woensdag 20 februari 2019

Tham vọng địa chính trị của Việt Nam ở Biển Đông? + 2019 : Hải quân phương Tây dồn về Biển Đông, Việt Nam được lợi gì?

Không gian nào cho tham vọng địa chính trị của Việt Nam ở Biển Đông?

Không gian nào cho tham vọng địa chính trị của Việt Nam ở Biển Đông?
 
Nhà nghiên cứu Laurent Gédéo, giảng viên Viện Đông Á Lyon (Institut d'Asie orientale), thuyết trình tại trường Sư phạm ở Paris, ngày 18/01/2019.RFI / Tiếng Việt

    Ngày 19/01/2019 đánh dấu tròn 45 năm cuộc hải chiến đẫm máu Hoàng Sa 1974 và Trung Quốc chiếm giữ quần đảo cho đến nay. Ngày 02/05/2014, Trung Quốc ngang nhiên đưa trái phép dàn khoan Hải Dương 981 vào vùng biển Việt Nam. Ngày 25/06/2014, báo chí Trung Quốc công bố bản đồ 9 đoạn (hoặc “đường lưỡi bò”) đòi hỏi vô lý chủ quyền trên hầu hết diện tích Biển Đông.

    Những sự kiện này đã dẫn đến một cuộc khủng hoảng ngoại giao nghiêm trọng giữa hai nước, kéo theo nhiều cuộc biểu tình chống Trung Quốc của người dân Việt Nam.
    Trong buổi thuyết trình tại trường Sư phạm ở Paris (Ecole normale supérieure) ngày 18/01/2019, một ngày trước kỉ niệm 45 trận hải chiến Hoàng Sa, nhà nghiên cứu Pháp Laurent Gédéon, giảng viên Viện Đông Á ở Lyon (Institut d’Asie orientale, IAO) đã điểm lại những sự kiện lịch sử liên quan đến Biển Đông, cũng như những thách thức mà Việt Nam đang phải đối mặt, trong bài thuyết trình : Biển Đông : Không gian nào cho tham vọng địa lý-hàng hải của Việt Nam? (Mer de Chine méridionale, quel espace pour les ambitions géomaritimes du Vietnam?)
    Ông Laurent Gédéon trả lời phỏng vấn RFI tiếng Việt sau buổi thuyết trình.
    ***
    RFI : Xin ông cho biết Việt Nam thực sự chú ý đến vấn đề Biển Đông từ khi nào ?
    Laurent Gédéon : Người Việt chú ý đến vấn đề Biển Đông từ khi Việt Nam giành được độc lập năm 1954. Cả miền Bắc lẫn miền Nam đều quan tâm đến chủ đề này. Nhưng vào thời kỳ đó, chủ quyền Biển Đông chưa phải là vấn đề trọng tâm địa-chính trị ở cả miền Bắc lẫn miền Nam.
    Sau đó xảy ra cuộc hải chiến ở Hoàng Sa mà Trung Quốc chiếm quyền kiểm soát quần đảo từ Việt Nam vào năm 1974 và phía miền Nam Việt Nam có phản ứng bằng cách kiểm soát một phần các đảo ở Trường Sa. Nhưng có thể nói là sau đó, cuộc xung đột đã ổn định vì những bận tâm địa chính trị của Việt Nam chủ yếu hướng về Đông Dương, Cam Bốt, Lào và mối đe dọa trên mặt đất có thể đến từ phía Trung Quốc.
    Cuối cùng, người ta nhận thấy là Việt Nam ngày càng chú tâm đến vấn đề an ninh hàng hải, chủ yếu kể từ cuối những năm 2000, trước những xác quyết chủ quyền ngày càng lớn của Trung Quốc đối với gần như toàn bộ các đảo ở Biển Đông. Vào những năm 2010, Trung Quốc gây sức ép ngày càng mạnh hơn, rõ ràng hơn với những nước ở Biển Đông, trong đó có Việt Nam và Philippines.
    Ý thức được tham vọng địa-chính trị của Bắc Kinh, Hà Nội phải điều chỉnh theo. Điều này cũng khiến Việt Nam ngày càng chú tâm hơn đến năng lực hàng hải, hải quân, cũng như về mặt tên lửa mà Việt Nam sở hữu để giữ vững những khu vực mà Hà Nội kiểm soát ở Biển Đông, đồng thời nhằm ngăn chặn các cuộc tấn công vào lãnh thổ hoặc hải đảo.
    RFI : Trung Quốc diễn giải đòi hỏi chủ quyền lãnh hải ở Biển Đông như thế nào ?
    Laurent Gédéon : Về quan điểm của Trung Quốc, họ coi khu vực Biển Đông là một vùng lãnh hải của mình. Họ đòi hỏi chủ quyền trên cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thông qua những tài liệu có hiệu lực như luật, trong đó luật tháng 02/1992 xác định chủ quyền của Trung Quốc đối với các quần đảo ở Biển Đông, cũng như nhiều quần đảo khác trong khu vực.
    Yêu sách về không gian biển của Trung Quốc, một cách không chính thức, được lộ rõ qua “đường lưỡi bò” (đường 9 đoạn) phân định vùng lãnh hải mà nước này đòi hỏi.
    Tôi cho rằng sự thể hiện địa chính trị này mang tính chất phô trương sức mạnh và sự hiện diện vì các bản đồ do Trung Quốc xuất bản đều gộp cả vùng lãnh hải kéo dài xuống tận Biển Đông.
    RFI : Trước những đòi hỏi vô lý và sự bành trướng của Trung Quốc, Việt Nam đưa ra những lập luận nào để bảo vệ chủ quyền và lợi ích ?
    Laurent Gédéon : Trước tiên, người Việt dựa vào các lập luận lịch sử. Họ nhấn mạnh đến ngư trường truyền thống của ngư dân Việt Nam từ thời xa xưa. Phía Việt Nam cũng dựa vào việc phát hiện lại những quần đảo này với một bia đá chủ quyền đã được dựng từ thời Gia Long, và việc Pháp đã chính thức sở hữu quần đảo Hoàng Sa trong những năm 1930 nhân danh triều đình nhà Nguyễn.
    Nền tảng trong lập luận của Hà Nội để hợp pháp hóa đòi hỏi của Việt Nam dựa trên những kiến thức từ lâu về những quần đảo này, về cách sử dụng nguồn nước và nguồn hải sản, cũng như việc Pháp, nước đô hộ Việt Nam, đã sở hữu những quần đảo này.
    RFI : Trung Quốc có căn cứ hải quân ở đảo Hải Nam, quân sự hóa một số đảo mà nước này kiểm soát ở Trường Sa và có tin đồn về việc Bắc Kinh lập dự án xây căn cứ ở Cam Bốt. Liệu Việt Nam có bị vây hãm hay không ?
    Laurent Gédéon : Việt Nam chú ý theo dõi hành động của Trung Quốc. Căn cứ hải quân của Trung Quốc trên đảo Hải Nam là một mối bận tâm của Việt Nam. Nhưng thực ra, mục đích chính của căn cứ trên đảo Hải Nam là để chứa tầu ngầm của Trung Quốc. Với Trung Quốc, căn cứ ở Hải Nam có ý nghĩa rất quan trọng và vượt quá quy mô đối đầu Việt-Trung.
    Về tin đồn Trung Quốc có ý định xây căn cứ ở Cam Bốt, dự án này cũng không hẳn là nhắm vào Việt Nam. Đúng là Việt Nam nằm trong tầm đe dọa chung của Trung Quốc nếu căn cứ vào những cơ sở vây quanh Việt Nam nhưng chiến lược của Trung Quốc chủ yếu nhằm ngăn chặn sự hiện diện của Mỹ ở trong khu vực. Mỹ có một căn cứ quân sự ở Singapore từ nhiều năm nay và như vậy kiểm soát được tàu bè qua lại ở eo biển Malacca hướng về Biển Đông. Đây là điểm qua lại của tuyến đường hàng hải huyết mạch nối nền kinh tế Trung Quốc với phần còn lại của thế giới.
    Tôi cho rằng dự án của Trung Quốc xây căn cứ ở Cam Bốt, nhờ vào mối quan hệ tốt đẹp giữa hai nước, thực ra là để Bắc Kinh làm đối trọng với sức ép và sự hiện diện của Mỹ trong khu vực, chứ không hẳn là nhằm đe dọa Việt Nam. Dĩ nhiên, chúng ta không thể loại trừ khả năng Hà Nội coi dự án này là một mối đe dọa mới.
    Về phần những cơ sở mà Trung Quốc xây dựng trên các đảo đá do họ kiểm soát ở quần đảo Trường Sa, ở điểm này, tôi cho rằng cần phải đánh giá những gì mà mỗi bên tiến hành. Các bên liên quan cần làm chủ các đảo mà họ kiểm soát ở Trường Sa. Và một số bên muốn biến khu vực đó thành điểm thể hiện sức mạnh của họ, do đó họ bồi đắp và xây dựng, trong đó có cả đường băng phục vụ mục đích quân sự.
    Vấn đề đặt ra là sự thể hiện sức mạnh này đi theo hướng nào ? Và những đối tượng nào bị nhắm đến ? Hoàn toàn có thể là Việt Nam trong bối cảnh tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc. Nhưng cũng có thể theo hướng ngược lại vì Việt Nam cũng quân sự hóa một số đảo. Nhưng về quan điểm của Bắc Kinh, điều quan trọng là chúng ta cần theo dõi tầm nhìn chung của Trung Quốc về môi trường trong vùng. Việc Trung Quốc quân sự hóa các đảo do nước này kiểm soát cũng là một cách để tiến gần về phía Singapore, nơi Mỹ có căn cứ quân sự.
    Người ta cũng thường nói rằng những đảo đá ở Biển Đông với những đường băng còn được coi là các hàng không mẫu hạm di động. Đó là nơi cho phép thể hiện sức mạnh ra xa vài trăm cây số, thậm chí còn xa hơn.
    RFI : Vậy Việt Nam đang phải đối mặt với những thách thức quân sự và địa-chiến lược nào ?
    Laurent Gédéon : Tôi cho rằng trước hết, Việt Nam có lợi ích trước mắt là duy trì nguyên trạng, có nghĩa là không để mất những lợi ích mà nước này có ở trong khu vực, có nghĩa là những đảo và đá mà Việt Nam đang kiểm soát ở Trường Sa.
    Ngân sách quốc phòng của Việt Nam cho thấy rằng Hà Nội đã tăng khả năng răn đe và phòng thủ của mình, trong trường hợp bị nhắm tấn công. Việt Nam triển khai năng lực đó để bảo vệ và giữ khoảng cách. Nhưng hiện giờ khó mà nghĩ rằng tự bản thân Việt Nam có thể đẩy lùi được ảnh hưởng của Trung Quốc và lấy lại kiểm soát một số khu vực ở Trường Sa mà họ không có và lấy lại Hoàng Sa mà họ đã bị mất.
    Vì thế, tôi nghĩa rằng mục tiêu hiện nay của Việt Nam là giữ thế cân bằng hiện tại. Nhưng theo những gì Việt Nam thể hiện hoặc theo tham vọng địa chính trị và khẳng định thường xuyên từ phía Việt Nam, dự án chính trị trong dài hạn là lấy lại chủ quyền đối với toàn bộ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
    Theo tôi, căn cứ vào tranh chấp thuần túy Việt-Trung hiện tại, đây là điều không tưởng. Việt Nam khó lòng chinh phục được những khu vực họ không có. Ngược lại, họ có phương tiện cần thiết để bảo vệ những khu vực nằm dưới quyền kiểm soát của mình.
    Giả sử Trung Quốc đối đầu mạnh mẽ với Hoa Kỳ và các đồng minh của Mỹ, rồi do nhiều lý do khác nhau, dẫn tới đối đầu trên biển. Nếu cuộc đối đầu này dẫn đến kết quả là sự hiện diện và ảnh hưởng của Trung Quốc bị thu hẹp ở Biển Đông, thì Việt Nam có thể được hưởng hệ quả tích cực và cho phép Việt Nam lấy lại quyền kiểm soát một phần lãnh thổ đã bị mất.
    Ban tiếng Việt đài RFI xin chân thành cảm ơn nhà nghiên cứu, giảng viên đại học Laurent Gédéon.
    http://vi.rfi.fr/viet-nam/20190304-khong-gian-nao-cho-tham-vong-dia-chinh-tri-cua-viet-nam-o-bien-dong

    2019 : Hải quân phương Tây dồn về Biển Đông, Việt Nam được lợi gì?

    2019 : Hải quân phương Tây dồn về Biển Đông, Việt Nam được lợi gì?
     
    Hàng không mẫu hạm Mỹ USS Carl Vinson đến Đà Nẵng, ngày 05/03/2018.REUTERS/Kham

      Phương Tây sẽ chú trọng hơn đến việc bảo vệ tự do hàng hải ở Biển Đông, thách thức yêu sách phi lý của Trung Quốc ? Năm 2018, Hải Quân Mỹ thường xuyên tuần tra vì tự do hàng hải và hàng không ở Biển Đông và công khai yêu cầu Bắc Kinh phải rút hết hệ thống tên lửa khỏi các đảo nhân tạo mà Trung Quốc bồi đắp ở quần đảo Trường Sa.

      Không chỉ Hoa Kỳ, rất nhiều nước có lợi ích trong khu vực cũng tham gia vào việc bảo vệ tự do hàng hải, thách thức đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc trên hầu hết Biển Đông. Lần đầu tiên kể từ sau Thế Chiến II, Nhật Bản điều tàu ngầm xuống Biển Đông vào giữa tháng 09/2018. Tokyo ký với các nước ASEAN chiến lược Vientiane Vision nhằm tăng cường quan hệ quân sự.
      Pháp, Anh cũng điều tầu bảo vệ tự do hàng hải tại Biển Đông, ghé thăm Việt Nam. Nhiệm vụ đầu tiên trong năm 2019 của tầu sân bay Pháp Charles de Gaulle, sau hơn 18 tháng nâng cấp, sẽ là vùng Ấn Độ Dương. Ngoài việc tiếp tục bảo vệ quyền tự do hàng hải ở Biển Đông, Anh Quốc có thể mở căn cứ quân sự ở Đông Nam Á.
      Vậy Trung Quốc phản ứng như thế nào trước những chiến dịch bảo vệ tự do hàng hải ở Biển Đông của các nước phương Tây ? Việt Nam được lợi gì từ những chiến dịch đó ? RFI tiếng Việt đặt câu hỏi với ông Mathieu Duchâtel, giám đốc Chương trình châu Á, Viện Montaigne (Institut Montaigne, Paris).
      ***
      RFI : Mtiếp tục tuần tra bảo vệ tự do hàng hải ở Biển Đông với chiều hướng gia tăng trong thời gian gần đây. Pháp và Anh cũng lần lượt thông báo sẽ điều tầu sân bay và chiến hạm đến vùng Ấn Độ Dương trong năm 2019. Phải chăng đây là chiến lược được ba nước Anh, Pháp, Mỹ cùng phối hợp để ngăn đà bành trướng của Trung Quốc ?
      Mathieu Duchâtel : Trước tiên, cần biết là Hoa Kỳ, châu Âu và Pháp vẫn hiện diện thường xuyên ở Biển Đông để bảo vệ quyền tự do hàng hải. Nhưng ngoài ra cũng có nhiều nước khác đã điều tầu chiến đến khu vực này trong năm nay (2018), đó là trường hợp của Úc, Nhật Bản và Canada. Dĩ nhiên, chúng ta có thể nghĩ rằng có sự phối hợp nào đó giữa các quốc gia trên. Nhưng điều chắc chắn là các nước này có chung quan điểm về tự do hàng hải, luật pháp quốc tế và Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển.
      Cũng cần chú ý đến sự khác biệt giữa Hoa Kỳ và các nước phương Tây khác, kể cả Nhật Bản, về cách thực hiện kế hoạch hiện diện ở Biển Đông. Những gì mà phía Mỹ làm, đó là tiến hành tuần tra vì tự do hàng hải ở Biển Đông, trong khi những nước khác chỉ hiện diện trong vùng biển này.
      Ngoài ra, còn có sự khác biệt cơ bản, đó là Mỹ thách thức Trung Quốc trong vùng 12 hải lý quanh một số thực thể do Trung Quốc kiểm soát, đặc biệt là các đảo nhân tạo ở Trường Sa được bồi đắp và xây dựng dưới thời ông Tập Cận Bình. Trong khi đó, các nước khác không đi vào khu vực 12 hải lý này, mà chỉ hoạt động trong vùng biển quốc tế, dù không có định nghĩa pháp lý nào về khu vực 12 hải lý, vì những đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc không phù hợp với luật biển.
      Vì vậy, có chút khác biệt giữa cách tiếp cận của Mỹ, mang vẻ khiêu khích hơn, với cách tiếp cận của các nước khác là hiện diện để nhắn với Trung Quốc, cũng như các nước khác trong khu vực rằng họ có mặt ở đây để bảo vệ luật biển và tự do hàng hải.
      RFI : Ông đánh giá thế nào về việcPháp cũng xuất hiện thường xuyên hơn ở Biển Đông và vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương trong vài năm gần đây ?
      Mathieu Duchâtel : Trong ba năm gần đây, Pháp đã cử tầu đến khu vực Biển Đông. Năm 2018, Paris quyết định điều tầu sân bay Charles de Gaulle thi hành nhiệm vụ ở Ấn Độ Dương, cho đến Singapore, có thể sẽ không đi qua Biển Đông. Tuy nhiên, điều chắc chắn là đã có một chiến hạm Pháp, như mọi năm, đã đi qua vùng Biển Đông. Như vậy, từ nhiều năm nay, Pháp đã có ý chí khá rõ ràng và nhất quán trong việc bảo vệ cách tiếp cận của mình về luật biển.
      Pháp cũng muốn « Âu hóa » sự hiện diện tại vùng biển này. Người ta có thể thấy điều này qua việc một số nhà quan sát châu Âu (Đan Mạch, Đức) có mặt trên tầu của Pháp và có thể sẽ có nhiều người khác trong tương lai.
      Thêm một điểm cuối liên quan đến sự hiện diện của các nước châu Âu ở Biển Đông, với tôi, một thất vọng lớn ! Liệu Đức, một ngày nào đó, có hiện diện, hoặc đồng hành với các nước châu Âu, hoặc sát cánh với Mỹ để tăng cường thông điệp của phương Tây về Biển Đông hay không ?
      Đức hiện đang suy nghĩ về vấn đề này, nhưng chưa có quyết định nào được đưa ra, dù đã có một cuộc thảo luận. Dĩ nhiên, nếu chính phủ Đức làm giống như Pháp và Anh, việc này sẽ củng cố thêm thông điệp của châu Âu không chỉ về quan điểm chủ quyền, mà cả thông điệp về quyền tự do hàng hải
      RFI : Trung Quốc đối phó và phản ứng thế nào với sự hiện diện hải quân của nhiều cường quốc ở Biển Đông ?
      Mathieu Duchâtel : Hiện nay, Trung Quốc đáp trả một cách rất đa dạng. Cách đáp trả hung hăng của Trung Quốc chỉ dành riêng cho Mỹ. Bắc Kinh lên án Mỹ qua đường ngoại giao. Hải Quân Trung Quốc từng nhắm vào một tầu chiến của Mỹ và suýt gây ra sự cố để gây sức ép với Hoa Kỳ. Bắc Kinh cũng tấn công Mỹ trên báo chí, ví dụ để báo chí nói là Hải Quân Trung Quốc đâm vào một tầu Mỹ để buộc con tầu đó rời khỏi khu vực.
      Nước thứ hai bị nhắm đến, nhưng nhẹ hơn nhiều, đó là Anh Quốc. Luân Đôn cũng bị Bắc Kinh chỉ trích vì hiện diện ở Biển Đông, nhưng với những từ ngữ không gay gắt bằng những lời chỉ trích nhắm vào Mỹ.
      Đối với những nước khác (Pháp, Úc, Nhật Bản và Canada), chính quyền Bắc Kinh ít nhiều chưa nhắc đến sự hiện diện của những nước này ở Biển Đông. Lý do là tránh để tất cả các nước này thành lập một mặt trận chung với Anh và Mỹ và cũng để tránh khả năng nhiều nước khác thay đổi lập trường và chuyển sang ủng hộ Hoa Kỳ.
      Ngoài ra, còn phải chú ý đến một số yếu tố khác ngoài vấn đề Biển Đông, như cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung. Trung Quốc tìm cách để Nhật Bản, Pháp, Úc không đứng về phía Mỹ trên hồ sơ thương mại. Đây cũng chính là lý do mà Bắc Kinh tỏ ra rất chừng mực trong phát biểu về các quốc gia này liên quan đến Biển Đông.
      RFI : Liệu Trung Quốc có tiếp tục xây dựng và bồi đắp, quân sự hóa các đảo nhân tạo trong vùng Biển Đông để đối phó ?
      Mathieu Duchâtel : Dĩ nhiên là Trung Quốc lý giải rằng cơ sở hạ tầng quân sự của họ trên các đảo nhân tạo là để đối phó với sự hiện diện thường xuyên trong khu vực của Hải Quân Mỹ và để bảo vệ các cơ sở hàng hải của Trung Quốc trước  những hoạt động theo dõi của Mỹ.
      Điều chắc chắn là Trung Quốc sẽ tiếp tục củng cố bẩy đảo nhân tạo mà nước này chiếm đóng ở quần đảo Trường Sa bằng cách lập thêm thiết bị phòng thủ, khả năng theo dõi khu vực, khả năng chống tầu thủy và phòng không. Điều mà Bắc Kinh chưa rõ : Liệu Trung Quốc có thật sự lựa chọn leo thang căng thẳng trong khu vực không ? Liệu Trung Quốc có thể quân sự hóa một số thực thể khác trong quần đảo Trường Sa không ? Trung Quốc hiện vẫn giữ lá bài này và tiếp tục quân sự hóa bẩy hòn đảo nhân tạo mà họ đã bồi đắp.
      RFI : Việt Nam được lợi gì và bị bất lợi gì từ những chiến lược bảo vệ tự do hàng hải của các nước trên ?
      Mathieu Duchâtel : Tôi nghĩ rằng một sự hiện diện thường xuyên của hải quân phương Tây trong khu vực có chủ đích ngăn Trung Quốc đi xa hơn trong hoạt động kiểm soát Biển Đông. Điều này có lợi cho quốc phòng của Việt Nam, vì Trung Quốc buộc phải tập trung nhiều hơn vào sự hiện của hải quân các nước nằm ngoài khu vực. Và điều này giảm bớt không gian mà Trung Quốc có thể chiếm để mở rộng sự hiện diện và kiểm soát các thực thể mà họ chưa chiếm được.
      Tôi nghĩ rằng kịch bản tồi tệ nhất đối với tất cả các nước trong khu vực, không chỉ mỗi Việt Nam, Malaysia hay Philippines, mà kể cả các nước ngoài khu vực, đó là Trung Quốc quyết định, như trường hợp từng xảy ra năm 2014, khi Bắc Kinh đột ngột xây dựng một loạt đảo nhân tạo và điều này đã hoàn toàn thay đổi nguyên trạng. Năm 1995, Bắc Kinh quyết định chiếm Đá Vành Khăn (Mischief Reef), lúc đó do Philippines kiểm soát, tương tự như Đá Gạc Ma (South Johnson Reef) mà Trung Quốc chiếm từ Việt Nam trong một trận hải chiến đẫm máu năm 1988. Đến năm 2014, Trung Quốc tiến xa hơn trong các yêu sách kiểm soát khu vực.
      Hiện nay, sự hiện diện trong khu vực của hải đội nhiều nước làm giảm phần nào khả năng Trung Quốc đi xa hơn. Vì vậy, theo tôi, có sự hội tụ giữa lợi ích quốc phòng của Việt Nam, cũng như của các nước khác trong khối ASEAN có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc.
      Dĩ nhiên, sự hiện diện thường xuyên của hải quân phương Tây ở Biển Đông không giúp được Việt Nam đòi lại chủ quyền, đặc biệt là đối với quần đảo Hoàng Sa. Điều này có nghĩa là Việt Nam không thể tận dụng cơ hội để lấy lại Hoàng Sa. Đúng là có sự quy tụ lợi ích, nhưng phần nào bị hạn chế.
      Tôi cũng nghĩ rằng, đối với một nước như Việt Nam, đang bảo vệ lợi ích trước xung đột chủ quyền với Trung Quốc, sự hiện diện thường xuyên của hải quân phương Tây ở Biển Đông tạo ra cơ hội quan trọng hơn mà Việt Nam có thể tận dụng trong chiến lược hiện đại hóa quân đội của nước này. Chúng ta có thể thấy việc Hoa Kỳ dỡ bỏ cấm vận cho phép Hà Nội đa dạng hóa nguồn cung cấp vũ khí, có nhiều cuộc trao đổi ngoại giao và quân sự hơn, mở rộng tiềm năng hợp tác với nhiều nước khác…
      Tôi cho rằng việc này sẽ thay đổi một chút viễn cảnh, không chỉ cho Việt Nam mà còn cho cả các nước ASEAN có tranh chấp với Trung Quốc, trong khi tình hình trở nên căng thẳng hơn do hoạt động bồi đắp các đảo nhân tạo của Bắc Kinh.
      Ban tiếng Việt đài RFI xin chân thành cảm ơn ông Mathieu Duchâtel, giám đốc Chương trình châu Á, Viện Montaigne, Paris.
      http://vi.rfi.fr/chau-a/20190107-2019-hai-quan-phuong-tay-don-ve-bien-dong-viet-nam-duoc-loi-gi

      Cùng chủ đề
      • HOA KỲ - BIỂN ĐÔNG

        Đô đốc Richarson : Hải quân Mỹ sẽ tiếp tục tuần tra ở Biển Đông
      • TRUNG QUỐC - BIỂN ĐÔNG

        Biển Đông : Đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc ngày càng bị thách thức
      • BIỂN ĐÔNG - QUỐC TẾ

        Biển Đông : Trung Quốc bành trướng và 3 phương án của Mỹ
      Các lưu trữ
      1. 1
      2. 2
      3. 3
      4. ...
      5. trang sau >
      6. trang cuối >
      7.                 

      Cùng chủ đề
      • MỸ -TRUNG - BIỂN ĐÔNG

        Biển Đông: FONOP vô hiệu với Trung Quốc, Mỹ cần biện pháp mạnh hơn
      • BIỂN ĐÔNG - VIỆT - MỸ

        Chiến hạm Mỹ qua Hoàng Sa : Hà Nội tranh thủ nhưng vẫn ngại Bắc Kinh
      • VIỆT NAM - TRUNG QUỐC

        Biển Đông : Dự thảo COC cho thấy Việt Nam cứng rắn với Trung Quốc
      1. 1
      2. 2
      3. 3
      4. ...
      5. trang sau >
      6. trang cuối >                 

      Geen opmerkingen:

      Een reactie posten