Nhà văn Doãn Quốc Sỹ qua đời (1923-2025)
Nhà văn Doãn Quốc Sỹ qua đời khoảng 10 giờ sáng ngày 14-10-2025 (giờ địa phương), tại Anaheim, California, hưởng thọ 103 tuổi, truyền thông hải ngoại đưa tin.
Theo trang Doãn Quốc Sỹ, bút hiệu của ông chính là tên thật của ông. Ông sinh ngày 17-2-1923 tại xã Hạ Yên Quyết, Hà Đông, ngoại thành Hà Nội. Khi còn là thanh niên, ông từng theo Việt Minh tham gia kháng chiến chống Pháp và đã rời bỏ Việt Minh sau khi nhận ra rằng Việt Minh là tổ chức cộng sản.
Năm 1946, ông lập gia đình với bà Hồ Thị Thảo, là con gái của nhà thơ trào phúng Tú Mỡ, tức Hồ Trọng Hiếu.
Năm 1954, hiệp định Geneva chia đôi đất nước, ông đưa vợ con di cư vào Nam.
Ông Doãn Quốc Sỹ có hai sự nghiệp song song, một của nhà văn và một của nhà giáo mà ông thường nói rằng, “nhà giáo là nghề, nhà văn là nghiệp”. Trên cương vị nhà giáo, ông từng dạy tại các trường Trung Học Công Lập Nguyễn Khuyến (Nam Định 1951-1952), Chu Văn An (Hà Nội), Hồ Ngọc Cẩn (Sài Gòn 1961-1962), Trường Quốc Gia Sư Phạm Sài Gòn, Đại Học Văn Khoa Sài Gòn, Đại Học Vạn Hạnh Sài Gòn. Ông đã từng là hiệu trưởng trường Trung Học Công Lập Hà Tiên (1960-1961) và từng đi tu nghiệp về sư phạm ở Mỹ (1966-1968).
Năm 1956, trên cương vị nhà văn, ông đồng sáng lập nhà xuất bản Sáng Tạo và tạp chí văn nghệ cùng tên với nhà văn Mai Thảo, Nguyễn Sỹ Tế, Thanh Tâm Tuyền, Trần Thanh Hiệp, Duy Thanh và Ngọc Dũng mà ông gọi nhóm văn nghệ của mình là “Thất Tinh”. Ông cũng có những bài viết được đăng trên các tạp chí văn nghệ như Sáng Tạo, Văn Nghệ, Bách Khoa, Văn Học, Nghệ Thuật …
Sau ngày 30-4-1975, ông cùng các văn nghệ sĩ như Trần Dạ Từ, Thanh Thương Hoàng, Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh, Nguyễn Sỹ Tế, Chóe… bị giam tại trại Gia Trung, gần thành phố Pleiku. Nhờ sự can thiệp của nhiều tổ chức quốc tế, đến năm 1980 ông được trả tự do.
Sau đó, ông được con gái là cô Doãn Thị Ngọc Thanh làm hồ sơ bảo lãnh đi Úc. Trong thời gian chờ đợi, ông tiếp tục viết thêm nhiều tác phẩm nữa, trong đó có quyển “Đi”, với bút hiệu Hồ Khanh; tác phẩm này được gửi sang Pháp để xuất bản. Vì lý do này, tháng 5 năm 1984, ông bị bắt lần thứ hai, chỉ vài tháng trước ngày rời Việt Nam để đi Úc.
Cùng bị giam với ông trong đợt này có ca sĩ Duy Trác, nhà báo Dương Hùng Cường, nhà văn Hoàng Hải Thủy và Lý Thụy Ý… Ông bị kết án 10 năm tù, nhưng được rời khỏi nhà tù lần thứ hai vào tháng 11-1991.
Năm 1995, ông qua Mỹ định cư ở Houston, Hoa Kỳ, do con trai ông là Doãn Quốc Thái bảo lãnh. Sau đó ông chuyển đến sống ở Quận Cam, California.
***
Tháng 6 năm 2021, họa sĩ Đỗ Duy Ngọc đã từng viết về người Thầy của mình là nhà văn, nhà giáo Doãn Quốc Sỹ như sau:
THẦY TÔI: NHÀ VĂN DOÃN QUỐC SỸ
Tôi được học với Giáo sư, Nhà văn Doãn Quốc Sỹ năm thứ hai và năm ba ở Đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn. Thầy dạy môn Phê bình văn học. Lúc đấy Thầy khoảng trên 40, người dong dỏng cao, gầy, khuôn mặt xương với cặp kính cận gọng đen. Thầy nói rặt giọng Bắc, giọng không lớn nhưng đầy nội lực. Thật ra lối nói của Thầy không hấp dẫn lắm nhưng lại cho đám sinh viên chúng tôi nhiều kiến thức nên sinh viên cũng rất ham.
Tôi biết cuốn “Những giọt mực” của nhà văn Lê Tất Điều qua giới thiệu của Thầy trong giờ học. Thầy đọc cho chúng tôi nghe một vài trang ngắn trong đó và đưa ra ý kiến nhận định, phê bình. Biết Thầy là trụ cột của nhóm Sáng Tạo với nhiều nhà văn nổi tiếng từ miền Bắc di cư vào Nam nên sinh viên học ban văn chương rất kính nể Thầy. Văn của Thầy đọc thích hơn nghe Thầy nói, chúng tôi hình như ai cũng có đọc một vài tác phẩm của Thầy. Những tác phẩm thấm đẫm hương vị miền Bắc với những con người, những thân phận trong chiến tranh.
Tôi nhớ vào năm thứ hai, Thầy yêu cầu mỗi sinh viên viết một tiểu luận phê bình về văn học Việt Nam. Hồi đấy tôi ham chơi nên đến gần ngày nộp bài, tôi vẫn chưa viết được chữ nào. Cuối cùng tôi chọn viết về vụ Nhân văn Giai phẩm. Tư liệu thì chỉ cần vào thư viện của trường là có đủ. Thế mà khi trả bài, Thầy khen tôi là sinh viên lớn lên ở miền Nam mà lại viết và có nhận xét rất chính xác về vụ Nhân văn Giai phẩm ở miền Bắc sau bức màn sắt. Bài của tôi Thầy cho điểm A, tôi rất vui và hãnh diện về lời nhận xét của Thầy.
Một kỷ niệm nữa với Thầy Doãn Quốc Sỹ là lần tôi triển lãm tranh ở Đại học Vạn Hạnh nhân dịp lễ kỷ niệm của trường. Hôm khai mạc phòng tranh, Thầy đi cùng Thầy Thích Minh Châu, Viện trưởng và Thầy giới thiệu từng bức tranh của tôi với những lời nhận xét rất tinh tế và thú vị.
Tôi rời trường và một thời gian rất dài không gặp Thầy. Biết Thầy gặp nhiều hoạn nạn và mấy lượt đi tù sau năm 1975 và sau đó nghe tin Thầy đã định cư ở Mỹ.
Năm 2013, tôi có dự án vẽ chân dung những văn nghệ sĩ Việt Nam và thế giới. Một trong những nhà văn Việt Nam tôi vẽ đầu tiên là Nhà văn Doãn Quốc Sỹ, người Thầy của tôi. Bức chân dung đó lại được một người bạn học của tôi là chị Phương Lan, giáo viên Văn trường Marie Curie, đang định cư ở California là bạn với con gái Thầy, mang gởi cho Thầy xem. Nghe nói Thầy rất ưng ý, tôi cũng vui trong bụng. Chị Phương Lan cũng gởi cho tôi tấm hình Thầy ngồi bên bức chân dung đó, thấy Thầy vẫn mạnh khoẻ, quắc thước, những người học trò cũ của Thầy rất mừng.
Nhà văn Doãn Quốc Sỹ qua đời (1923-2025) | Tiếng Dân
Doãn Quốc Sỹ
Doãn Quốc Sỹ (17 tháng 2 năm 1923 – 14 tháng 10 năm 2025), còn được biết đến với tên Doãn Quốc Sĩ, là một nhà văn Việt Nam. Ông sinh ra tại tỉnh Hà Đông, miền Bắc Việt Nam, quê ở làng Hạ Yên Quyết (tên Nôm gọi là làng Cót) thuộc phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (về sau thời kỳ 1946-1954 đổi thành xã Hạ Yên Quyết thuộc quận Cầu Giấy, đại lý Hoàn Long, ngoại thành Hà Nội; ngày nay thuộc quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội). Năm 1954, ông di cư vào Nam và sống ở Sài Gòn nơi ông thành lập nhà xuất bản Sáng Tạo[1] cùng với Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên và những người khác, đồng thời cho ra đời tạp chí văn chương cùng tên Sáng tạo có nhiều ảnh hưởng đương thời.

Tiểu sử
Thân thế
Doãn Quốc Sỹ sinh ngày 2 tháng giêng năm Quý Hợi tức ngày 17 tháng 2 năm 1923 dương lịch. Ông là con trưởng của gia đình văn nghệ sĩ. Cha ông là Doãn Hưu, một nhà nho và người em trai của ông là nhạc sĩ Quân đội Nhân dân Việt Nam, Doãn Nho. Năm 1946, ông lập gia đình với con gái nhà thơ trào phúng Tú Mỡ (Hồ Trọng Hiếu) là bà Hồ Thị Thảo. Năm 1954, ông cùng gia đình di cư vào Nam.
Ông dạy học tại các trường trung học công lập như Nguyễn Khuyến (Nam Định, 1951-1952), Chu Văn An (Hà Nội, 1952-1953), Trần Lục (Sài Gòn, 1953-1960). Làm hiệu trưởng trường Trung học Công lập Hà Tiên (1960-1961), giáo sư trường Trung học Hồ Ngọc Cẩn (1961-1962), giáo sư trường Đại học Sư Phạm Sài Gòn, Trường Đại học Văn khoa Sài Gòn năm 1962 đến giữa thập niên 1960. Ông du học tại Hoa Kỳ về ngành giáo dục và rồi trở về nước tiếp tục công việc giảng dạy cho đến năm 1975.[2]
Văn nghiệp
Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Khu rừng lau, một trường thiên tiểu thuyết gồm 4 tập: Ba sinh hương lửa (1962), Người đàn bà bên kia vĩ tuyến (1964), Tình yêu thánh hóa (1965), và Những ngả sông (1966). Theo Lê Văn, đặc phái viên Việt ngữ của Đài Tiếng nói Hoa Kỳ, trong một cuộc phỏng vấn ông, có dẫn chuyện rằng "Ba Sinh Hương Lửa người ta thường ví như những tác phẩm lớn của Nga như Chiến tranh và hòa bình" trong đó nội dung mô tả lại những cảm xúc đớn đau của một thế hệ thanh niên mới lớn tham gia vào công cuộc kháng chiến chống Pháp nhưng sau đó phát giác ra mình đã bị lợi dụng như công cụ đấu tranh giai cấp của những người cộng sản và "có lẽ chính vì thế mà anh đã bị cộng sản bỏ tù khi họ khi chiếm được miền Nam"[3]
Sau năm 1975, ông bị nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam tạm giam nhiều lần vì tội "viết văn chống phá cách mạng", tổng cộng là 14 năm. Ông có tên trong danh sách những tên "biệt kích văn hóa", bị bắt trong chiến dịch khởi động ngày 3 tháng 4 năm 1976, một năm sau ngày chiến tranh Việt Nam kết thúc, cùng hàng trăm nhà văn, nhà báo, nghệ sĩ, nhân sĩ miền Nam bị xếp hạng "phản động": Trần Dạ Từ, Đằng Giao, Nhã Ca, Nguyễn Mạnh Côn, Nguyễn Hữu Hiệu, Hoàng Anh Tuấn, Thân Trọng Kỳ, Hoàng Vĩnh Lộc, Trịnh Viết Thành, họa sĩ Chóe, Như Phong Lê Văn Tiến, linh mục Trần Hữu Thanh, linh mục Đinh Bình Định, thượng tọa Thích Huyền Quang...[4] Ông được con trai bảo lãnh sang Hoa Kỳ vào năm 1995.[5] Ông sống tại Houston, Texas từ khi sang định cư tại Hoa Kỳ.
Ông là tác giả của khoảng 25 cuốn sách. Chuyện ngụ ngôn của ông có tựa đề Con cá mắc cạn đã được dịch ra tiếng Anh (The Stranded Fish)[6] và có trong sách Việt Nam: bạn đồng hành văn chương của một du khách (Vietnam: A traveler's literary companion)[7] do John Balaban và Nguyễn Quí Đức biên soạn.
Ông qua đời vào ngày 14 tháng 10 năm 2025 tại Nam California, thượng thọ 102 tuổi.[8]
Tác phẩm
- Sợ lửa (1956)
- U hoài (1957)
- Gánh xiếc (1958)
- Gìn vàng giữ ngọc
- Dòng sông định mệnh (1959)
- Hồ Thuỳ Dương (1960)
- Trái cây đau khổ (1963)
- Người Việt đáng yêu (1965)
- Cánh tay nối dài (1966)
- Đồi biên giới (1966)
- Sầu mây (1970)
- Vào Thiền (1970)
- Khu rừng Lau[9]
- Ba sinh hương lửa
- Người đàn bà bên kia vĩ tuyến
- Tình yêu thánh hóa
- Những ngả sông trên dòng đời
- Người vái tứ phương
- Dấu chân cát xóa
- Mình lại soi mình
- Cúi đầu
- Trái đắng trường sinh
- Cò Đùm
Geen opmerkingen:
Een reactie posten