20 đại dịch bệnh khủng khiếp nhất trong lịch sử nhân loại (phần 1)
Cập nhật lúc: 9:47:10 SA - 15/04/2020
Đại dịch bệnh có sức tàn phá khủng khiếp và làm thay đổi cả tiến trình lịch sử nhân loại trong suốt quá trình tồn tại của nó.
Trong suốt quá trình lịch sử, dịch bệnh đã tàn phá nhân loại, đôi khi còn làm thay đổi tiến trình lịch sử, thậm chí còn là báo hiệu kết thúc của một nền văn minh. Sau đây là 20 trong số những đại dịch bệnh có ảnh hưởng tồi tệ nhất trong lịch sự nhân loại, xuất hiện từ thời tiền sử cho đến thời hiện đại.
1. Đại dịch bệnh Circa (3000 trước công nguyên)
Cách đây khoảng 5000 năm trước, một dịch bệnh đã càn quét một ngôi làng tiền sử ở Trung Quốc. Thi thể bệnh nhân được chất hàng đống trong một ngôi nhà và sau đó bị thiêu rụi. Dịch bệnh không loại trừ một ai. Những khung xương được tìm thấy bao gồm cả người lớn, thanh thiếu niên và trẻ nhỏ.
Khu khảo cổ được gọi là “Hamin Mangha” và là một trong những địa điểm được bảo tồn tốt nhất và lâu đời nhất ở phía Đông Bắc, Trung Quốc. Qua các nghiên cứu khảo cổ và nhân học cho thấy, tốc độ lây lan dịch bệnh xảy ra nhanh đến nỗi không có thời gian cho việc chôn cất những người đã tử vong.
Trước khi Hamin Mangha được phát hiện ra, một cuộc chôn cất hàng loạt thời tiền sử khác xảy ra cùng thời gian đã được tìm thấy tại một địa điểm khác có tên là Miaozigou, ở phía Đông Bắc, Trung Quốc. Khám phá này cho thấy, đại dịch đã tàn phá toàn bộ khu vực này.
2. Đại dịch bệnh Athens (430 trước công nguyên)
Parthenon, một trong những tòa nhà tọa lạc trên thành phố Athens. Thành phố này đã trải qua một đại dịch kéo dài 5 năm vào khoảng 430 trước công nguyên.
Khoảng vào năm 430 trước công nguyên, không lâu sau cuộc chiến giữa Athens và Sparta, một dịch bệnh đã tàn phá người dân ở Athens và kéo dài trong khoảng thời gian 5 năm. Số liệu người chết ước tính lên đến 100.000 người. Nhà sử học người Hy Lạp Thucydides (460 - 400 trước Công Nguyên) đã ghi lại: “Những người có sức khỏe tốt đột nhiên bị tấn công bởi những cơn bốc hỏa dữ dội ở đầu, mắt đỏ ngầu, cổ họng và lưỡi cũng bị viêm sưng, hơi thở yếu ớt” (bản dịch của Richard Crawley từ cuốn “Lịch sử của cuộc chiến Peloponnesian”, London Dent, năm 1914).
Từ lâu, dịch bệnh này đã trở thành đề tài tranh luận giữa các nhà khoa học, một số dịch bệnh khác cũng được đưa ra, bao gồm cả bệnh thương hàn và Ebola. Nhiều học giả cho rằng, tình trạng quá tải gây ra bởi chiến tranh đã làm dịch bệnh trở nên trầm trọng hơn. Quân đội của Sparta mạnh hơn, buộc người dân Athens phải đi lánh nạn sau khi một loạt những chiến binh tử nạn, được gọi là “những bức tường dài” bảo vệ thành phố của họ. Bất chấp dịch bệnh, cuộc chiến vẫn tiếp diễn cho đến năm 404 trước công nguyên, khi Athens bị buộc phải đầu hàng Sparta.
3. Đại dịch bệnh Antonine (165 - 180)
Đại dịch Antonine. Đại dịch Antonine từ năm 165 đến 180, còn được gọi là Đại dịch Galen (tên của bác sĩ Hy Lạp sống ở Đế quốc La Mã đã mô tả bệnh dịch này), là một đại dịch cổ đại đã được đưa tới Đế quốc La Mã bởi lực lượng quân đội trở về từ các chiến dịch tại vùng Cận Đông.
Khi những người lính trở về từ Đế quốc La Mã sau cuộc chiến, họ đã mang về nhiều chiến lợi phẩm hơn. Đó chính là căn bệnh dịch hạch Antonie, có thể là bệnh đậu mùa, gây tổn thất ngân sách nặng nề cho quân đội và đã giết chết hơn 5 triệu người ở Đế quốc La Mã. Thông tin này được April Pudsey, một giảng viên cao cấp về Lịch sử La Mã tại Đại học Manchester Metropolitan đã viết trong một bài báo được xuất bản trong cuốn sách “Khuyết tật trong thời cổ đại”, Routledge, vào năm 2017)
Nhiều nhà sử học tin rằng, dịch bệnh đầu tiên xuất hiện ở Đế quốc La Mã là bởi những người lính trở về nhà sau một cuộc chiến chống lại Parthia. Dịch bệnh đã góp phần chấm dứt Pax Romana (Hòa bình La Mã), giai đoạn từ năm 27 trước công nguyên đến năm 180, khi Rome đang ở đỉnh cao quyền lực. Sau năm 180, sự bất ổn gia tăng trên khắp Đế quốc La Mã, khi trải qua nhiều cuộc nội chiến và xăm lăng của những nhóm “man rợ”. Kitô giáo ngày càng phát triển trong thời gian sau dịch bệnh xảy ra.
4. Đại dịch bệnh Cyprian (250 - 217)
Tên của dịch bệnh này được đặt theo tên Thánh Cyprian, một giám mục của Carthage (một thành phố ở Tunisia), người mô tả dịch bệnh báo hiệu ngày tận thế, bệnh dịch hạch Cyprian. Chỉ tính riêng ở Rome, con số ước tính dịch bệnh đã cướp đi 5000 sinh mạng mỗi ngày. Vào năm 2014, dường như các nhà khảo cổ học ở Luxor đã tìm thấy nơi chôn cất hàng loạt thi thể người bị bệnh dịch hạch. Cơ thể người bệnh được phủ một lớp vôi dày (trong lịch sử được sử dụng như một chất khử trùng). Các nhà khảo cổ học tìm thấy ba lò thiêu được sử dụng để sản xuất vôi và người bệnh dịch hạch bị thiêu rụi trong một đống lửa lớn.
5. Đại dịch bệnh Justinian (541 - 542)
Đế quốc Byzantine bị tàn phá bởi bệnh dịch hạch, đánh dấu sự khởi đầu suy tàn của nó. Bệnh dịch tái phát định kỳ sau đó. Con số ước tính cho thấy có tới 10% dân số thế giới đã chết vì dịch bệnh này.
Bệnh dịch này được đặt theo tên của Hoàng đế Byzantine Justinian (trị vì vào năm 527 - 565). Dưới triều đại của mình, Đế chế Byzantine đã đạt đến mức quyền lực tối cao, kiểm soát toàn bộ lãnh thổ trải dài từ Trung Đông đến Tây Âu. Hoàng đế Justinian đã cho xây dựng một nhà thờ lớn, được gọi là Hagia Sophia (Trí tuệ Thánh) ở Constantinople (ngày nay là Istanbul), thủ đô của Đế quốc Byzantine. Hoàng đế Justinian cũng bị mắc phải bệnh dịch hạch nhưng được cứu sống. Tuy nhiên, Đế quốc Justinian cũng mất dần lãnh thổ trong thời gian dịch bệnh xảy ra.
6. Đại dịch “Cái chết đen” (1346 - 1353)
Đại dịch “Cái chết đen” đi từ Châu Á đến Châu Âu, sự trỗi dậy của nó đã để lại sự tàn phá khủng khiếp. Theo con số ước tính, hơn một nửa dân số Châu Âu bị xóa sổ bởi đại dịch này. Bệnh dịch được gây ra bởi một chủng vi khuẩn có tên là Yersinia Pestis, có khả năng gây tuyệt chủng ngày nay và được lây lan bởi bọ chét trên các loài gặm nhấm bị nhiễm bệnh. Thi thể của các người bệnh được chôn cất trong các ngôi mộ tập thể.
Bệnh dịch tạo nên công cuộc làm thay đổi tiến trình lịch sử Châu Âu. Rất nhiều người đã thiệt mạng, lao động trở nên khó tìm hơn. Người lao động được trả mức lương cao hơn và chấm dứt chế độ nông nô ở Châu Âu. Các nghiên cứu khoa học cho thấy, các nhân công còn sống sót được hưởng nguồn thực phẩm thịt và bánh mì chất lượng cao hơn. Việc thiếu nguồn nhân công giá rẻ đã góp phần thúc đẩy việc phát triển đổi mới công nghệ tại Châu Âu.
7. Đại dịch bệnh Cocciztli (1545 - 1548)
Nhiễm trùng là nguyên nhân gây ra dịch bệnh Cocciztli, một dạng sốt xuất huyết do vi rút gây ra, đã giết chết 15 triệu cư dân ở Mexico và Trung Mỹ. Trong số cộng đồng bị suy yếu vì hạn hán khắc nghiệt, căn bệnh này là một đại thảm họa cho người dân nơi đây. Cocoliztil là từ tiếng Aztec, có nghĩa là dịch hại.
Một nghiên cứu gần đây đã tiến hành xét nghiệm DNA từ các bộ xương ở những người bệnh được tìm thấy cho biết, họ bị nhiễm bệnh từ phân của loài Salmonella có tên khoa học là S. Paratyphi C, nguyên nhân gây sốt cao, bao gồm bệnh thương hàn. Cơ thể sốt cao, mất nước và các bệnh liên quan đến đường tiêu hoá… vẫn là một mối đe dọa lớn cho sức khỏe hiện nay.
8. Đại dịch bệnh Mỹ, ở thế kỷ 16
Bệnh dịch hạch ở Mỹ xuất hiện ở một nhóm người Á - Âu lây sang đến Châu Mỹ, được các nhà thám hiểm Châu Âu phát hiện ra. Nhóm dịch bệnh này, bao gồm cả bệnh đậu mùa, đã góp phần làm sụp đổ nền văn minh Inca và Aztec. Theo số liệu thống kê cho thấy 90% dân số bản địa ở Tây Bán Cầu đã bị giết chết bởi dịch bệnh này.
Mặt khác, dịch bệnh này đã giúp một lực lượng Tây Ban Nha do Hernán Cortés lãnh đạo chinh phục thủ đô Tenochtitlán của Aztec vào năm 1519, và một lực lượng Tây Ban Nha khác do Francisco Pizarro lãnh đạo đã chinh phục người Inca vào năm 1532. Người Tây Ban Nha chiếm lãnh thổ của cả hai đế quốc này. Trong cả hai trường hợp, quân đội Aztec và Incan đều bị tàn phá bởi dịch bệnh và không thể chống lại với các lực lượng của Tây Ban Nha. Khi các công dân của Anh, Pháp, Bồ Đào Nha và Hà Lan bắt đầu khám phá, chinh phục và định cư ở Tây Bán Cầu, họ cũng được giúp đỡ, bởi thực tế, dịch bệnh đã làm suy giảm đáng kể quy mô của bất kỳ nhóm bản địa nào chống lại họ.
9. Đại dịch bệnh London (1665 - 1666)
Đại dịch lớn cuối cùng của “Cái chết đen” ở Anh đã tạo ra một cuộc di cư hàng loạt từ London, do vua Charles II lãnh đạo. Bệnh dịch bắt đầu vào tháng 4/1665 và nhanh chóng lây lan rộng khắp trong những ngày tháng mùa hè nóng bức. Bọ chét từ loài gặm nhấm bị nhiễm bệnh là một trong những nguyên nhân chính gây lây truyền dịch bệnh. Vào thời điểm dịch bệnh kết thúc, có khoảng 100.000 người chết, bao gồm 15% dân số London. Nhưng sự đau khổ vẫn chưa chấm dứt tại thành phố này. Vào ngày 2/9/1666, trận đại hỏa hoạn ở London bắt đầu thiệu rụi một phần lớn thành phố này chỉ trong vòng 4 ngày.
10. Đại dịch bệnh ở Marseille (1720 – 1723)
Lịch sử ghi nhận, đại dịch bệnh ở Marseille được bắt đầu khi con tàu có tên Grand-Saint-Antoine cập cảng ở Marseille, Pháp. Con tàu chở hàng hoá từ phía Đông Địa Trung Hải. Mặc dù đã được kiểm dịch, bệnh dịch vẫn xâm nhập vào thành phố, nguyên nhân lây lan có thể khởi phát từ bọ chét trên các loài gặm nhấm bị nhiễm bệnh dịch.
Trong thời gian 3 năm, bệnh dịch lây lan nhanh chóng và cướp đi 100.000 sinh mạng ở Marseille và các khu vực lân cận. Người ta ước tính con số lên tới 30% dân số của Marseille đã chết.
Theo LiveScience
http://www.ansinh.com.vn/News.aspx?NewsID=1974&CatID=1&TypeID=1
20 đại dịch bệnh khủng khiếp nhất trong lịch sử nhân loại (phần 2)
Cập nhật lúc: 1:58:36 CH - 25/04/2020
Đại dịch bệnh có sức tàn phá khủng khiếp và làm thay đổi cả tiến trình lịch sử nhân loại trong suốt quá trình tồn tại của nó.
11. Đại dịch bệnh Nga (1770 – 1772)
Đại dịch bùng phát mạnh ở Moscow, đã trở thành nỗi kinh hoàng cho những công dân bị cách ly trở thành nạn bạo lực. Bạo loạn lan tràn khắp thành phố, đỉnh điểm là vụ sát hại Đức Tổng Giám mục Ambrosius, người khuyến khích dân chúng không tụ tập đông người để cầu kinh.
Hoàng hậu Nga, Catherine II (còn gọi là Catherine Đại đế) đã rất tuyệt vọng trong việc ngăn chặn bệnh dịch và khôi phục trật tự đất nước. Đến mức, bà đã ban hành một sắc lệnh khẩn cấp, yêu cầu tất cả các nhà máy phải rời khỏi Moscow. Vào thời điểm dịch bệnh kết thúc, có tới 100.000 người đã chết. Kể cả ngay sau khi dịch bệnh ổn định, bà Catherine vẫn cố gắng thiết lập lại trật tự xã hội. Năm 1773, Yemelyan Pugachev, một người đàn ông tự xưng là Peter III (người chồng bị xử tử của Catherine) đã lãnh đạo một cuộc nổi dậy, dẫn đến cái chết thương tâm cho hàng ngàn người khác.
12. Dịch sốt vàng da ở Philadelphia năm 1793
Khi cơn sốt vàng da chiếm giữ Philadelphia, thủ đô của Hoa Kỳ vào thời điểm đó, các quan chức đã sai lầm khi tin rằng nô lệ người có khả năng miễn dịch cao nhất. Do đó, những người theo chủ nghĩa bãi bỏ lên tiếng kêu gọi tuyển dụng những người dân gốc Phi để chăm sóc người bệnh.
Bệnh dịch nhanh chóng lây truyền và truyền qua muỗi đốt. Cả đất nước trải qua thời kỳ bùng nổ dân số trong thời tiết mùa hè nóng và ẩm, đặc biệt là ở Philadelphia vào năm đó. Mãi cho đến khi mùa đông đến, muỗi bị tiêu diệt, dịch bệnh cuối cùng cũng được chấm dứt. Ước tính hơn 5.000 người đã thiệt mạng.
13. Đại dịch cúm (1889 - 1890)
Trong thời đại công nghiệp phát triển, cách thức liên kết và vận chuyển mới giúp vi rút cúm dễ dàng công phá mạnh mẽ hơn. Trong vài tháng, dịch bệnh này đã lây lan khắp toàn cầu, 1 triệu người thiệt mạng. Đại dịch này đạt mức kỷ lục tử vong cao nhất thế giới chỉ sau 5 tuần.
Các trường hợp được phát hiện sớm đã được báo cáo ở Nga. Loại vi rút này lây truyền nhanh chóng khắp St. Petersburg trước khi phát tán rộng khắp Châu Âu và các nước khác trên thế giới, mặc dù du lịch hàng không vào thời điểm đó chưa tồn tại.
14. Đại dịch bệnh bại liệt ở Mỹ, năm 1916
Dịch bệnh bại liệt bắt đầu ở thành phố New York, gây ra 27.000 trường hợp mắc bệnh và 6.000 ca tử vong ở Hoa Kỳ. Bệnh bại liệt chủ yếu ảnh hưởng đến trẻ em và đôi khi còn khiến những người sống sót bị khuyết tật vĩnh viễn.
Sau đó, bệnh bại liệt xảy ra lẻ tẻ ở Hoa Kỳ, cho đến khi vắc xin Salk được điều chế thành công và phát triển vào năm 1954. Khi vắc xin trở nên phổ biến hơn, bệnh bại liệt ở Hoa Kỳ cũng không còn xuất hiện nữa.
Trường hợp bại liệt cuối cùng ở Hoa Kỳ được báo cáo vào năm 1979. Những nỗ lực kêu gọi tiêm chủng trên toàn thế giới đã cải thiện đáng kể căn bệnh này, dù vẫn chưa loại bỏ được hoàn toàn.
15. Đại dịch cúm Tây Ban Nha (1918 – 1920)
Ước tính có khoảng 500 triệu người từ Biển Nam đến Bắc Cực đã trở thành nạn nhân của căn bệnh cúm Tây Ban Nha. Một phần năm số người chết, một số cộng đồng bản địa bị đẩy đến bờ vực tuyệt chủng. Tốc độ lây lan cùng với số lượng người tử vong cao là do điều kiện binh lính thiếu thốn và dinh dưỡng kém trong thời chiến mà nhiều người gặp phải trong Thế chiến thứ nhất.
Mặc dù có tên gọi là Cúm Tây Ban Nha, nhưng dường như căn bệnh này không khởi phát ở Tây Ban Nha. Tây Ban Nha là một quốc gia trung lập trong chiến tranh và không thực thi kiểm duyệt chặt chẽ các nguồn thông tin báo chí, có thể tự do xuất bản các tin bài đầu tiên về căn bệnh này. Do đó, mọi người hiểu sai về căn bệnh này là đặc trưng của Tây Ban Nha, và cái tên Cúm Tây Ban Nha vô tình mà có.
16. Đại dịch cúm Châu Á (1957 - 1958)
Đại dịch cúm Châu Á là một biến thể toàn cầu khác về bệnh cúm. Có nguồn gốc từ Trung Quốc, căn bệnh này đã cướp đi hơn 1 triệu sinh mạng. Chủng loại vi rút gây ra đại địch này có sự kết hợp của vi rút cúm gia cầm.
Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) lưu ý rằng, căn bệnh này lây lan nhanh chóng và đã được báo cáo tại Singapore vào tháng 2/1957, báo cáo tại Hồng Kong vào tháng 4/1957 và các thành phố ven biển tại Hoa Kỳ vào mùa hè năm 1957. Tổng số người chết là hơn 1,1 triệu người trên toàn thế giới, với 116.000 ca tử vong xảy ra tại riêng Hoa Kỳ.
17. Đại dịch AIDS, từ năm 1981 cho đến nay
AIDS đã cướp đi khoảng 35 triệu sinh mạng kể từ khi ca bệnh đầu tiên được xác định. HIV là loại vi rút gây ra bệnh AIDS, có khả năng phát triển từ một loại vi rút tinh tinh truyền sang người ở Tây Phi vào những năm 1920. Vi rút đã xuất hiện trên khắp thế giới và AIDS trở thành đại dịch vào cuối thế kỷ 20. Giờ đây, khoảng 64% trong số 40 triệu người được ước tính, đang sống cùng với loại vi rút gây suy giảm miễn dịch ở người (HIV) ở Châu Phi cận Sahara.
Trong nhiều thập kỷ qua, căn bệnh này vẫn chưa có cách điều trị, nhưng có một loại thuốc được phát triển vào những năm 1990, cho phép người mắc bệnh AIDS sống một cuộc sống bình thường nếu được sử dụng thường xuyên. Đáng khích lệ hơn, đã có 2 người được điều trị thành công HIV vào đầu năm 2020.
18. Đại dịch cúm lợn (2009 - 2010)
Đại dịch cúm lợn năm 2009 là do một chủng vi rút cúm mới có nguồn gốc từ Mexico, xuất hiện vào mùa xuân năm 2009 trước khi lây lan sang các quốc gia khác trên thế giới. Trong vòng một năm, có tới 1,4 tỷ người bị nhiễm loại vi rút trên toàn cầu và giết chết từ 151.700 đến 575.400 người, theo số liệu công bố của Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC).
Theo báo cáo của CDC, đại dịch cúm lợn năm 2009, đối tượng bị tấn công chủ yếu là trẻ em và thanh niên, 80% số ca tử vong ở những người dưới 65 tuổi. Điều đó được xem là bất thường, vì hầu hết các chủng vi rút cúm, bao gồm những loại vi rút gây ra bệnh cúm mùa, tỷ lệ tử vong cao nhất thuộc nhóm những người từ 65 tuổi trở lên. Nhưng với đại dịch cúm lợn này, người lớn tuổi có hệ miễn dịch đủ khả năng chống lại loại vi rút cúm này, vì vậy mà không bị ảnh hưởng nhiều.
Một loại vắc xin phòng bệnh cúm H1N1 gây ra dịch bệnh cúm lợn cũng có trong vắc xin phòng cúm mùa hàng năm.
19. Dịch Ebola Tây Phi (2014 - 2016)
Dịch bệnh Ebola đã tàn phá Tây Phi từ năm 2014 đến năm 2016, với 28.600 trường hợp được báo cáo và 11.325 trường hợp tử vong. Trường hợp đầu tiên được báo cáo ở Guinea vào tháng 12/2013, sau đó căn bệnh này nhanh chóng lây lan sang Liberia và Sierra Leone. Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) cho biết, phần lớn các trường hợp nhiễm bệnh và tử vong đều xảy ra ở ba quốc gia này. Một số lượng nhỏ hơn các trường hợp xảy ra ở Nigeria, Mali, Senegal, Hoa Kỳ và Châu Âu.
Không có cách điều trị cho bệnh Ebola, mặc dù những nỗ lực trong việc tìm kiếm vắc xin vẫn đang tiếp tục tiến hành. Các trường hợp mắc bệnh Ebola đầu tiên được biết đến là xảy ra ở Sudan và Cộng hòa Dân chủ Congo vào năm 1976, và loại vi rút này có thể có nguồn gốc từ loài dơi.
20. Đại dịch vi rút Zika, từ năm 2015 cho đến ngày nay
Tác động dịch vi rút Zika gần đây ở Nam Mỹ và Trung Mỹ sẽ không được biết đến trong vài năm. Trong khi đó, các nhà nghiên cứu khoa học vẫn đang phải đối mặt với cuộc chạy đua thời gian để kiểm soát sự phát triển và lây lân của loại vi rút này. Vi rút Zika thường lây truyền qua muỗi, thuộc chi Aedes, nó cũng có thể được lây truyền qua đường tình dục ở người.
Mặc dù vi rút Zika không gây hại cho người lớn và trẻ em, nhưng loại vi rút này có khả năng tấn công trẻ sơ sinh vẫn còn đang trong bụng mẹ và gây dị tật bẩm sinh. Loại muỗi mang tên Zika phát triển mạnh mẽ ở vùng có khí hậu ấm áp, ẩm ướt. Khu vực Nam Mỹ, Trung Mỹ và các khu vực miền Nam Hoa Kỳ trở thành địa điểm lý tưởng cho sự phát triển mạnh của loại vi rút này.
20 đại dịch bệnh khủng khiếp nhất trong lịch sử nhân loại (phần 1)
Bệnh viện An Sinh (Theo Live Science)
Các tin tức khác:
[Trở về]- Thử nghiệm lâm sàng vaccine BCG trên toàn cầu về khả năng chống lại virus corona (25/04/2020)
- Hành trình phức tạp của virus corona xâm nhập cơ thể con người (22/04/2020)
- 20 đại dịch bệnh khủng khiếp nhất trong lịch sử nhân loại (phần 1) (15/04/2020)
- Tỉ lệ tử vong do COVID-19 thấp hơn 6 lần tại các quốc gia có sử dụng vaccine phòng lao BCG (15/04/2020)
- Nghiên cứu: Một loại vaccine có tuổi đời 100 năm có thể giúp con người chống lại đại dịch COVID-19? (14/04/2020)
- TS. Trần Bắc Hải: Ai đang tấn công vào vaccine và Bill Gates? (14/04/2020)
- Hành trình ra đời của vaccine đậu mùa (25/03/2020)
- Ý nghĩa của ngày Quốc tế Hạnh phúc 20/3 (21/03/2020)
- Thứ trưởng Bộ Y tế kiểm tra công tác phòng chống Covid-19 ở bệnh viện tư (09/03/2020)
- Thứ trưởng Bộ Y tế: Bệnh viện tư phải sẵn sàng chống dịch (09/03/2020)
- Bộ Y tế kiểm tra công tác phòng chống Covid-19 tại bệnh viện tư ở TPHCM (08/03/2020)
- Các bệnh viện tại TPHCM khám và cách ly như thế nào để sớm phát hiện bệnh nhân nước ngoài nhiễm COVID-19? (18/02/2020)
- Cẩm nang Hỏi - Đáp thông tin về bệnh do vi rút nCoV (Corona) (11/02/2020)
- Đeo khẩu trang y tế đúng cách để phòng vi rút nCoV (31/01/2020)
- Loại vắcxin làm thay đổi thế giới (21/12/2019)
http://www.ansinh.com.vn/News.aspx?NewsID=1986&CatID=1&TypeID=1Đại dịch
Đại dịch là bệnh dịch tễ do nhiễm khuẩn, lây lan nhanh, xảy ra đồng thời ở một vùng dân cư rộng lớn.
Trong lịch sử đã ghi nhận nhiều đại dịch. Cái chết Đen, hay dịch hạch đen xảy ra ở châu Âu thế kỷ 13 đã giết chết một phần ba dân số toàn châu Âu. Ở Hungari thế kỷ 16 cũng có dịch sốt phát ban do rận. Dịch cúm Tây Ban Nha năm 1918 làm chết ước tính khoảng hơn 50 - 100 triệu người. Châu Á năm 1957 có dịch cúm do virus cúm A. Đại dịch cúm khởi phát ở Hồng Kông năm 1968 cũng do virut cúm A. Gần đây nhất là Dịch Covid-19 (2019–20..) do virus SARS-CoV-2 gây ra ở nhiều quốc gia đã trở thành đại dịch mới.
Định nghĩa và giai đoạn
Đại dịch có thể được định nghĩa "là dịch bệnh xuất hiện trên toàn cầu hoặc trên một khu vực rộng lớn xuyên qua biên giới quốc gia, và thường ảnh hưởng đến rất nhiều người."[1]
WHO chia đại dịch thành 6 giai đoạn miêu tả quá trình một loại virus cúm mới nhiễm trùng vài người đầu tiên rồi phát triển thành dịch. Điều này bắt đầu chủ yếu là sự lây nhiễm ở động vật, với một vài ca động vật lây nhiễm qua người, sau đó đến giai đoạn virus bắt đầu phát tán trực tiếp giữa người sang người, và cuối cùng là dịch bệnh khi sự lây nhiễm phân bố trên toàn cầu.[2]
Các đại dịch hiện tại
HIV và AIDS
HIV lây sang Hoa Kỳ và nhiều nơi khác của thế giới bắt đầu vào khoảng năm 1969.[3] HIV, loại virus gây bệnh AIDS, hiện là một đại dịch, với tốc độ lây nhiễm khoảng 25% ở nam và đông châu Phi. Năm 2006, tỉ lệ nhiễm HIV trong số phụ nữ mang thai ở Nam Phi là 29,1%.[4] Việc giáo dục hiệu quả về an toàn tình dục và cảnh báo lây truyền qua đường máu đã giúp làm giảm tốc độ lây nhiễm ở nhiều nước thuộc châu Phi với sự hỗ trợ của các chương trình quốc gia. Tốc độ lây nhiễm đang tăng trở lại ở châu Á và châu Mỹ. AIDS có thể giết chết 31 triệu dân ở Ấn Độ và 18 triệu theo các nghiên cứu của U.N.[5] Số người chết do AIDS ở châu Phi có thể lên đến 90–100 triệu vào năm 2025.[6]
COVID-19 (2019-2020)
Đại dịch COVID-19 hay còn được gọi là đại dịch viêm phổi cấp do chủng mới của virus corona là một đại dịch truyền nhiễm gây ra bởi virus SARS-CoV-2 đang ảnh hưởng đến 203/204 quốc gia và vùng lãnh thổ. Dịch bắt đầu bùng phát từ tháng 12 năm 2019 tại thành phố Vũ Hán thuộc tỉnh Hồ Bắc ở miền Trung Trung Quốc, khi một nhóm người bị viêm phổi không rõ nguyên nhân đã tiếp xúc chủ yếu với những người buôn bán làm việc tại chợ buôn bán hải sản Hoa Nam, nơi bán động vật sống và được cho là địa điểm bùng phát dịch bệnh đầu tiên – điều này vẫn đang còn nhiều tranh cãi. Các nhà khoa học Trung Quốc sau đó đã phân lập được một loại coronavirus mới, được WHO lúc đó tạm thời gọi là 2019-nCoV, có trình tự gen giống ít nhất
79,5% với SARS-CoV trước đây. Sự lây nhiễm từ người sang người đã được xác nhận cùng với tỉ lệ bùng phát dịch tăng nhanh từ giữa tháng 1 năm 2020 hiện tại số người nhiễm đã cán mốc 25 triệu.Đại dịch và dịch bệnh nổi tiếng trong lịch sử
Dịch tả
Từ một bệnh có quy mô địa phương, bệnh tả đã trở thành một bệnh lây truyền và gây chết người nhiều nhất trong thế kỷ 19, dịch bệnh đã giết chết 10 triệu người.[7]
- Dịch tả lần thứ nhất (1816–1826). Trước đó chỉ phân bố trong khu vực tiểu lục địa Ấn Độ, bắt đầu ở Bengal, sau đó lan khắp Ấn Độ năm 1820. 10.000 binh lính Anh và không biết bao nhiêu người Ấn Độ đã chết trong suốt đại dịch này.[8] Nó bắt đầu lan sang Trung Quốc, Indonesia (nơi có hơn 100.000 người chết trên đảo Java) và vùng biển Caspi trước khi tàn lụi. Số ca tử vong ở Ấn Độ giữa năm 1817 và 1860 ước tính hơn 15 triệu người, và khoảng 23 triệu người chết trong khoảng 1865 và 1917. Số ca tử vong ở Nga trong cùng thời kỳ trên là hơn 2 triệu.[9]
- Dịch tả lần 2 (1829–1851). Xảy ra ở Nga (xem Cholera Riots), Hungary (khoảng 100.000 người chết) và Đức năm 1831, Luân Đôn năm 1832 (hơn 55.000 người chết ở Vương quốc Anh),[10] Pháp, Canada (Ontario), và Hoa Kỳ (New York) trong cùng năm,[11] và bờ Thái Bình Dương của Bắc Mỹ vào năm 1834. Hai năm sau khi dịch bùng phát ở Anh và Wales năm 1848 và đã có 52.000 chết.[12] Có nguồn cho rằng có hơn 150.000 người Mỹ đã chết do bệnh tả trong khoảng 1832 và 1849.[13]
- Dịch tả lần thứ 3 (1852–1860). Chủ yếu ảnh hưởng ở Nga, với hơn 1 triệu ca tử vong. Năm 1852, bệnh tả lan sang phía đông đến Indonesia và sau đó xâm nhập vào Trung Quốc và Nhật Bản năm 1854. Philippines bị nhiễm năm 1858 và Triều Tiên năm 1859. Vào năm 1859, dịch đã bùnh phát trở lại ở Bengal làm lây lan sang Iran, Iraq, Ả Rập và Nga.[14] Trên khắp đất nước Tây Ban Nha, bệnh tả gây ra hơn 236.000 ca tử vong trong năm 1854–55.[15] Có khoảng 200.000 người chết ở México.[16]
- Dịch tả lần thứ 4 (1863–1875). Lây lan chủ yếu ở châu Âu và châu Phi. Có ít nhất 30.000 trong số 90.000 Mecca khách hành hương là nạn nhân của dịch bệnh. Dịch đã cướp đi 90.000 mạng sống ở Nga năm 1866.[17] Năm 1866, dịch bùng phát ở Bắc Mỹ, giết khoảng 50.000 người.[13]
- Dịch tả lần thứ 5 (1881–1896). Dịch tả 1883–1887 đã cướp đi 250.000 người ở châu Âu và ít nhất 50.000 ở châu Mỹ. Bệnh tả đã giết 267.890 người ở Nga (1892);[18] 120.000 ở Tây Ban Nha;[19] 90.000 ở Nhật và 60.000 ở Ba Tư. Năm 1892, bệnh tả đã nhiễm vào nguồn nước cấp ở Hamburg, và làm 8606 người chết.[20]
- Dịch tả lần thứ 6 (1899–1923). Đại dịch này ảnh hưởng ít ở châu Âu do những cải tiến trong chăm sóc sức khỏe cộng đồng, nhưng ở Nga vẫn bị ảnh hưởng nặng với hơn 500.000 người chết trong 1/4 đầu của thế kỷ 20.[21] Đại dịch này đã giết hơn 800.000 người ở Ấn Độ. Giai đoạn 1902–1904 bệnh tả đã cướp đi hơn 200.000 người ở Philippines.[22] Có 27 lần dịch bệnh đã được ghi nhận là trong các thời kỳ hành hương đến Mecca từ thế kỷ 19 đến năm 1930, và có hơn 20.000 người hành hương chết vì bệnh tả trong khoảng 1907–08 hajj.[23]
- Dịch tả lần thứ 7 (1962–66). Bắt đầu ở Indonesia, gọi là El Tor, và sau đó đến Bangladesh năm 1963, Ấn Độ năm 1964, và Liên Xô năm 1966.
Dịch cúm
- Nhà vật lý Hy Lạp Hippocrates, "Cha đẻ của Y học", đã miêu tả cúm năm 412 TCN.[24]
- Đại dịch cúm lần đầu tiên được ghi nhận năm 1580 và kể từ đó các đại dịch cúm diễn ra cứ mỗi 10 đến 30 năm.[25][26][27]
- Đại dịch cúm 1889–1890, hay còn gọi là Cúm Nga, được báo cáo đầu tiên vào tháng 5 năm 1889 ở Bukhara, Uzbekistan. Vào tháng 10, nó lan đến Tomsk và Kavkaz. Nó nhanh chóng lan về phía tây và đến Bắc Mỹ vào tháng 12 năm 1889, Nam Mỹ vào tháng 2-3 năm 1890, Ấn Độ vào tháng 2-3 năm 1890, và Úc vào tháng 3-4 năm 1890. Các chủng virus H3N8 và H2N2 của virus cúm A đã được xác nhận có thể là nguyên nhân gây dịch bệnh. Nó có mức độ tấn công và tỉ lệ tử vong rất cao. Khoảng 1 triệu người chết do đại dịch này."[28]
- Cúm Tây Ban Nha (1918–1919). Được xác định đầu tiên vào tháng 3 năm 1918 trong một trại huấn huyện lính của Hoa Kỳ tại Camp Funston, Kansas. Vào tháng 10 năm 1918, nó bắt đầu lây lan thành một đại dịch toàn cầu trên khắp các lục địa, và cuối cùng lây nhiễm 1/3 dân số thế giới vào thời điểm đó (khoảng 500 triệu người).[29] Một dịch bệnh chết người, nó kết thúc nhanh như nó bắt đầu, quét qua chỉ trong vòng 18 tháng. Trong 6 tháng đã có khoảng 50 triệu người chết;[29] một số cách ước tính cho con số tử vong toàn cầu cao gấp 2 lần con số trên.[30] Khoảng 17 triệu người chết ở Ấn Độ, 675.000 ở Hoa Kỳ[31] và 200.000 người ở Vương quốc Anh. Virus gần đây đã được các nhà khoa học tái hiện lại tại CDC nghiên cứu dựa trên những mẫu được bảo quản trong các lớp băng vĩnh cửu ở Alaska. Virus H1N1 có cấu trúc nhỏ, nhưng cấu trúc quan trọng như cúm Tây Ban Nha.[32]
- Cúm châu Á (1957–58). Virus H2N2 đã làm khoảng 70.000 người chết ở Hoa Kỳ. Chúng được phát hiện đầu tiên ở Trung Quốc vào cuối tháng 2 năm 1957, Cúm châu Á lây sang Hoa Kỳ vào tháng 6 năm 1957. Nó làm khoảng 2 triệu người chết trên toàn cầu.[33]
- Cúm Hồng Kông (1968–69). Virus H3N2 làm chết khoảng 34.000 người ở Hoa Kỳ. Loại virus này được phát hiện đầu tiên ở Hồng Kông vào đầu năm 1968, và lây lan sang Hoa Kỳ vào một năm sau đó. Đại dịch này đã giết chết khoảng 1 triệu người trên toàn cầu.[34] Hiện tại, các virus cúm A (H3N2) vẫn còn tồn tại.
- Cúm H1N1 (2009). Người ta ước tính rằng 11–21% dân số toàn cầu lúc bấy giờ (khoảng 6,8 tỷ), tương đương 700–1400 triệu người mắc bệnh - nhiều hơn về mặt tuyệt đối so với đại dịch cúm Tây Ban Nha.[35] Tuy nhiên, với khoảng 150.000–575.000 trường hợp tử vong, nó có tỷ lệ tử vong thấp hơn nhiều.[36]
- Dịch bệnh Ebola tại châu Phi năm 2014 làm chết hơn 10 ngàn người.
Đậu mùa
Đậu mùa là căn bệnh rất dễ lây lan do virus Variola. Bệnh này đã giết khoảng 400.000 người châu Âu mỗi năm trong suốt những năm cuối thế kỷ 18.[37] Trong suốt thế kỷ 20, số người chết do đậu mùa ước tính có thể là 300–500 triệu.[38] Gần đây hơn vào đầu thập niên 1950, có khoảng 50 triệu ca đậu mùa xảy ra trên toàn thế giới mỗi năm.[39] Sau các chiến dịch tiêm vắc-xin thành công trong suốt thế kỷ 19 và 20, WHO chứng nhận đã xoá sổ đậu mùa vào tháng 12 năm 1979. Cho đến ngày nay, đậu mùa là bệnh duy nhất lây nhiễm người đã bị loại bỏ hoàn toàn.[40]
Sởi
Về lịch sử, sởi có mặt trên khắp thế giới, vì nó rất dễ lây nhiễm. Theo chương trình Tiêm chủng Quốc gia Hoa Kỳ, 90% người dân bị nhiễm sởi vào tuổi 15. Trước khi vắc-xin được đưa ra năm 1963, có khoảng 3–4 triệu ca nhiễm ở Hoa Kỳ mỗi năm.[41] Trong khoảng 150 năm qua, sởi đã giết khoảng 200 triệu người trên toàn cầu.[42] Chỉ riêng năm 2000, sởi đã giết khoảng 777.000 người trên toàn cầu, trong tổng số khoảng 40 triệu ca nhiễm.[43]
Năm 1529, sởi bùng phát ở Cuba đã giết 2/3 trong số người bản địa đã từng mắc bệnh đậu mùa.[44] Dịch đã tàn phá México, Trung Mỹ, và văn minh Inca.[45]
Lao
Một phần ba dân số hiện tại của thế giới bị nhiễm Mycobacterium tuberculosis, và các ca nhiễm mới hiện với tốc độ 1 ca/giây.[46] Khoảng 5–10% các ca nhiễm tiềm ẩn cuối cùng sẽ phản triển thành bệnh hoạt động, trong đó nếu không được điều trị sẽ giết hơn phân nửa số nạn nhân. Hàng năm, 8 triệu người phát bệnh lao, và 2 triệu người chết do bệnh này trên toàn cầu.[47] Trong thế kỷ 19, lao đã giết khoảng 1/4 người trưởng thành ở châu Âu;[48] vào năm 1918 một trong 6 ca tử vong ở Pháp là do bệnh lao. Vào cuối thế kỷ 19, 70 đến 90% trong số cư dân đô thị ở châu Âu và Bắc Mỹ bị nhiễm M. tuberculosis, và khoảng 40% ca tử vong trong tầng lớp lao động ở các thành phố là do virus lao.[49] Trong thế kỷ 20, bệnh lao đã giết chết khoảng 100 triệu người.[42] Lao vẫn là một trong những vấn đề sức khỏe quan trọng nhất trong thế giới đang phát triển.[50]
Bệnh phong
Bệnh phong do vi trùng, Mycobacterium leprae gây ra. Đây là loại bệnh mãn tính với thời gian ủ bệnh lên đến 5 năm. Từ năm 1985, 15 triệu người trên thế giới đã được chữa khỏi bệnh phong.[51] Năm 2002, 763.917 các ca mới được phát hiện. Ước tính có khoảng 1 đến 2 triệu người bị tàn tật vĩnh viễn do bệnh phong.[52]
Theo các tài liệu, phong đã ảnh hưởng đến con người từ ít nhất năm 600 TCN, và đã được công nhận trong các nền văn minh của Trung Quốc, Ai Cập và Ấn Độ cổ đại.[53] Trong suốt thời kỳ Thượng Trung cổ, Tây Âu chứng kiến sự bùng nổ chưa từng thấy của bệnh phong.[54][55] Nhiều leprosaria, hay bệnh viện phong mọc lên ở thời Trung Cổ; Matthew Paris ước tính trong đầu thế kỷ 13 có khoảng 19.000 bệnh viện ở khắp châu Âu.[56]
Sốt rét
Sốt rét phân bố rộng khắp các khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới, bao gồm các phân của châu Mỹ, châu Á, và châu Phi. Mỗi năm có khoảng 350–500 triệu ca sốt rét.[57] Kháng thuốc đặt ra một vấn đề ngày càng tăng trong việc điều trị sốt rét trong thế kỷ 21, vì kháng thuốc hiện phổ biến cho tất cả các nhóm thuốc chống sốt rét, trừ artemisinins.[58]
Sốt rét từng phổ biến ở châu Âu và Bắc Mỹ, nơi mà ngày nay nó không còn tồn tại.[59] Sốt rét có thể đã góp phần làm suy yếu đế quốc La Mã.[60] Dịch bệnh trở nên nổi tiếng với tên gọi "sốt La Mã".[61] Plasmodium falciparum trở thành mối đe dọa thực sự đối với người dân thuộc địa và người bản địa khi nó được du nhập vào châu Mỹ cùng với việc buôn bán nô lệ. Sốt rét đã tàn phá thuộc địa Jamestown và tàn phát miền Nam và Trung đông. Đến năm 1830 nó đến tây bắc Thái Bình Dương.[62] Trong nội chiến Hoa Kỳ, có hơn 1,2 triệu ca sốt rét trong số lính của hai phía.[63] Phía nam Hoa Kỳ tiếp tục bị ảnh hưởng với hàng triệu ca sốt rét trong thập niên 1930.[64]
Sốt vàng da
Sốt vàng da là nguồn gốc của nhiều dịch bệnh tàn phá.[65] Các thành phố xa về phía bắc của New York, Philadelphia, và Boston đã từng bị dịch bệnh này tấn công. Năm 1793, một trong những dịch bệnh sốt vàng da lớn nhất trong lịch sử Hoa Kỳ đã giết chết 5.000 người dân Philadelphia—chiếm gần 10% dân số thành phố này.[66] Khoảng phân nửa công dân đã rời bỏ thành phố, bao gồm cả George Washington. Khoảng 300.000 người được tin là đã chết do sốt vàng da ở Tây Ban Nha trong suốt thế kỷ 19.[67] Trong thời kỳ thuộc địa, Châu Phi trở nên nổi tiếng vì "các nấm mộ của người da trắng" do sốt rét và sốt vàng da.[68]
Dịch hạch
Đại dịch Antonine từ năm 165 đến 180, còn được gọi là Đại dịch Galen (tên của bác sĩ Hy Lạp sống ở Đế quốc La Mã đã mô tả bệnh dịch này), là một đại dịch cổ đại đã được đưa tới Đế quốc La Mã bởi lực lượng quân đội trở về từ các chiến dịch tại vùng Cận Đông. Các học giả đã nghi ngờ nó là bệnh đậu mùa hoặc bệnh sởi, dịch hạch nhưng nguyên nhân thực sự vẫn chưa được xác định. Tổng số ca tử vong được ước tính là 5 triệu, và căn bệnh này đã giết chết một phần ba dân số ở một số vùng và tàn phá quân đội La Mã.
Cái Chết Đen là tên gọi của một đại dịch xảy ra ở châu Á và châu Âu trong thế kỷ XIV, mà đỉnh điểm là ở châu Âu từ năm 1346 đến năm 1351, với số lượng người chết ở châu Âu và châu Á từ 75-200 triệu người.[69][70][71]
Các đại dịch đang và có thể xảy ra trong tương lai
Sốt xuất huyết
Bệnh sốt xuất huyết gây ra bởi một số họ virus sau: Arenavirus, Filoviridae, Bunyaviridae và Flavivirus. Một số loài virus có thể gây bệnh nhẹ như sốt Nephropathia Scandinavia, trong khi đó một số loài khác có thể gây bệnh tương đối nặng, thậm chí có thể gây tử vong, chẳng hạn như sốt Lassa, virus Marburg, virus Ebola, sốt xuất huyết Bolivia, Hantavirus (sốt xuất huyết Triều Tiên), sốt xuất huyết Crimea-Congo, và sốt xuất huyết Dengue. Đây là bệnh sốt cao có xuất huyết, có thể quy vào các chứng ôn dịch, thời độc, thử táo dịch hoặc thấp nhiệt. Sốt xuất huyết được truyền qua muỗi, đặc biệt là muỗi vằn.
SARS (2002 -2004)
SARS hay Hội chứng hô hấp cấp tính nặng là một chứng bệnh hô hấp ở con người gây ra bởi virus. Giữa tháng 11 năm 2002 đến tháng 7 năm 2003, bùng phát dịch SARS ở Hồng Kông gần như trở thành một đại dịch, với 8.096 trường hợp và 774 trường hợp tử vong trên toàn thế giới [72] (10,9% tử vong) theo Tổ chức Y tế Thế giới.[73] Trong vòng vài tuần, SARS lây lan từ Hồng Kông sang lây nhiễm các cá nhân khác tại 37 quốc gia vào đầu năm 2003.
SARS không được tuyên bố đã được loại trừ (không giống như bệnh đậu mùa), vì nó vẫn có thể có mặt ở các hồ chứa vật chủ tự nhiên của nó (quần thể động vật) và có khả năng có thể trở lại trong tương lai. Trường hợp tử vong của SARS là ít hơn 1% người ở độ tuổi 24 hoặc trẻ hơn, 6% đối với những người 25 đến 44, 15% đối với những người 45 đến 64, và hơn 50% đối với những người trên 65 tuổi.
COVID-19
Đại dịch Covid-19 (còn được gọi là viêm phổi Vũ Hán, cúm Vũ Hán, viêm phổi Trung Quốc,...) do chủng mới của virus corona là một đại dịch truyền nhiễm gây ra bởi virus SARS-CoV-2 đang ảnh hưởng đến 212 quốc gia và vùng lãnh thổ. Dịch bắt đầu bùng phát từ tháng 12 năm 2019 tại thành phố Vũ Hán thuộc tỉnh Hồ Bắc ở miền Trung Trung Quốc, khi một nhóm người bị viêm phổi không rõ nguyên nhân đã tiếp xúc chủ yếu với những người buôn bán làm việc tại Chợ bán buôn hải sản Hoa Nam, nơi bán động vật sống và được cho là địa điểm bùng phát dịch bệnh đầu tiên – điều này vẫn đang còn nhiều tranh cãi. Các nhà khoa học Trung Quốc sau đó đã phân lập được một loại coronavirus mới, được WHO lúc đó tạm thời gọi là 2019-nCoV, có trình tự gen giống ít nhất 79,5% với SARS-CoV trước đây. Sự lây nhiễm từ người sang người đã được xác nhận cùng với tỉ lệ bùng phát dịch tăng nhanh vào giữa tháng 1 năm 2020.
Tính đến ngày 30 tháng 6 năm 2020, đã có 10.402.389 người nhiễm, 507.515 người tử vong tại 212 quốc gia và vùng lãnh thổ với số ca tử vong được ghi nhận nhiều nhất là ở Hoa Kỳ (128.774 ca) và số ca nhiễm được ghi nhận nhiều nhất là ở Hoa Kỳ (2.681.527 ca).
Geen opmerkingen:
Een reactie posten