THỨ SÁU 27 THÁNG SÁU 2014
Nguồn gốc khai sinh dòng nhạc bolero cubano
Các đôi nhảy cặp nhân một buổi khiêu vũ ngoài trời tại Pháp - Reuters
Chương trình RFI hôm nay được dành để nói về thể điệu bolero. Ngoài hai liên khúc mà RFI hoà âm lại gồm các bản nhạc nổi tiếng nhất, còn có Tristezas, nguyên là bản bolero đầu tiên được viết vào năm 1883. Trong vòng nhiều thập niên, đã có một sự nhầm lẫn về nguồn gốc bolero. Tuy có cùng một tên gọi, nhưng chữ bolero lại thể hiện hai điều khác hẳn nhau.
Chữ bolero là một vũ điệu truyền thống của Tây Ban Nha, khai sinh vào cuối thế kỷ XVIII. Còn tại Cuba, bolero là một trường phái âm nhạc ra đời vào cuối thế kỷ XIX. Phạm trù và ngữ cảnh giúp cho ta phân biệt một bên là vũ điệu của vương triều Tây Ban Nha, còn bên kia là điệu nhạc dân gian đến từ Cuba. Tại Tây Ban Nha, người đầu tiên định hình bolero như một điệu vũ hàn lâm là vũ sư Sebastián Lorenzo Cerezo.
Nhờ ông Sebastián Lorenzo Cerezo mà vũ điệu bolero trở nên thịnh hành dưới triều vua Charles đệ tam (trị vì từ năm 1759 đến 1788). Theo các nhà nghiên cứu, về mặt ngữ vựng, bolero có lẽ xuất phát từ chữ volero, biệt danh của vũ sư Tây Ban Nha do mỗi lần biểu diễn các điệu nhảy, ông thường lã lướt tung bay như thể gót chân tha thướt nhẹ nhàng không bao giờ chạm đất.
Tuy cách viết khác biệt, nhưng trong tiếng Tây Ban Nha hai chữ b và v đều có lối phát âm y hệt như nhau. Và khi đem ra so sánh với thể điệu khiêu vũ bolero mà ta thường thấy bây giờ, thì vũ điệu hàn lâm theo nghi thức truyền thống của Tây Ban Nha ít có liên quan gì với điệu nhảy cặp thời nay (khiêu vũ xã hội). Nói cho chính xác, thì theo cách phân loại thời nay, người ta nhảy điệu rumba trên nền nhạc bolero.
Chữ bolero xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1794 trong quyển sách biên khảo về nghệ thuật bolero trong vương triều Tây Ban Nha ‘’La Bolerologia … en la corte de España’’ của tác giả Juan Jasinto Rodríguez de Calderón. Năm năm sau (1799), đến phiên nhà nghiên cứu Juan Antonio Iza Zamácola phát hành một quyển sách khác nói về vũ điệu hàn lâm bolero. Cả hai tác giả đều đồng ý trên một điểm, bolero biến hóa từ vũ điệu seguidilla (tiếng Pháp gọi là séguédille hoặc séquidille), nguyên là một điệu nhảy truyền thống có từ thế kỷ XVII của vùng Andalucia.
Bất cứ điệu vũ nào cũng cần có tiếng nhạc và người đầu tiên sáng tác nhạc cho vũ điệu hàn lâm bolero là nghệ sĩ tây ban cầm cổ điển Fernando Ferandiere (1740-1816), mở đường sau này cho tác giả Manuel de Falla (1876-1946), một trong bốn gương mặt Tứ Quý của làng nhạc Tây Ban Nha. Lối sáng tác này gợi hứng sau đó cho nhiều nhà soạn nhạc cổ điển, điển hình là Frederic Chopin (1810-1849) hay Maurice Ravel (1875-1937), cho dù các tác phẩm của họ dù mang tên là ‘’bolero’’ nhưng cũng chẳng ăn nhập gì với điệu nhạc bolero mà ta thường nghe thời nay.
Nói như vậy thì điệu nhạc bolero mà ta thường nghe xuất phát nơi đâu và từ bao giờ ? Nếu xét đơn thuần về thể loại âm nhạc, thì trường phái bolero nẩy sinh từ Cuba vào cuối thế kỷ XIX và hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng nó có cùng một cội nguồn với điệu nhạc trova, một thể loại ‘‘du ca’’ của Tây Ban Nha. Cha đẻ của dòng nhạc bolero cubano là nhạc sĩ đàn ghi ta José Sánchez (1856 – 1918), mà nhiều người gọi một cách thân mật là Pepe Sánchez.
Sinh trưởng tại Santiago de Cuba, José Pepe Sánchez xuất thân từ một gia đình nghèo, không được cho ăn học tới nơi tới chốn, cho nên ông chọn học nghề thợ may. Nhờ có năng khiếu âm nhạc và lỗ tai rất thính, ông tự học nhạc bằng cách mò mẫm chơi đàn, ông sáng tác rất nhiều ca khúc nhưng tất cả đều là chơi thuộc lòng, chứ không có bài nào được ghi chép một cách bài bản. Chính cũng vì vậy mà sau ngày ông qua đời, có rất nhiều bài hát bị lãng quên, do không được lưu trữ qua dàn bè, qua văn bản.
Theo nhà nghiên cứu Luis Antonio trong quyển sách nói về lịch sử của dòng nhạc bolero tại Cuba (Historia del bolero cubano), bản nhạc bolero đầu tiên trên thế giới ra đời vào năm 1883 do chính José Pepe Sánchez sáng tác mang tựa đề ‘’Me Entristeces, Mujer’’ mà sau này người ta thường hay gọi một cách ngắn gọn là ‘’Tristezas’’ (Những nỗi buồn).
Bản nhạc này được diễn lần đầu tiên vào giữa thập niên 1880 trong ban nhạc Santiagueros Trovadores Quintet, gồm tổng cộng là 5 thành viên, ngoài nhà sáng lập José Pepe Sánchez còn có tay đàn Emiliano Blez, Pepe Figarola và hai anh em nhạc sĩ Ferrer và Luis Felipe Bernabe Portes. Nhưng mãi đến gần nửa thế kỷ sau bài hát mới được ghi âm trên đĩa nhựa.
Khai sinh từ Cuba, dòng nhạc bolero sau đó đã nhanh chóng lan tỏa ra nước ngoài và bén rễ tại các quốc gia Nam Mỹ và ở vùng biển Caribê, tiêu biểu nhất là Puerto Rico. Riêng tại Mêhicô, dòng nhạc bolero chính thức ra đời vào đầu những năm 1920, thời mà các tác giả Trung Mỹ lao vào phong trào sáng tác theo thể điệu này. Bản nhạc bolero đầu tiên nổi tiếng trên khắp Nam Mỹ là bài Lágrimas Negras do nhạc sĩ Miguel Matamoros sáng tác vào năm 1929. Bản thứ nhì là bài El Manisero, ghi âm vào năm 1930, cả hai bài này phá kỷ lục số bán với hơn một triệu bản.
Còn trên toàn thế giới bài bolero nổi tiếng đầu tiên nhờ các phiên bản chuyển dịch là nhạc phẩm Quiéreme Mucho của Gonzalo Roig sáng tác vào năm 1931, tức là một thập niên trước Besame Mucho của Consuelo Velázquez. Trước Besame Mucho cũng có nhạc phẩm Perfidia viết vào năm 1939, mà theo các nhà phê bình đánh dấu một bước ngoặt trong cách soạn nhạc bolero, từ lối soạn cấu trúc cho đến cách đặt ca từ.
Sức hấp dẫn của bolero không chỉ nằm trong giai điệu tình tứ ngọt ngào mà còn nằm trong nhịp điệu du dương lãng mạn, có thể hoà quyện nuôi dưỡng nhiều dòng nhạc khác để cho ra đời latin jazz, bolero són, bolero salsero, bolero ranchero … Một khi lên ngôi nhờ các bài hát như Besame Mucho (1941) và Historia de un Amor (1955) mỗi bài đều có hàng ngàn phiên bản ghi âm, dòng nhạc bolero trải qua một thời kỳ huy hoàng trong nhiều thập niên liền.
Cho dù dòng nhạc bolero sau đó có phần thoái trào tùy theo thị hiếu của khán thính giả, nhưng điệu nhạc bolero của người La Tinh vẫn tiếp tục làm cho bao tâm hồn nhức nhối suy ngẫm, bao trái tim thổn thức say đắm, bất kể những thăng trầm của dòng đời tháng năm.
Nhờ ông Sebastián Lorenzo Cerezo mà vũ điệu bolero trở nên thịnh hành dưới triều vua Charles đệ tam (trị vì từ năm 1759 đến 1788). Theo các nhà nghiên cứu, về mặt ngữ vựng, bolero có lẽ xuất phát từ chữ volero, biệt danh của vũ sư Tây Ban Nha do mỗi lần biểu diễn các điệu nhảy, ông thường lã lướt tung bay như thể gót chân tha thướt nhẹ nhàng không bao giờ chạm đất.
Tuy cách viết khác biệt, nhưng trong tiếng Tây Ban Nha hai chữ b và v đều có lối phát âm y hệt như nhau. Và khi đem ra so sánh với thể điệu khiêu vũ bolero mà ta thường thấy bây giờ, thì vũ điệu hàn lâm theo nghi thức truyền thống của Tây Ban Nha ít có liên quan gì với điệu nhảy cặp thời nay (khiêu vũ xã hội). Nói cho chính xác, thì theo cách phân loại thời nay, người ta nhảy điệu rumba trên nền nhạc bolero.
Chữ bolero xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1794 trong quyển sách biên khảo về nghệ thuật bolero trong vương triều Tây Ban Nha ‘’La Bolerologia … en la corte de España’’ của tác giả Juan Jasinto Rodríguez de Calderón. Năm năm sau (1799), đến phiên nhà nghiên cứu Juan Antonio Iza Zamácola phát hành một quyển sách khác nói về vũ điệu hàn lâm bolero. Cả hai tác giả đều đồng ý trên một điểm, bolero biến hóa từ vũ điệu seguidilla (tiếng Pháp gọi là séguédille hoặc séquidille), nguyên là một điệu nhảy truyền thống có từ thế kỷ XVII của vùng Andalucia.
Bất cứ điệu vũ nào cũng cần có tiếng nhạc và người đầu tiên sáng tác nhạc cho vũ điệu hàn lâm bolero là nghệ sĩ tây ban cầm cổ điển Fernando Ferandiere (1740-1816), mở đường sau này cho tác giả Manuel de Falla (1876-1946), một trong bốn gương mặt Tứ Quý của làng nhạc Tây Ban Nha. Lối sáng tác này gợi hứng sau đó cho nhiều nhà soạn nhạc cổ điển, điển hình là Frederic Chopin (1810-1849) hay Maurice Ravel (1875-1937), cho dù các tác phẩm của họ dù mang tên là ‘’bolero’’ nhưng cũng chẳng ăn nhập gì với điệu nhạc bolero mà ta thường nghe thời nay.
Nói như vậy thì điệu nhạc bolero mà ta thường nghe xuất phát nơi đâu và từ bao giờ ? Nếu xét đơn thuần về thể loại âm nhạc, thì trường phái bolero nẩy sinh từ Cuba vào cuối thế kỷ XIX và hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng nó có cùng một cội nguồn với điệu nhạc trova, một thể loại ‘‘du ca’’ của Tây Ban Nha. Cha đẻ của dòng nhạc bolero cubano là nhạc sĩ đàn ghi ta José Sánchez (1856 – 1918), mà nhiều người gọi một cách thân mật là Pepe Sánchez.
Sinh trưởng tại Santiago de Cuba, José Pepe Sánchez xuất thân từ một gia đình nghèo, không được cho ăn học tới nơi tới chốn, cho nên ông chọn học nghề thợ may. Nhờ có năng khiếu âm nhạc và lỗ tai rất thính, ông tự học nhạc bằng cách mò mẫm chơi đàn, ông sáng tác rất nhiều ca khúc nhưng tất cả đều là chơi thuộc lòng, chứ không có bài nào được ghi chép một cách bài bản. Chính cũng vì vậy mà sau ngày ông qua đời, có rất nhiều bài hát bị lãng quên, do không được lưu trữ qua dàn bè, qua văn bản.
Theo nhà nghiên cứu Luis Antonio trong quyển sách nói về lịch sử của dòng nhạc bolero tại Cuba (Historia del bolero cubano), bản nhạc bolero đầu tiên trên thế giới ra đời vào năm 1883 do chính José Pepe Sánchez sáng tác mang tựa đề ‘’Me Entristeces, Mujer’’ mà sau này người ta thường hay gọi một cách ngắn gọn là ‘’Tristezas’’ (Những nỗi buồn).
Bản nhạc này được diễn lần đầu tiên vào giữa thập niên 1880 trong ban nhạc Santiagueros Trovadores Quintet, gồm tổng cộng là 5 thành viên, ngoài nhà sáng lập José Pepe Sánchez còn có tay đàn Emiliano Blez, Pepe Figarola và hai anh em nhạc sĩ Ferrer và Luis Felipe Bernabe Portes. Nhưng mãi đến gần nửa thế kỷ sau bài hát mới được ghi âm trên đĩa nhựa.
Khai sinh từ Cuba, dòng nhạc bolero sau đó đã nhanh chóng lan tỏa ra nước ngoài và bén rễ tại các quốc gia Nam Mỹ và ở vùng biển Caribê, tiêu biểu nhất là Puerto Rico. Riêng tại Mêhicô, dòng nhạc bolero chính thức ra đời vào đầu những năm 1920, thời mà các tác giả Trung Mỹ lao vào phong trào sáng tác theo thể điệu này. Bản nhạc bolero đầu tiên nổi tiếng trên khắp Nam Mỹ là bài Lágrimas Negras do nhạc sĩ Miguel Matamoros sáng tác vào năm 1929. Bản thứ nhì là bài El Manisero, ghi âm vào năm 1930, cả hai bài này phá kỷ lục số bán với hơn một triệu bản.
Còn trên toàn thế giới bài bolero nổi tiếng đầu tiên nhờ các phiên bản chuyển dịch là nhạc phẩm Quiéreme Mucho của Gonzalo Roig sáng tác vào năm 1931, tức là một thập niên trước Besame Mucho của Consuelo Velázquez. Trước Besame Mucho cũng có nhạc phẩm Perfidia viết vào năm 1939, mà theo các nhà phê bình đánh dấu một bước ngoặt trong cách soạn nhạc bolero, từ lối soạn cấu trúc cho đến cách đặt ca từ.
Sức hấp dẫn của bolero không chỉ nằm trong giai điệu tình tứ ngọt ngào mà còn nằm trong nhịp điệu du dương lãng mạn, có thể hoà quyện nuôi dưỡng nhiều dòng nhạc khác để cho ra đời latin jazz, bolero són, bolero salsero, bolero ranchero … Một khi lên ngôi nhờ các bài hát như Besame Mucho (1941) và Historia de un Amor (1955) mỗi bài đều có hàng ngàn phiên bản ghi âm, dòng nhạc bolero trải qua một thời kỳ huy hoàng trong nhiều thập niên liền.
Cho dù dòng nhạc bolero sau đó có phần thoái trào tùy theo thị hiếu của khán thính giả, nhưng điệu nhạc bolero của người La Tinh vẫn tiếp tục làm cho bao tâm hồn nhức nhối suy ngẫm, bao trái tim thổn thức say đắm, bất kể những thăng trầm của dòng đời tháng năm.
http://www.viet.rfi.fr/van-hoa/20140627-nguon-goc-khai-sinh-dong-nhac-bolero
Geen opmerkingen:
Een reactie posten