zondag 10 april 2022

Prince - Bí ẩn phía sau album kinh điển Purple Rain (Cơn mưa màu tím)

 

Prince - Bí ẩn phía sau album kinh điển Purple Rain (Cơn mưa màu tím)

Phần âm thanh 10:28
Ca sĩ Prince biểu diễn trong giải đấu bóng Super Bowl XLI tại sân vận động Dolphin ở Miami, Mỹ, ngày 04/02/2007. Ca sĩ qua đời năm 2016.
Ca sĩ Prince biểu diễn trong giải đấu bóng Super Bowl XLI tại sân vận động Dolphin ở Miami, Mỹ, ngày 04/02/2007. Ca sĩ qua đời năm 2016. AP - CHRIS O'MEARA

Prince là một biểu tượng âm nhạc nhờ tài năng kiệt xuất trên nhiều phương diện. Nhắc tới Prince, không thể không nhắc tới album kinh điển Purple Rain (Cơn mưa màu tím) sản xuất năm 1984. Có khá nhiều điều thú vị phía sau album nhạc “đóng đinh” với tên tuổi Prince trong suốt sự nghiệp.


Biểu tượng âm nhạc của mọi thời đại

Đến nay, Prince được coi là ngôi sao kiệt xuất của thế hệ nghệ sỹ thập niên 1980-90. Nghệ sỹ sinh năm 1958 tiêu thụ tới hơn 150 triệu đĩa hát khắp toàn cầu. Âm nhạc Prince pha trộn funk, R&B, soul, pop/rock cùng chất giọng giả falsetto ở nốt cao, sáng chói. Có gu ăn mặc hơi dị thường, ông tự chơi hầu hết các nhạc cụ trong các bản ghi âm của mình. Hiếm có nghệ sỹ nào sản xuất được 36 album phòng thu trong sự nghiệp trải dài hơn 40 năm như Prince. Đó chưa kể các dự án dang dở, chưa được công bố của Prince. Ngoài nghệ danh Prince, ông còn có tên mỹ miều The Artist.

Prince qua đời vào năm 2016 ở độ tuổi 58 tại Paisley Park, bang Minesota (Mỹ). Do không có di chúc, gia sản trị giá 156 triệu đô la được chia cho các em ruột, gồm có bản quyền trình diễn các ca khúc. Prince là tác giả hơn 500 ca khúc, và nhiều ca khúc ẩn danh tên khác, ước tính lên đến 1.000 ca khúc. Trong gia tài đồ sộ ca khúc, hai ca khúc Nothing Compares To you và Manic Monday lại nổi tiếng nhờ Sinead O’Connor và nhóm The Bangles thể hiện.

Album kinh điển Purple Rain

Tuy nhiên, ca khúc Purple Rain (Cơn mưa màu tím) luôn “đo ni đóng giày” với Prince và thắp sáng tên tuổi ông trên sâu khấu. Nam nghệ sỹ từng biểu diễn ca khúc trong màn trình diễn tại sân vận động SuperBowl năm 2007.

Purple Rain là album nhạc kinh điển nhất và nổi tiếng nhất sản xuất năm 1984. Album leo lên hạng nhất bảng xếp hạng Billboard 200 và tiêu thụ tới 25 triệu bản trên khắp toàn cầu. Không những thế, album còn đoạt 2 giải Grammy và 1 giải Oscar, đánh dấu thành quả lao động xuất sắc của nam nghệ sỹ. Hai ca khúc đình đám nhất album là When Doves Cry (Khi bồ câu khóc) và Let’s Go Crazy (Hãy trở nên điên rồ) đều lên hạng 1 và 2 của bảng xếp hạng Billboard Hot 100. Album này thực chất trích dẫn từ âm nhạc của bộ phim cùng tên do Prince thủ vai chính. Đạo diễn của phim là Albert Magnoli, sau này là người quản lý của Prince.

Bộ phim có cốt truyện hư cấu lấy nhân vật chính là Prince cùng ban nhạc The Revolution. Ông thủ vai nghệ sỹ trẻ bị tổn thương trong gia đình có người cha bạo hành. Hơn thế, Prince và ban nhạc The Revolution đứng trước nguy cơ bị “đá” khỏi câu lạc bộ hay biểu diễn do xuất hiện đối thủ tiềm năng. Chất xúc tác cho sự vươn lên của Prince là ca sỹ trẻ, đầy bí ẩn và quyến rũ Apollonia. Mối tình này là động lực sống sót của Prince và hấp lực của bộ phim.

Bí ẩn lớn nhất chính là câu hỏi phim có dựa trên cuộc đời thực tế của Prince hay không ? Bộ phim được quay chủ yếu tại bang Minneapolis và thành công không nhỏ về thương mại. Với kinh phí vẻn vẹn 7,2 triệu đô la, doanh thu của bộ phim gấp 10 lần trên toàn cầu. Tất nhiên, thành công của bộ phim ca nhạc không thể thiếu sức hút nam châm của âm nhạc Prince. Nhiều khán giả cho rằng bộ phim quá sex thì Prince bào chữa : “Đó là một câu chuyện hư cấu, nên nhìn nhận theo cách đó. Bạo lực là thứ xảy ra thường ngày và chúng tôi chỉ kể chuyện. Nếu thực sự quý vị cảm thấy như vậy, tôi rất lấy làm tiếc vì không phải ý định chúng tôi”.

Đột phá về kỹ thuật thể nghiệm và tính nội dung

Trong bản hit mở màn bộ phim, Let’s go crazy (Trở nên điên rồ), Prince chứng tỏ tài năng phi thường về chơi guitar. Nghệ sỹ chơi guitar điêu luyện với những hợp âm bị bóp méo hay những trường đoạn độc tấu kỹ thuật như Jimmi Hendrix. Tay trống Bobby của The Revolution nhớ lại : “Tôi nhớ chỉ cần chơi hai lượt, Prince chơi phần guitar solo, chúng tôi chơi phần kết bài, vậy là hoàn tất gọn gàng”. Nội dung ca khúc đề cập tới cuộc chiến Thiện và Ác trong cuộc sống. Phần mở đầu ca khúc có lẽ có đoạn diễn thuyết dài nhất khi Prince nhập vai nhà thuyết giáo của nhà thờ.

When Doves Cry (Khi bồ câu khóc) là một bản hit xuất sắc khác. Ca khúc leo lên hạng nhất Billboard trong 5 tuần liên tiếp. Bài hát ám chỉ nỗi sợ hãi trở thành cha mẹ của nhân vật chính trong gia đình bạo hành. Khi bồ câu khóc, muốn ám chỉ hòa bình, hạnh phúc bị phá vỡ. Phiên bản khác của bài hát từng xuất hiện trong phim Romeo và Juliette (1996) có sự tham gia của Leonardo Dicaprio.

Video clip ca khúc này do chính Prince đạo diễn. Mở màn bằng hình ảnh đàn bồ câu tung cánh, hé lộ cánh cửa bồn tắm, sau đó, ông trình diễn trong nhiều hoạt cảnh khác nhau. Video clip này gây tranh cãi do quá gợi dục trên tivi thời điểm đó. Về âm nhạc, bản hit không sử dụng guitar bass vì Prince cho rằng chơi bass sẽ khá tầm thường. Đây là điểm khác biệt với thể loại dance-pop thập niên 80. Thực tế, bài hát chỉ có guitar điện rít ở tầm cao, trống và nhạc cụ điện tử.

How could you just leave me standing / Alone in a world so cold? (World so cold) / Maybe I'm just too demanding / Maybe I'm just like my father, too bold/ Maybe you're just like my mother / She's never satisfied (she's never satisfied)/ Why do we scream at each other? / This is what it sounds like / When doves cry.

Làm sao em có thể bỏ rơi tôi trong thế giới lạnh lẽo / Có thể tôi đòi hỏi quá nhiều như cha tôi / Có thể em như mẹ tôi, người chưa bao giờ hài lòng với mọi chuyện / Tại sao chúng ta lại gào thét trước mặt nhau / Những âm thanh như khi bồ câu khóc.

Album này còn sản sinh ra một số ca khúc được ưa thích khác là The Beautiful Ones (Những thứ tốt đẹp) và I would die 4 U (Anh sẽ chết vì em). Ca khúc The Beautiful Ones muốn nói về nhân vật Denise Matthews trong phim Purple Rain, người đã rời bỏ trước quá trình sản xuất. Ca từ bài hát được truyển cảm hứng từ mối tình tay ba giữa Prince, Morris Day và Apollonia cũng như hành trình rời bỏ thế giới của Prince.

Trong một ca khúc xuất sắc I Would Die 4 U, Prince thần thánh hóa trong từng khổ thơ trong vai Đấng tối cao. Ông hóa thân vào nhiều vai khác nhau : Vai Đức cha (And if you're evil I'll forgive you by and by Nếu con là tội đồ, ta sẽ tha thứ cho con), trong vai Con trai (I'm your messiah, and you're the reason why / Con là người đưa thông điệp, và người là lý do tại sao) và cả Linh hồn tối thượng (Tôi là một cánh chim bồ câu, tôi là cảnh giới thiện và tà).

Xét tổng thể, Purple Rain là bản ballad đẹp nhất và xuất sắc nhất của cả album. Nó đã trụ hạng 1 bảng xếp hạng Billboard trong 24 tuần liên tiếp. Ca khúc cũng là tiêu điểm và bước ngoặt của truyện phim. Trong phim, Prince lên sân khấu trình diễn ca khúc này được sáng tác bởi hai nhân vật Lisa và Wendy, sau đó phá hủy toàn bộ ngôi nhà. Purple Rain là bản tình ca mà Prince bày tỏ sự say mê với một cô gái, đồng thời là liệu pháp tinh thần khỏi ức chế xuyên suốt phim. Mặc dù Wendy và Lisa là hai thành viên của nhóm nhạc, nhưng ca khúc này do một mình Prince sáng tác. Purple Rain ám chỉ sự khởi đầu mới : màu tím là bầu trời khi bình minh, cơn mưa ám chỉ nhân tố gột rửa vết nhơ.

Gần bốn thập kỷ trôi qua, sức hút của Purple Rain không hề thuyên giảm. Trái lại, nó thắp sáng tâm hồn, các hộp đêm, vũ trường trên toàn cầu. Người nghệ sỹ đa tài Prince và cộng sự đã sáng tạo một bữa tiệc âm nhạc hoàn mỹ.

(Theo NPRWikipediaRollingstoneThe GuardianSongfacts)

Prince - Bí ẩn phía sau album kinh điển Purple Rain (Cơn mưa màu tím) - Tạp chí âm nhạc (rfi.fr)

Geen opmerkingen:

Een reactie posten