zaterdag 10 april 2021

Quốc Hội Mỹ đề xuất chiến lược đối phó với những « thách thức » Trung Quốc + Cạnh tranh Mỹ - Trung đã diễn ra như thế nào ? + Thực lực của quân đội Trung Quốc ra sao ?

 

Quốc Hội Mỹ đề xuất chiến lược đối phó với những « thách thức » Trung Quốc

Ảnh tự liệu chụp ngày 14/02/2019: Chuẩn bị cuộc đối thoại thương mại  Mỹ-Trung tại Bắc Kinh.
Ảnh tự liệu chụp ngày 14/02/2019: Chuẩn bị cuộc đối thoại thương mại Mỹ-Trung tại Bắc Kinh. AP - Mark Schiefelbein

Thứ Năm, ngày 08/04/2021, nhiều thượng nghị sĩ Mỹ đệ trình một dự luật giúp Hoa Kỳ đối phó với những « thách thức » do Trung Quốc đặt ra. Dự luật đặc biệt tìm cách kềm hãm nạn đánh cắp sở hữu trí tuệ và củng cố mối liên hệ giữa Washington và Đài Bắc.

AFP nhận định đây là một đồng thuận hiếm có tại Quốc Hội Mỹ, vốn dĩ bị chia rẽ sâu sắc giữa hai đảng Cộng Hòa và Dân Chủ. Dự luật mang tên « Strategic Competition Act », tạo dựng một khuôn khổ chiến lược cho quan hệ giữa Mỹ với Trung Quốc, được lãnh đạo Ủy ban Đối ngoại đảng Dân Chủ tại Thượng Viện và nhân vật số hai đảng Cộng Hòa, cùng đề xuất.

Theo mô tả của ông Bob Menendez, thượng nghị sĩ Dân Chủ, dự luật này huy động mọi công cụ chiến lược, kinh tế và ngoại giao của Mỹ để thực hiện một chiến lược Ấn Độ - Thái Bình Dương, cho phép Hoa Kỳ « thật sự đối mặt với những thách thức do Trung Quốc đặt ra cho an ninh và kinh tế » đất nước.

Dự luật yêu cầu bộ Ngoại Giao Mỹ hàng năm thiết lập một danh sách các doanh nghiệp Trung Quốc được cho là đã có hành động đánh cắp sở hữu trí tuệ gây thiệt hại cho một doanh nghiệp hay một lĩnh vực nào đó của Mỹ. Luật cũng sẽ đòi hỏi một báo cáo đánh giá về những ngược đãi nhắm vào người Duy Ngô Nhĩ như hãm hiếp, cưỡng bức phá thai, hay giam cầm tùy tiện…

Văn bản cũng sẽ tái khẳng định sự hậu thuẫn của Mỹ đối với Đài Loan, và đề nghị Washington áp dụng với chính quyền Đài Bắc « cùng một nghi thức lễ tân » như với các quốc gia khác.

Washington trừng phạt 7 thực thể Trung Quốc

Cũng trong ngày thứ Năm, 08/04, bộ Thương Mại Mỹ đưa thêm 7 doanh nghiệp Trung Quốc chuyên về siêu máy tính vào danh sách các doanh nghiệp bị trừng phạt. Washington cho rằng những doanh nghiệp này đe dọa an ninh nước Mỹ. Thông cáo của bộ Thương Mại Mỹ nêu rõ những biện pháp trừng phạt này nhằm « ngăn cản Trung Quốc lợi dụng các ngành công nghệ Mỹ để hỗ trợ những nỗ lực gây bất ổn cho việc hiện đại hóa quân sự Mỹ ».

Trung Quốc tố cáo Hoa Kỳ gây ra những thảm họa nhân đạo

Về phần mình, Bắc Kinh hôm nay, 09/04/2021, lên án các chiến dịch can thiệp quân sự nước ngoài của Mỹ đã gây ra những thảm họa nhân đạo. Tân Hoa Xã trích dẫn nội dung báo cáo do Hiệp hội Nghiên cứu Nhân quyền Trung Quốc, được chính phủ hậu thuẫn, nói rằng những cuộc chiến bên ngoài do Mỹ phát động dưới cái cớ « can thiệp nhân đạo » đã dẫn đến nhiều thương vong hàng loạt, bất ổn xã hội, khủng hoảng sinh thái, chấn thương tâm lý và nhiều vấn đề xã hội phức tạp khác. 

Hãng thông tấn chính thức của Bắc Kinh còn chỉ trích rằng « cuộc khủng hoảng nhân đạo do những chiến dịch quân sự đó gây ra bắt nguồn từ tâm lý bá quyền của Mỹ. Điều đó cho thấy rằng các thảm họa có thể tránh được chỉ khi nào Hoa Kỳ từ bỏ kiểu tư duy này được thúc đẩy bởi sự tư lợi ».

Quốc Hội Mỹ đề xuất chiến lược đối phó với những « thách thức » Trung Quốc (rfi.fr)

Cạnh tranh Mỹ - Trung đã diễn ra như thế nào ?

(Ảnh minh họa) – Cờ Mỹ và Trung Quốc tung bay phía trên lối vào một cơ quan ở Bắc Kinh, tháng 01/2020.
(Ảnh minh họa) – Cờ Mỹ và Trung Quốc tung bay phía trên lối vào một cơ quan ở Bắc Kinh, tháng 01/2020. AFP/File

Trong những ngày qua, báo chí Pháp nói nhiều đến mối đe dọa của Trung Quốc đối với thế giới. Vậy quá trình vươn mình của Trung Quốc trên trường quốc tế, nhất là cuộc đọ sức với Mỹ diễn ra như thế nào trong những thập kỷ qua ?

RFI Việt ngữ lược dịch bài phỏng vấn nhà nghiên cứu Nadège Rolland, chuyên gia về chính trị và an ninh châu Á, thuộc Văn phòng quốc gia về nghiên cứu châu Á, trụ sở tại Seattle và Washington. Bài viết được đăng trên báo Pháp Libération ngày 26/05/2020.

Sự cạnh tranh giữa chế độ Cộng Sản Trung Quốc và Hoa Kỳ có từ khi nào?

Vào năm 1949, khi Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa ra đời, Mỹ cạnh tranh với Nga nhiều hơn là với Bắc Kinh. Đối với Washington, sự sụp đổ của Liên Xô năm 1991 đã đánh dấu chiến thắng của chủ nghĩa tự do. Sau ba mươi năm theo chủ nghĩa Mao, Trung Quốc là một « chú lùn » về kinh tế, nên thực sự không nằm trong tầm ngắm của Mỹ. Trái lại, Bắc Kinh coi Hoa Kỳ là đối thủ, vì Mỹ là đại diện của tự do hóa và dân chủ hóa trên toàn thế giới. Trung Quốc quyết định kín đáo củng cố sức mạnh để chuẩn bị cho một cuộc xung đột trong tương lai. Cải cách được đưa ra, với các yếu tố tư bản, nhưng chế độ vẫn giữ quyền kiểm soát.

Việc gia nhập Tổ Chức Thương Mại Thế giới (WTO) năm 2001 là một đòn bẩy cho Bắc Kinh trên trường quốc tế. Các công ty nước ngoài, bị mê hoặc bởi thị trường Trung Quốc khổng lồ, đã đầu tư, chuyển giao công nghệ cho Trung Quốc. Phương Tây tưởng rằng khi họ giúp Trung Quốc hội nhập quốc tế, Bắc Kinh sẽ tự do hóa chính trị và tầng lớp trung lưu mới sẽ đòi hỏi nhiều quyền tự do hơn. Bắc Kinh cũng đưa ra một số đảm bảo, cho các địa phương nhiều quyền tự do dân chủ hơn. Đã có nhiều căng thẳng song phương giữa Mỹ và Trung Quốc, nhưng sau vụ 11/09/2001, Hoa Kỳ bị cuốn vào cuộc chiến chống khủng bố và không còn chú ý đến khu vực châu Á-Thái Bình Dương.

Khi nào Trung Quốc cảm thấy đã đến thời?

Vào năm 2008, Thế Vận Hội Bắc Kinh là một dấu ấn quan trọng. Cuộc khủng hoảng tài chính quốc tế đã giáng một đòn mạnh vào các nền kinh tế phương Tây. Đối với Trung Quốc, Mỹ đã bắt đầu suy tàn, kéo theo cả hệ thống tư bản và tự do. Bắc Kinh đàn áp Tân Cương và Tây Tạng, đi những nước cờ ở Biển Đông, thấy rằng Hoa Kỳ và Châu Âu không có bất kỳ phản ứng nào. Đó là chính sách tiến từng bước nhỏ. Vào năm 2012, Tập Cận Bình lên nắm quyền. Nhiệm vụ của ông ta là tăng tốc mọi thứ. Ông Tập đã đề xuất kế hoạch Con đường tơ lụa mới và Made in China 2025, nhằm đưa Trung Quốc dẫn đầu thế giới về tất cả các lĩnh vực công nghệ.

Hoa Kỳ đã phản ứng ra sao ?

Mỹ đã không tính đến sự phát triển của hệ thống chính trị Trung Quốc và tiếp tục coi họ là đối tác thương mại. Thời Obama là thời Mỹ do dự, chần chừ. Mục tiêu của chính quyền Obama không phải là gây ra những cơn sóng, mà là nối lại quan hệ. Vào năm 2015, Tập Cận Bình đã đến California trấn an Mỹ, bảo  đảm không có gián điệp mạng. Hai năm sau, chiếc mặt nạ rơi xuống. Năm 2017, ông tuyên bố sự ra đời của một "kỷ nguyên mới", sự tái sinh của cường quốc Trung Hoa vĩ đại nhất trong lịch sử. Lãnh đạo họ Tập đề xuất với các nước đang phát triển chọn mô hình chuyên quyền Trung Quốc thay cho mô hình dân chủ tự do. Nhiệm kỳ lãnh đạo của ông trở nên không giới hạn.

Liệu có khả năng xảy ra xung đột quân sự Mỹ - Trung ?

Kể từ năm 1949, Đài Loan luôn là một vấn đề lớn đối với chế độ Cộng Sản Trung Quốc. Năm 1996, Bắc Kinh đã hướng hàng ngàn tên lửa đến hòn đảo này, còn tổng thống Mỹ khi đó là Bill Clinton đã gửi một tàu sân bay tới eo biển Đài Loan. Ưu thế quân sự của Mỹ là hoàn toàn áp đảo, và ngay cả khi hiện đại hóa trong tất cả các lĩnh vực, Trung Quốc vẫn còn thua xa Mỹ. Nhưng châu Á-Thái Bình Dương là sân nhà của quân đội Trung Quốc, và các chiến lược gia của Bắc Kinh từ lâu đã tìm cách cản trở Hải Quân Mỹ đến khu vực này.

Hoa Kỳ có nhiều căn cứ quân sự trong vùng, nhưng chỉ với vài chục ngàn quân. Trong trường hợp xảy ra xung đột, quân Mỹ sẽ phải vượt qua cả Thái Bình Dương mới đến nơi. Bắc Kinh đang chơi một trò chơi cực kỳ nguy hiểm, nhưng có thể phạm sai lầm khi tính toán. Bởi vì theo Đạo luật quan hệ Đài Loan 1979, Washington vẫn cam kết để bảo vệ hòn đảo. Thực tế là mô hình dân chủ Đài Loan đã nổi bật trở lại trong giai đoạn dịch bệnh, và điều này rất quan trọng đối với công luận Mỹ. Nếu can thiệp vào xung đột, Washington sẽ phải làm rất nhiều công tác chuẩn bị hậu cần, nhưng không phải là không thể.

Khủng hoảng Covid-19 đóng vai trò thúc đẩy ?

Mỹ đã bắt đầu thảo luận về « phân ly kinh tế ». Nhưng Covid-19 đã cho thấy Mỹ phụ thuộc vào Trung Quốc trong nhiều lĩnh vực, kể cả dược phẩm. Hoa Kỳ sẽ không thể tự sản xuất mọi thứ, họ tìm cách xích lại gần các quốc gia mà họ tin tưởng. Nhưng không thể tái lập dây chuyền sản xuất hàng hóa trong ngày một ngày hai. Về phía Bắc Kinh, sự phân ly kinh tế đã bắt đầu. Trong tất cả các lĩnh vực, Trung Quốc đã dần dần hạn chế sự xâm nhập của nước ngoài vào lãnh thổ của mình, trong khi vẫn mở rộng hoạt động trên lãnh thổ các nước khác.

Trung Quốc bao bọc mạng internet bằng bức tường lửa không thể bị xuyên thủng, nhưng lại sử dụng mạng thông tin toàn cầu vì lợi ích của chế độ. Bắc Kinh hạn chế các công ty phương Tây xâm nhập thị trường Trung Quốc, nhưng lại yêu cầu các nước khác phải mở thị trường cho Trung Quốc. Bắc Kinh làm chậm sự lan tỏa của các tư tưởng phương Tây, nhưng ồ ạt truyền bá ý thức hệ của họ để làm suy yếu các giá trị phổ quát. Đã đến lúc phương Tây ngưng mù quáng.

Hậu quả cuộc đấu tay đôi này đối với châu Âu?

Trong thâm tâm, châu Âu hy vọng sẽ được hưởng lợi kinh tế từ Trung Quốc và sự bảo vệ chiến lược và quân sự của Mỹ. Áp lực từ cả hai phía đều rất lớn. Châu Âu sẽ có những lựa chọn khó khăn. Châu Âu từng nghĩ rằng cuộc đấu đang diễn không liên quan trực tiếp đến mình, nhưng dịch bệnh lại cho thấy số phận châu Âu nằm trong tâm cuộc đấu tay đôi của hai người khổng lồ. Châu Âu có liên minh quân sự với Hoa Kỳ, những lợi ích kinh tế và công nghệ cần được bảo vệ và châu Âu cần các đối tác là những chế độ dân chủ và không độc đoán, ít tham nhũng, minh bạch hơn, những quốc gia mà châu Âu chia sẻ hy vọng hòa bình, ổn định và giao thương cân đối.

Toàn cầu hóa đã thu hẹp phạm vi địa lý, và mối đe dọa Trung Quốc hiện đang rất gần. Giờ không còn là lúc ngồi xỗm trên các giá trị căn bản của để tiếp cận thị trường Trung Quốc và nhập khẩu các sản phẩm giá rẻ. Các nền dân chủ phải hợp tác với nhau để tái liên kết các nền kinh tế, đẩy lùi những bước tiến của Trung Quốc trong xã hội của họ và ở các nước thứ ba. Chúng ta đã mất rất nhiều thời gian, và điều đó đòi hỏi chúng ta phải có ý chí chính trị mạnh mẽ.

Cạnh tranh Mỹ - Trung đã diễn ra như thế nào ? (rfi.fr)

Thực lực của quân đội Trung Quốc ra sao ?

Ảnh minh họa. Một chiến đấu cơ Thẩm Dương-11 (Shenyang J-11) của Không quân Trung Quốc.
Ảnh minh họa. Một chiến đấu cơ Thẩm Dương-11 (Shenyang J-11) của Không quân Trung Quốc. © Wikipedia common

Từ vụ đụng độ với Ấn Độ trên dãy Himalaya, làm thiệt mạng 20 binh sĩ Ấn, cho đến những căng thẳng xung quanh Đài Loan và Biển Đông, Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (APL), khiến các nước láng giềng lo lắng, e sợ rằng quân đội Trung Quốc sẽ tận dụng lợi thế chiến lược mà đại dịch Covid-19 sẽ đem lại cho Trung Quốc.

Tuy nhiên, sử gia Benjamin Lai trả lời phỏng vấn tuần báo Pháp Le Point nhắc rằng các lực lượng quân đội Trung Quốc vẫn chưa thể bắt kịp các chậm trễ công nghệ và giải quyết được các vấn đề cơ cấu so với quân đội các nước phương Tây, đặc biệt là Hoa Kỳ.

Từng là cựu quân nhân dự bị Hồng Kông cho quân đội Hoàng gia Anh, ông Benjamin Lai nghiên cứu kỹ từng biến đổi gia tăng của APL mà ông đề cập đến trong nhiều tập sách (Dragon's Teeth, The Casemate, 2016 và The Chinese People's Liberation Army since 1949, Osprey Publishing, 2012). Như ông quan sát từ Thượng Hải ngày nay, nền quốc phòng Trung Quốc vẫn đang trong giai đoạn chuyển đổi. Trong trào lưu chiến dịch chống tham nhũng của Tập Cận Bình, quân đội Trung Quốc buộc phải cắt giảm lực lượng bộ binh cồng kềnh, và kể từ giờ tìm cách xây dựng lực lượng hải quân và không quân có khả năng tác chiến xa, bên ngoài biên giới quốc gia.

RFI Tiếng Việt xin giới thiệu bài phỏng vấn giữa Le Point và nhà sử học Benjamin Lai. Mời quý vị theo dõi.

Le Point : Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (APL) được cho là một đội quân đông đảo nhất thế giới với khoảng 2,18 triệu quân nhân. Tại sao quân đội Trung Quốc chưa là một quân đội hùng mạnh nhất thế giới ?

Benjamin Lai : Người ta không đánh giá một quân đội chỉ bằng các con số. Số lượng không là chất lượng, cũng không phải là điều có ích. Nước Pháp năm 1940 có nhiều xe tăng hơn Đức nhưng vẫn bại trận. Trên thực tế, Trung Quốc không ngừng giảm bớt quân số các binh chủng, đặc biệt là bộ binh, theo truyền thống là có quân số đông nhất, và ngày nay, ưu tiên được dành cho hải quân và không quân. Ngoài ra, APL còn bao gồm cả những quân nhân mà phương Tây xem như là dân sự : Đó là những họa sĩ, nhà văn, diễn viên múa và ca sĩ, và thậm chí cả người dẫn chương trình TV… Nhiều quân y viện cũng mở cửa cho các thường dân, và cả các nhà khoa học nữa. Rất nhiều nhà xưởng sản xuất vũ khí nằm trong hệ thống của APL và các nhân viên chủ chốt của họ được xem như là những ʺngười línhʺ.

Ngoài ra, cũng đừng quên diện tích to lớn của Trung Quốc, đây là một đất nước rất rộng. Với 9,5 triệu km2, lớn hơn nước Pháp đến 14 lần. Nhưng quân đội Trung Quốc cũng chỉ đông hơn quân đội Pháp có 8 lần, vốn chỉ có 268.000 người bao gồm cả khối dân sự. Nếu so sánh với tầm mức của Trung Quốc, quân đội nước này không mấy gì đông đảo. Cuối cùng, quân đội Trung Quốc là quân đội bao gồm lính nghĩa vụ, trong khi quân đội Pháp là quân đội chuyên nghiệp. Các quân đội lính nghĩa vụ thường đông hơn các quân đội lính tình nguyện chuyên nghiệp có đào tạo. Lính nghĩa vụ của Trung Quốc hầu như không được trả lương. Họ được nuôi ăn, ở, nhưng không cần phải đãi ngộ tốt như những người theo nghiệp nhà binh với đầy đủ các tiện nghi hiện đại…

Phải chăng Quân đội Giải phóng Nhân dân đã đạt được một trình độ công nghệ có thể tương đương với phương Tây, đặc biệt là với Hoa Kỳ ?

Trên phương diện công nghệ thì Không. Trung Quốc vẫn đứng sau Hoa Kỳ rất xa, cho dù là quân đội nước này càng ngày càng khá hơn. Quân đội Trung Quốc có cùng cấp độ hoặc tiến bộ hơn một chút trong một số lĩnh vực, rất hạn chế. Trong lễ diễu binh ngày 01/10/2019, người ta đã có thể nhìn thấy chiếc máy bay siêu thanh DF-ZF, một tên lửa hành trình siêu thanh rất tiên tiến, có lẽ là hiện đại hơn cả tên lửa của Hoa Kỳ. Trung Quốc còn nghiên cứu chế tạo cả railgun – một loại đại pháo điện từ và có thể là đang dẫn trước trong việc phát triển loại vũ khí này.

Nhưng quân đội Trung Quốc đặc biệt yếu về công nghệ tầu ngầm và chống tầu ngầm, cũng như là trong việc sản xuất động cơ hàng không. Hệ quả là, các chiến đấu cơ của Trung Quốc không đủ mạnh. Quân đội Trung Quốc cũng yếu về hàng không mẫu hạm. Nước này chỉ có hai chiếc. Đúng hơn là một chiếc rưỡi vì Trung Quốc chỉ mới đang học cách sử dụng. Năng lực triển khai quân xa của Trung Quốc vẫn còn thấp. Các lực lượng của Trung Quốc chưa thể đi quá xa ngoài lãnh thổ. Dù là họ đã có nhiều tiến bộ trong lĩnh vực này.

Hồi tháng 4/2020, Trung Quốc đã cho hạ thủy một tầu tấn công đổ bộ mới, Type 75, một bãi đáp đổ bộ cho trực thăng. Họ cũng đã nâng cấp chiếc máy bay vận tải hạng nặng, Y-20, chiếc đầu tiên thuộc loại này của Trung Quốc. Tuy nhiên, hệ thống công nghiệp – quân sự của Trung Quốc có một lợi thế so với phương Tây, đó là tất cả các linh kiện mà họ sử dụng đều được sản xuất tại Trung Quốc.

Về mặt luyện tập, quân đội Trung Quốc liệu có cùng trình độ với phương Tây ?

Liên quan đến chương trình luyện tập, Trung Quốc có một vấn đề, đó là từ năm 1980, họ không có tham chiến vào một cuộc chiến nào. Trong khi đó người Mỹ không ngừng chiến đấu kể từ năm 1945. Giờ bay của phi công Trung Quốc ít hơn phi công Mỹ. Và các tướng lĩnh Trung Quốc ít sáng tạo hơn trong các cuộc luyện tập, thường hay theo sát một kế hoạch đã được lập trước. Nhưng điều này đang có những thay đổi nhanh chóng. Năm 2012, Trung Quốc cho thiết lập lực lượng đối kháng riêng của mình, phỏng theo mô hình Opfor của Mỹ, một đơn vị chuyên đóng vai kẻ thù trong các cuộc luyện tập.

Quân đội Trung Quốc đã xây một căn cứ rất lớn dành cho luyện tập quân sự tại vùng Nội Mông, trại Chu Nhật Hòa (Zhu Ri He), rộng hơn 1.000 km2. Trung Quốc giờ cũng chuyển sang luyện tập theo kiểu phương Tây, tức là không luyện tập theo một chương trình định sẵn từ trước mà sử dụng trí não là chính. Trong một bộ phim tài liệu mới đây về Opfor Trung Quốc, viên chỉ huy của lực lượng này giải thích rằng trong số 7 đợt luyện tập, ông ta đánh bại những kẻ tấn công Trung Quốc đến 6 lần. Điều này cho thấy là quân đội Trung Quốc vẫn chưa mấy đổi mới trong các phương thức chiến đấu.

Ngân sách của APL cho năm 2020 dự kiến tăng 6,6% dù là kinh tế trì trệ. Tại sao ? Phải chăng là Trung Quốc đang chuẩn bị bị tấn công như một số truyền thông phương Tây khẳng định khi trích dẫn một báo cáo bí mật của hội đồng tham vấn CICIR ?

Tôi không mấy tin vào những thông tin rò rỉ giả mạo đó. Ở Trung Quốc, loại thông tin như vậy không được tiết lộ ra ngoài. Tốt hơn hết nên nhớ rằng kể từ năm 1949, Trung Quốc chưa bao giờ được yên tĩnh cả. Lúc nào cũng có những mối đe dọa, tranh chấp với Liên Xô, xung đột với Đài Loan và Hoa Kỳ đứng ở phía sau, và thậm chí là các cuộc chiến tranh biên giới, tại Triều Tiên và ở Việt Nam… Chính vì lý do này mà Trung Quốc chú trọng đến chính sách phòng thủ. Bây giờ thì tranh chấp biên giới đã được giải quyết với Nga và các nước thuộc Liên Xô cũ, quốc gia còn lại mà Trung Quốc có tranh cãi biên giới là Ấn Độ.

Nhưng trong năm 2020 này, mối đe dọa không còn đến từ một cuộc xâm lược trên bộ nữa. Điều đó sẽ chẳng xảy ra. Các cuộc tấn công ngày nay là kinh tế và chính trị, đặc biệt là những « cuộc cách mạng màu », những cuộc nổi dậy được nước ngoài ủng hộ nhằm dẫn đến việc thay đổi chế độ như tại Libya chẳng hạn. Cuối cùng, việc tăng ngân sách quân sự thêm 6,6% cho năm 2020 trên thực tế là một sự suy giảm so với mức tăng 7,5% năm 2019. Kể từ những năm 1980, chi tiêu quân sự của Trung Quốc tương đối ổn định tỷ lệ theo GDP, dưới 2% GDP. Đơn giản là vì kinh tế Trung Quốc đã tăng rất nhiều. 2% của một chiếc bánh lớn là rất nhiều tiền.

Liệu có những lý do nội bộ nào cản trở việc giảm ngân sách hay không ?

Quân đội Trung Quốc không nắm, không điều khiển được chính phủ cũng như đảng Cộng sản. Cho dù quân đội Trung Quốc có một tầm ảnh hưởng lớn trong đảng, nhưng đảng Cộng sảng kiểm soát quân đội chứ không phải ngược lại. Các tướng lĩnh thực ra không có quyền lực ở mức có thể nói với Tập Cận Bình phải làm gì !

Để phát triển, đâu là những ưu tiên của APL hiện nay ?

Kể từ khi Tập Cận Bình lên cầm quyền, đã có những thay đổi lớn trong Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc. Ông ấy tấn công nạn tham nhũng. Điều này có thể thấy rõ trong giai đoạn 2014 – 2016, ít thấy hơn trong 2019 – 2020. Giang Trạch Dân đã bổ nhiệm những tay chân thân tín để lãnh đạo quân đội và ông ấy vẫn còn kiểm soát Trung Quốc trong hậu trường khi Hồ Cẩm Đào là chủ tịch nước. Giang Trạch Dân vẫn là chủ tịch Quân Ủy Trung Ương trong suốt bốn năm đầu Hồ Cẩm Đào đứng đầu Nhà nước. Trong suốt những năm đó, ông ta đã đặt bạn bè của ông ta vào những vị trí chủ chốt trong quân đội. Điều này đã làm cho quân đội trở nên bị tham nhũng nặng, một số người còn mua cả chức vụ và bậc hàm. Nhiều sĩ quan điều hành đơn vị của họ như là những tiểu vương quốc của cá nhân. Một số người vẫn giữ nhà công vụ, trị giá đôi khi hàng triệu đồng sau khi rời khỏi vị trí. Số khác thì lén lút cho người ngoài thuê tài sản của quân đội, để xây nhà ở, khách sạn hay điểm kinh doanh, như ở đây Thượng Hải chẳng hạn, các bãi đỗ xe của các viện quân y từ lâu trở thành các cửa hiệu.

Tôi cũng không nói là APL giờ hoàn toàn không còn nạn tham nhũng nữa, nhưng tệ nạn này kể từ giờ có quy mô nhỏ hơn. Thật sự là rất khác so với cách nay 5 năm theo như những mối quen biết của tôi trong quân đội và ngành công nghiệp quân sự cho biết. Không còn những bữa dạ tiệc, không còn rượu cognac trong các bữa ăn của các sĩ quan ! Tập Cận Bình đã sa thải những ai không tuân thủ ông ấy và những kẻ tham nhũng, đồng thời nắm lại quyền kiểm soát quân đội, cho phép ông khởi động một chương trình cải cách trong Quân Ủy Trung Ương, và bốn bộ chỉ huy của ông ta, chính trị, hậu cần, vũ khí và nhân sự. Ông ta đã giảm số quân khu từ 7 xuống còn 5. Tập Cận Bình còn thành lập một nhánh mới của quân đội : Lực lượng hỗ trợ chiến lược, có khả năng tiến hành chiến tranh mạng. Hải quân đóng nhiều tàu chiến mới. Không quân cũng đang chuyển các chiến đấu cơ từ hệ thứ 4 sang thứ 5.

Nhưng vì quân đội Trung Quốc rất lớn, mọi sự thay đổi trang thiết bị đòi hỏi nhiều thời gian. Họ vẫn còn cho bay các chiếc J-7 đời cũ, tương đương với loại Mig-21 cũ, các loại chiến đấu cơ thời Chiến Tranh Lạnh, và họ còn sử dụng các chiếc xe tăng đời thứ nhất, T-59, một bản sao của xe tăng Liên Xô T-54, có từ năm 1954 ! Hơn nữa, những loại vũ khí mới đắt hơn rất nhiều : Chiếc T-59 giá chỉ vừa 30.000 đô la, xe tăng đời mới T-99MBT giá hơn hai triệu đô la/chiếc. Tiền lương cho lính đã được cải thiện, các doanh trại cũng vậy, và giờ có thể tiếp đón các gia đình binh sĩ. Sau cùng, APL bắt đầu mở cửa cho phép các công ty tư nhân cung cấp hậu cần như SF Express chẳng hạn.

Những vụ va chạm ở biên giới gần đây với Ấn Độ trên dãy Himalaya được nói đến như thế nào tại Trung Quốc ?

Trên các kênh truyền thông có rất ít giải thích. Nhìn từ góc độ lịch sử, Trung Quốc chưa bao giờ công nhận đường kiểm soát thực sự, nơi mà quân đội hai bên dừng lại vào cuối cuộc chiến năm 1962, và Ấn Độ xem như là biên giới của họ. Tại sao ư ? Bởi vì trước đây, Trung Quốc chưa bao giờ ký kết chấp nhận đường ranh giới Mac Mahon, được thỏa thuận vào năm 1914 giữa Anh Quốc và người Tây Tạng. Chính phủ Trung Quốc không công nhận Tây Tạng như là một đất nước tự do. Một chính quyền địa phương không có thẩm quyền ký kết các thỏa thuận. Bây giờ Ấn Độ tố cáo Trung Quốc xâm nhập vào lằn ranh này. Chúng ta đang trở lại với vấn đề của thế kỷ XIX.

Phải chăng Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc mạnh hơn quân đội Ấn Độ như một số nhà bình luận có nói đến ?

Trung Quốc vượt trội trên phương diện vũ khí, nhưng chủ yếu là có lợi thế địa hình chiến lược. Đầu tiên, Tây Tạng nằm ở phía trên cao, Ấn Độ thì ở phía dưới. Hơn nữa, cơ sở hạ tầng của Trung Quốc tốt hơn rất nhiều, như tàu hỏa, đường bộ, viễn thông… Trung Quốc có thể vận chuyển quân và tiếp tế cho họ nhanh hơn rất nhiều. Ấn Độ cố gắng bù đắp điều này bằng cách trang bị các chiếc máy bay vận tải của Mỹ như chiếc C-17 Globemaster. Nhưng quân đội Ấn Độ cũng bị bất lợi do thiếu sự phối hợp tập trung. Các lực lượng vũ trang của Ấn Độ có đến 17 loại súng khác nhau, được mua từ Mỹ, Úc, Israel… Làm đau đầu ban quân nhu ! Tiểu liên INSAS do Ấn Độ chế tạo chưa bao giờ được sản xuất hàng loạt, và cảnh sát Ấn Độ lại rất ưng loại AK-47. Dẫu sao thì Ấn Độ cũng có một lợi thế đáng kể, đó là các đội quân sơn cước của họ có nhiều kinh nghiệm chiến đấu, chống quân đội Pakistan trên cao nguyên. Ấn Độ có thể lấy lại thế thắng đó nhưng dường như vẫn chưa làm được điều đó.

Ông Kiều Lương (Qiao Liang), một chiến lược gia Trung Quốc gần đây có đánh giá rằng tiến hành xâm lược Đài Loan có lẽ sẽ « trả giá đắt ». Tại sao ông ấy nói như thế ? Có phải là vì sẽ phải đối đầu với một liên minh phương Tây ? Hay bởi vì APL không có khả năng tiến hành một chiến dịch đổ bộ như thế mà không bị tổn thất nặng nề ?

Ông Kiều Lương là giáo sư tại Học Viện Quân Sự và là tác giả thuộc APL. Những gì ông ấy nói không phải là đúng. Hơn nữa, đó cũng không phải là lập trường chính thức của APL, cũng như là của Tập Cận Bình. Dù sao, như cuộc xâm lược Irak của Hoa Kỳ đã minh chứng rõ, vấn đề không phải là thắng trận, mà là có được hòa bình. APL có lẽ sẽ chẳng gặp vấn đề gì khi đè bẹp quân đội Đài Loan. Nhưng người dân Đài Loan sẽ có phản ứng ra sao nếu như nhà cửa của họ bị phá hủy và nếu như họ bị mất người thân ?

Trung Quốc muốn sáp nhập Đài Loan trở về với mẫu quốc, nhưng lựa chọn quân sự không là một giải pháp. Tốt hơn hết là nên dùng đòn kinh tế và chính trị, với một chút xíu dọa nạt quân sự. Một cuộc phục kích nhỏ là rất có khả năng. Tàu chiến Đài Loan rất có thể sẽ bị phá hủy. Các hòn đảo đối diện với Hạ Môn (Xiamen) như đảo Kim Môn (Jinmen) rất có thể sẽ bị xâm chiếm hoàn toàn để cho thấy rõ là Trung Quốc có thể nghiền nát Đài Loan một cách dễ dàng. Nhưng người ta sẽ không được thấy một cuộc đổ bộ hùng hậu như D-Day tại vùng Normandie của Pháp. Người ta nghĩ nếu như vậy thì giống cách nay 70 năm, họ đã xem quá nhiều phim chiến tranh.

Cuối cùng, tôi không nghĩ rằng quân đội Trung Quốc khiếp hãi trước những tổn thất đáng kể. Trung Quốc không là một nền dân chủ phương Tây. Những người đang điều hành Trung Quốc chẳng phải được bầu lên mỗi bốn năm. Họ không lo lắng cho những tổn thất đó. Năm 1979, Trung Quốc mất rất nhiều binh sĩ trong cuộc chiến chống Việt Nam. Nhưng điều đó không quan trọng đối với Trung Quốc, bởi vì nước này đã đạt được mục tiêu chiến lược của mình.

Mục tiêu khi ấy là không còn tranh chấp biên giới với Việt Nam nữa, để khởi xướng kế hoạch mở cửa kinh tế của Đặng Tiểu Bình. Việt Nam trở thành một vấn đề (đối với Trung Quốc) vì lúc đó, Việt Nam nghĩ rằng sẽ có được sự ủng hộ của người anh cả Liên Xô. Nhưng Liên Xô đã không đến hỗ trợ như là Hoa Kỳ từng đến cứu Israel năm 1973. Việt Nam hiểu ra rằng nếu cuộc chiến kéo dài, họ sẽ thua. Về mặt chiến thuật, Trung Quốc thua nhưng nước này lại thắng cuộc tranh luận chiến lược.

Những lực lượng nào của quân đội Trung Quốc hiện diện tại vùng Biển Đông ?

Những hòn đảo ở Biển Đông rất là nhỏ, diện tích chỉ bằng một hay hai sân đá bóng. Các căn cứ quân sự của Trung Quốc ở đó chỉ để hỗ trợ hậu cần, để cho tàu bè và phi cơ được tiếp liệu. Các lực lượng chính nằm ở đảo Hải Nam, gắn liền với lục địa. Căn cứ quân sự chính là căn cứ hải quân Du Lâm (Yulin). Chắc chắn đó là nơi neo đậu các tầu ngầm hạt nhân của Trung Quốc. Trên các đảo đá ở Biển Đông chỉ là những tiền đồn mà thôi !

Một ngày nào đó, phải chăng hải quân Trung Quốc rất có thể sẽ thống trị hải quân Mỹ như một số người tin như thế ?

Đây là một câu hỏi khó. Nếu đối đầu xảy ra gần bờ biển Trung Quốc, hải quân của APL có lợi thế. Lực lượng này sẽ được bảo vệ bởi một dàn tên lửa rất hiệu quả đặt trên đất liền. Nhưng ở xa Trung Quốc thì hải quân nước này bị mất lợi thế đó. Hơn nữa, các tầu chiến của Trung Quốc sẽ gặp khó khăn trong việc tiếp liệu nếu đi quá xa Trung Quốc. Chính vì điều này mà Bắc Kinh quyết định mở một căn cứ quân sự tại Djibouti. Trong 20 năm nữa, Trung Quốc có thể sẽ có khả năng điều tầu chiến đi xa hơn. Nhưng Trung Quốc không có lợi lộc gì tại Địa Trung Hải, như  là ở Ấn Độ Dương, bờ đông châu Phi và tại Đông Nam Á.

Thực lực của quân đội Trung Quốc ra sao ? (rfi.fr)

Geen opmerkingen:

Een reactie posten