệm của Việt Nam "Đông Dương là một đơn vị chiến lược duy nhất, một chiến trường duy nhất". Quan niệm này đã thể hiện qua hai cuộc "chiến tranh Đông Dương", lần thứ nhất giữa Bắc Việt với "thực dân Pháp" và lần hai giữa Bắc Việt với "đế quốc Mỹ". Cuộc chiến 1979 được gọi là "cuộc chiến Đông Dương lần thứ ba", Việt Nam gọi Trung Quốc là "bọn bành trướng bá quyền".
Nếu khảo sát sơ lược các diễn tiến lịch sử đã qua, ta thấy lý thuyết của học giả Carlyle Thayer được chứng minh. Điều này cũng "ăn khớp" với cái nhìn từ Trung Quốc.
Đàm phán biên giới Việt-Trung 1974-1978
Chiến tranh biên giới 1979 qua các con số
Khúc quanh làm sụp đổ quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc bắt đầu từ năm 1976, khi Liên Xô hứa hẹn viện trợ cho Việt Nam 3 tỉ đô la. Số tiền này bằng số tiền mà Mỹ hứa sẽ viện trợ, (nếu Việt Nam tôn trọng hiệp định Paris). Việt Nam trở thành "vệ tinh" của Liên Xô từ lúc này.
Từ năm 1965 đến 1975, Liên Xô đã trở thành nhà cung cấp chính yếu các nhu cầu kinh tế và quốc phòng để Việt Nam tiếp tục chiến tranh với Mỹ. Mỹ và Trung Quốc đã có những thỏa thuận quan trọng từ năm 1972. Năm 1973 Mỹ rút quân khỏi Việt Nam. Tất cả những nỗ lực của Trung Quốc giúp cho Việt Nam, trong 20 năm (từ 1950 đến 1970) là 20 tỉ đô la, nhằm mục đích phòng thủ về phía nam. Sau khi đạt thỏa thuận với Mỹ, Trung Quốc hạn chế mọi viện trợ kinh tế và quốc phòng cho Việt Nam.
Nhưng sau đó Liên Xô ảnh hưởng lên Việt Nam, đồng thời với Afghanistan cũng như Mông cổ và Bắc Hàn. Rốt cục Trung Quốc bị bao vây chặt chẽ từ bốn hướng bởi một kẻ thù chiến lược khác, nguy hiểm hơn cả Mỹ, vì Liên Xô có tham vọng về lãnh thổ còn Hoa Kỳ thì không.
Cũng năm 1976, những nhân vật thân Trung Quốc, như Hoàng Văn Hoan, bị loại khỏi Bộ Chính trị và mất hết các chức vụ trong Đảng.
Phản ứng của Trung Quốc qua Ngoại trưởng Hoàng Hoa là lên án "chủ nghĩa xét lại Xô Viết" đồng thời công khai cảnh cáo trước Việt Nam về hậu quả của một cuộc xâm lấn Campuchia.
Tiếp tục theo đuổi sách lược (bài Hoa thân Liên Xô) của mình, Việt Nam làm đơn xin gia nhập khối COMECON, là khối tương trợ về kinh tế do Liên Xô đứng đầu.
Không thể tránh khỏi
Tại Hội nghị Đảng tháng 2/1978, Hà Nội quyết định phát động chiến dịch "đánh tư sản mại bản" ở miền Nam. Có đến 30.000 doanh nghiệp tư nhân ở miền Nam bị "quốc hữu hóa" mà đa số do người Hoa làm chủ. Chiến dịch thanh lọc mà Trung Quốc gọi là "nạn kiều" cũng được phát động cùng thời kỳ. Hàng trăm ngàn người Việt gốc Hoa, phần lớn đã sinh ra và lớn lên ở VN, không biết tiếng Hoa, cũng bị "trục xuất". Việc này tạo thành một cuộc "vượt biên" vĩ đại, bán chính thức, vì do chính công an Việt Nam đứng ra tổ chức. Hàng triệu người Việt Nam dùng vàng mua "vé" (trung bình 7 lượng vàng một đầu người) để lên những chiếc tàu đánh cá mong manh với hy vọng thoát thân. Trong khi hàng chục ngàn người Hoa sống ở miền Bắc thì theo đường bộ "vượt biên" trở về lục địa.
Đến thời điểm này nội bộ Đảng Trung Quốc đã lên kế hoạch "cho Việt Nam một bài học".
Tháng Sáu năm 1978, Trung Quốc cho đóng cửa hàng loạt tòa lãnh sự ở Việt Nam. Cùng lúc Việt Nam chính thức gia nhập khối COMECON. Tháng 11 hai bên Việt Nam và Liên Xô ký kết hiệp ước an ninh hỗ tương.
Một tháng sau, ngày 25/1/1978 Việt Nam xua quân tiến vào lãnh thổ Campuchia. Tức nước vỡ bờ, cuộc chiến 17/2/1979 là điều tất yếu phải đến.
Ta không hề thấy yếu tố Hoàng Sa "là nguyên nhân chính đưa đến cuộc chiến" trong bất kỳ lập luận nào của các học giả nước ngoài.
Bài phản ánh quan điểm và cách hành văn của người viết, tác giả cuốn "Biên giới Việt-Trung 1885-2000: Lịch sử thành hình và những tranh chấp" (2005).
https://www.bbc.com/vietnamese/forum-39115964
Cuộc chiến Việt-Trung năm 1979 qua các con số
Sau cuộc chiến đẫm máu năm 1979 cho đến nay hai nước Trung Quốc và Việt Nam vẫn chưa công bố toàn bộ các con số thương vong, theo giới quan sát quốc tế.
Tuy nhiên, nhiều tài liệu của các học giả Phương Tây đã đề cập đến độ tàn khốc của cuộc chiến ngắn ngày này, gồm cả số quân tham chiến, số thương vong trong binh sỹ và thường dân Việt Nam bị giết.Vì sao Đặng Tiểu Bình đánh VN năm 1979- - BBC Tiếng Việt
Đặng Tiểu Bình 'hiểu rõ lãnh đạo VN' - BBC Tiếng Việt
BBC Tiếng Việt giới thiệu các số liệu khác nhau:
SỐ QUÂN THAM CHIẾN
Peter Tsouras viết trên Military History Magazine:
Trung Quốc đã tập trung 200 nghìn quân thuộc 20 sư đoàn, cùng 400 xe tăng và 1.500 khẩu pháo. Lực lượng của Quân Giải phóng (PLA) lên tới 70 nghìn quân chỉ ở vùng giáp Lạng Sơn.
Sư đoàn Sao Vàng của Việt Nam bảo vệ Lạng Sơn bị Trung Quốc đẩy lui. Trong vòng vài ngày sau, quân Trung Quốc bao vây, xóa sổ sư đoàn này và biến Lạnh Sơn thành bình địa.
David Dreyer trong bài 'The 1979-Sino-Vietnamese-Conflict':
PLA chuẩn bị cho cuộc tấn công với 300-400 nghìn quân và khoảng 1.200 xe tăng cùng pháo binh, hỏa tiễn và các loại vũ khí hỗ trợ.
Ngày 17/02/1979, vào lúc 5 giờ sáng, chừng 100 nghìn quân Trung Quốc vượt biên giới vào Việt Nam sau các đợt pháo kích cấp tập.
Đối mặt với quân Trung Quốc ban đầu chỉ là 75-80 nghìn bộ đội địa phương và dân quân tự vệ Việt Nam.
Có kinh nghiệm của gần 30 năm chiến tranh, phía Việt Nam chống trả dữ dội và chia thành các đơn vị nhỏ, cấp tiểu đội, tiểu tổ để dùng cách đánh du kích chống lại quân xâm lăng.
Đồi núi được biến thành pháo đài với đường hầm, hố chông. Phía Trung Quốc không tiến nhanh như họ muốn và phải trì hoãn kế hoạch đánh chiếm Cao Bằng.
SỐ THƯƠNG VONG
Không bên nào công bố số thương vong chi tiết.
Peter Tsouras viết:
Trung Quốc chỉ thừa nhận có 7.000 quân tử vong và 15 nghìn bị thương nhưng các nguồn Phương Tây ước tính có 28 nghìn quân Trung Quốc bị giết và 43 nghìn bị thương.
Phía Việt Nam không nói số thương vong trong quân đội nhưng nói nhiều về số 100 nghìn thường dân bị thiệt mạng.
Bách khoa Toàn thư Anh, Britannica:
Quân Trung Quốc chiến đấu vô cùng tồi tệ chống lại dân quân tiền tuyến của Việt Nam.
Sau ba tuần giao tranh với con số thương vong 45 nghìn (Việt Nam nói là gây ra cho phía Trung Quốc) Quân Giải phóng đã phải rút về.
Sam Brothers trong bài 'The Enemy of My Enemy: The Sino-Vietnamese War of 1979 and the Evolution of the Sino-American Covert Relationship' viết:
Phía Trung Quốc, theo một ước tính, có từ 20 nghìn đến 62.500 thương vong trong khi phía Việt Nam, dù số liệu còn mù mờ, là khoảng từ 35 nghìn đến 50 nghìn.
Nhưng cuộc xung đột chỉ xảy ra trong 27 ngày, với đúng 17 ngày giao tranh, mà đã tạo ra con số thương vong như vậy cho thấy sự man rợ (savage) của nó.
LIÊN XÔ ĐÃ LÀM GÌ?
Sam Brothers:
Liên Xô có các chuyến bay TU-95D từ Vladivostok về phía Nam để theo dõi tình hình.
Một tàu tuần dương lớp Sverdlov và một tàu khu trục lớp Krivak cũng được cử đến tham gia đơn vị hải quân gồm 17 tàu đã có mặt tại bờ biển Việt Nam.
Moscow cũng cử sáu chiếc phi cơ vận tải Antonov-22 đến Hà Nội ngày 23/02, và có hai chuyến bay Liên Xô và Bulgraia từ Calcutta tới Hà Nội ngày 26/02/1979.
Tuy thế, Liên Xô không tham gia trực tiếp vào cuộc chiến dù đã ký hiệp ước phòng thủ với Hà Nội.
CĂNG THẲNG HẬU CHIẾN
Trang GlobalSecurity.org:
Cho đến cuối thập niên 1980, phía Việt Nam biến vùng biên giới thành các 'pháo đài thép' và dùng các đơn vị dân quân được huấn luyện tốt để phòng thủ trước Trung Quốc.
Ước tính 600 nghìn người được điều động vào các chiến dịch sẵn sàng chiến đấu để ngăn ngừa Trung Quốc tiến sang lần nữa...gây phí tổn tiền bạc lớn cho Việt Nam.
Giới quan sát nước ngoài cũng đánh giá rằng "các cuộc va chạm ở biên giới tiếp tục xảy ra trong suốt thập niên 1980, nổi bật là trận tháng 4/1984, khi quân Trung Quốc lần đầu tiên dùng vũ khí mới, súng Type 81 (AK-47 của Trung Quốc).
Hai nước phải đến 2007 mới hoàn tất việc ký kết xong hiệp định biên giới trên bộ, theo các bản tin quốc tế.
Dù cuộc chiến 'phản kích tự vệ' của Đặng Tiểu Bình nhắm vào Việt Nam là thất bại quân sự, Sam Brothers trong bài viết cũng trích lời ông Lý Quang Diệu, Thủ tướng Singapore bày tỏ cái nhìn khác:
"Báo chí Trung Quốc coi hành động trừng phạt Việt Nam của người Trung Quốc là một thất bại nhưng tôi lại tin rằng nó đã thay đổi lịch sử vùng Đông Á."
Vì sao TQ muốn quên cuộc chiến 1979- - BBC Tiếng Việt
https://www.bbc.com/vietnamese/39029505
Vì sao TQ muốn quên cuộc chiến 1979?
Nhân dịp 35 năm chiến tranh biên giới Việt-Trung, BBC đã có cuộc phỏng vấn giáo sư Carl Thayer, chuyên gia về Việt Nam từ Học viên Quốc phòng Úc, để tìm hiểu nguyên nhân vì sao Bắc Kinh lại muốn lãng quên cuộc chiến nước này gọi là 'chiến tranh tự vệ' mà Trung Quốc đã 'chiến thắng'.
BBC: Trung Quốc đã tuyên bố cuộc chiến năm 1979 là nhằm mục đích "dạy cho Việt Nam một bài học", và một số nguồn nói quyết định giới hạn cuộc chiến trong vòng hai tuần đã được đưa ra nhiều tháng trước khi nó chính thức bùng nổ. Xét những yếu tố trên, ông đánh giá thế nào về mức độ thành công của Trung Quốc trong cuộc chiến với Việt Nam?
Giáo sư Carl Thayer: Căng thẳng dọc biên giới Việt-Trung đã bắt đầu leo thang từ năm 1976 và dẫn đến kết cục là việc Trung Quốc chuẩn bị cho chiến tranh với Việt Nam.
Bắc Kinh đã lên kế hoạch đánh Việt Nam từ năm 1978 nhưng sau đó đến tận giữa tháng Hai năm 1979, quyết định cuối cùng mới được đưa ra.
Đặng Tiểu Bình đã có cuộc họp với các quan chức cấp cao vào ngày 16/2, một ngày trước khi nổ ra chiến tranh biên giới. Ông tuyên bố cuộc chiến sẽ được giới hạn về cả phạm vi lẫn thời gian, và lực lượng tham chiến chỉ bao gồm các lực lượng trên bộ.
Đặng Tiểu Bình và các tướng lĩnh của ông ta nghĩ rằng họ có thể đạt được các mục tiêu đã đề ra chỉ trong vài ngày. Điều này đã không xảy ra.
Trung Quốc đã sử dụng việc chiếm được Lạng Sơn ba tuần sau khi tiến quân qua biên giới để tuyên bố chiến thắng và đơn phương rút quân.
Những mục tiêu mà Trung Quốc đề ra, trong đó có việc buộc Việt Nam phải rút quân khỏi Campuchia nhằm giảm sức ép cho đồng minh Khmer Đỏ của họ, đã không thể đạt được. Việt Nam đã tiếp tục tấn công Khmer Đỏ và không rút quân khỏi Campuchia để tiếp viện cho biên giới phía Bắc.
Trung Quốc cũng muốn tiêu diệt các lực lượng chính của Việt Nam ở cấp sư đoàn đang đóng gần khu vực biên giới. Tuy nhiên Việt Nam đã giữ các lực lượng chính lại phía sau và Trung Quốc đã không thể loại các đơn vị này ra khỏi vòng chiến. Việt Nam chủ yếu chỉ sử dụng dân quân và bộ đội địa phương trong suốt cuộc chiến với Trung Quốc.
Một trong các mục tiêu khác của Trung Quốc là chiếm các tỉnh lớn như Lào Cai, Cao Bằng và Lạng Sơn, và phá hủy hệ thống phòng thủ cũng như cơ sở hạ tầng ở khu vực biên giới phía Bắc của Việt Nam. Trung Quốc đã đạt được mục tiêu này, nhưng không phải chỉ sau vài ngày, mà là sau nhiều tuần giao tranh ác liệt và phải chịu thiệt hại nặng nề.
Không ngờ được thất bại
BBC: Một số ý kiến cho rằng Đặng Tiểu Bình phát động chiến tranh với Việt Nam vì ông ta muốn giữ cho quân đội bận bịu để rảnh tay giải quyết mâu thuẫn nội bộ. Ông có đồng ý với điều này?
Giáo sư Carl Thayer: Trước Hội nghị Trung ương 3 khóa 11 vào tháng 11-12 năm 1978, Đặng Tiểu Bình đã được phục chức và có được sự ủng hộ mạnh mẽ từ đa số trong giới lãnh đạo Trung Quốc thời bấy giờ.
Đặng là người có quan điểm cứng rắn chống lại Việt Nam kể từ khi hai nước bắt đầu có xung đột về vấn đề Hoa kiều. Việc Việt Nam đưa quân vượt biên giới Tây Nam để tiến vào Campuchia tháng 12 năm 1978 có lẽ là một giọt nước tràn ly.
Khi Đặng Tiểu Bình đã có thể ra lệnh Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) "dạy cho Việt Nam một bài học", điều đó cho thấy ông ta là một lãnh đạo không có đối thủ.
Bên cạnh đó, Đặng Tiểu Bình cũng cho rằng Trung Quốc có thể thu về những kinh nghiệm chiến trường cần thiết từ cuộc chiến với Việt Nam.
BBC: Nhiều sử gia cho rằng cuộc chiến là cách Đặng Tiểu Bình thử khả năng chiến đấu của quân PLA và nó phục vụ kế hoạch hiện đại hóa quân đội của ông ta, bởi nó làm bộc lộ nhiều điểm yếu của quân đội PLA thời bấy giờ. Ông nghĩ gì về điều này?
Giáo sư Carl Thayer: Trung Quốc đã thực hiện 'Bốn hiện đại hóa' một năm trước khi phát động chiến tranh với Việt Nam, trong đó hiện đại hóa quân sự được ưu tiên cuối cùng.
Việc thử khả năng chiến đấu của quân PLA không phải là điều Đặng Tiểu Bình muốn ưu tiên hàng đầu, mà thay vào đó, ông ta muốn có một chiến thắng vang dội trước Việt Nam, và cùng một lúc, thu về những kinh nghiệm quý giá trên chiến trường.
Đặng Tiểu Bình và các tướng lĩnh của ông ta không ngờ rằng quân PLA đã không đủ khả năng thực hiện 'chiến tranh nhân dân trong những điều kiện hiện đại'.
Vì sao muốn lãng quên?
BBC: Theo ông thì vì sao Trung Quốc lại muốn lãng quên một cuộc chiến mà họ gọi là 'chiến tranh tự vệ', nhất là khi họ đã tuyên bố chiến thắng trong cuộc chiến đó?
Giáo sư Carl Thayer: Ít có quốc gia nào muốn nhớ đến thất bại của mình trong chiến tranh. Trung Quốc cũng không phải trường hợp ngoại lệ.
Cái khó của Trung Quốc là làm sao có thể tưởng niệm chiến tranh biên giới mà không làm dấy lên nghi vấn về tuyên bố chiến thắng của Đặng Tiểu Bình.
Một mặt khác, nếu nhìn lại cuộc chiến biên giới năm 1979 thì có thể thấy là chính Trung Quốc, không phải Việt Nam, là nước đi xâm lược.
BBC: Cuộc chiến đã thay đổi những chính sách ngoại giao và quân sự của Trung Quốc như thế nào, thưa ông?
Giáo sư Carl Thayer: Cuộc chiến biên giới là hồi chuông cảnh tỉnh đối với Bắc Kinh, buộc họ phải hiện đại hóa và chuyên nghiệp hóa quân PLA.
Trong cuộc chiến năm 1979, Trung Quốc đã sử dụng những đợt tiến công với quân số đông đảo như thời Chiến tranh Triều Tiên.
'Chiến tranh nhân dân trong những điều kiện hiện đại' là chiến lược dùng để bảo vệ Trung Quốc trước một kẻ thù hiện đại hơn. Đó là một 'chiến tranh nhân dân' được sửa đổi để sử dụng cho việc xâm lược một nước khác.
Trong 'chiến tranh nhân dân trong những điều kiện hiện đại' vào năm 1979, quân PLA đã không sử dụng những loại vũ khí đặc biệt hiện đại.
Yếu tố duy nhất của 'chiến tranh nhân dân' trong cuộc chiến năm 1979 đó là việc huy động dân quân cho công tác hậu cần vào bảo vệ hậu phương. Tuy nhiên ngay cả khi đó, các đơn vị của Việt Nam cũng vẫn có thể tiến qua biên giới của Trung Quốc nhằm "phản công để tự vệ", dù họ không gây ra thiệt hại nặng nề.
Quan hệ Việt-Trung đã đóng băng hơn 10 năm và trong thời gian này, Trung Quốc vẫn tiếp tục viện trợ quân sự cho Khmer Đỏ.
Chính sách ngoại giao của Trung Quốc chỉ bắt đầu thay đổi sau sự sụp đổ của Liên Xô dưới thời Gorbachev. Chính sách của Trung Quốc đối với Việt Nam cũng chỉ thay đổi đáng kể sau Hiệp định Hòa bình Paris năm 1991 và sau khi Việt Nam rút quân khỏi Campuchia năm 1989.
https://www.bbc.com/vietnamese/vietnam/2014/02/140220_carlthayer_1979
Ảnh: Nhìn lại cuộc chiến biên giới Việt-Trung 17/2/1979
Một số bức ảnh tư liệu về cuộc chiến tranh biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc và một số hình ảnh mới đây tại Hà Nội tưởng niệm sự kiện này.
Geen opmerkingen:
Een reactie posten