Trường Sa sau ngày tiếp quản - Kỳ 1: Chết vì… rau xanh
23/04/2015 07:00(TNO) Ngày 29.4.1975, Trường Sa là đảo cuối cùng trong tổng số 5 đảo (Nam Yết, Song Tử Tây, Sơn Ca, Sinh Tồn, Trường Sa) trong toàn quần đảo Trường Sa, được bộ đội Hải quân Việt Nam tiếp quản từ Quân lực Việt Nam Cộng hòa.
Ít ai biết, để có được một Trường Sa với 33 điểm đóng quân như bây giờ, nhiều cán bộ, chiến sĩ đã ngã xuống, hàng nghìn người mang thương tật suốt đời và mồ hôi, công sức hàng vạn người, chan mặn từng mẩu san hô, giọt nước Trường Sa.
Kỳ 1: Chết vì… rau xanh
Thượng tá Lê Văn An có đến 17 năm (tháng 4.1975 đến tháng 12.1992) lần lượt làm đảo trưởng các đảo Trường Sa, Song Tử Tây, Sinh Tồn, Sơn Ca. Ông kể: “Đời sống bộ đội Trường Sa chỉ được thực sự quan tâm sau khi xảy ra sự kiện 14.3.1988, chứ trước đấy, nhớ lại cuộc sống của anh em, vẫn thấy đau lòng!”.
Nồi cháo rau đau đớn
Câu chuyện của tôi và Thượng tá An cứ bập bõm trong tiếng xe máy nẹt pô ầm ĩ cổng chợ Mỹ Ca (Cam Ranh) buổi chiều hừng hực nắng và nhất là tiếng chép miệng “khổ lắm” liên tục trong hồi ức.
Ông bảo: “Hồi ấy khốn khổ vì thèm rau xanh. Sống chết vì từng cọng rau” và kể: Hồi làm đảo trưởng Sơn Ca, có 1 cậu tiểu đội trưởng pháo 37 bị ốm mấy tháng chỉ vì thèm rau xanh. Mãi tàu không ra, chiến sĩ liều hái rau muống biển mang về nấu trộm, tuy thừa biết rau này rất độc và cả đảo chẳng ai dám động đến. Anh em trong đơn vị nói mãi không nghe, phải chạy lên báo đảo trưởng.
|
Cậu chiến sĩ vâng lời đi ngủ. Nửa tiếng sau, anh em lại hổn hển chạy lên báo đảo trưởng An: “Thủ trưởng ơi!. Nó lại hái rau chui vào hầm nấu trộm ăn và say vật rồi!”.
Ông An chạy lên Trạm xá, bác sĩ Quân y tên Lượng rầu rĩ: “Chắc không cứu được!” khiến ông An quát: “Hái nắm rau muống biển đem giã lấy nước cho chó uống xem sao. Phải cố cứu lấy nó!”, nhưng nắm rau “thí nghiệm” đang giã, cậu chiến sĩ đã trút hơi thở cuối cùng. “Giờ nghĩ lại, vẫn thấy xót và khổ quá!” - Thượng tá An bật khóc.
Cũng đau đáu về những ngày đầu tháng 5.1975, Thiếu tá Trần Văn Thế (nguyên Chủ nhiệm Công binh Lữ đoàn 146, Vùng 4 Hải quân) kể: “Cả lính đảo lẫn công binh đều mắc bệnh táo bón do thiếu rau xanh, có những thời điểm cả đơn vị nằm liệt do ăn đồ khô, đồ hộp nhiều!” và nhớ lại: Duy nhất trên quần đảo Trường Sa hồi ấy có mấy bụi sâm đất, do những người lính của chế độ cũ trồng ngoài sân nhà khí tượng. Mấy bụi cây được bảo vệ theo chế độ nghiêm ngặt, chỉ những lúc đảo có nhiều người ốm hoặc dịp lễ tết, cả Cấp ủy - Ban Chỉ huy mới họp bàn, quyết định “thu hoạch”, nấu nước chia thành ca nhỏ cho từng người.
Thời điểm thiếu rau xanh, chất tươi nghiêm trọng, có đảo quân số nằm bẹp gần hết, Đại tá Cao Ánh Đăng, Phó Tư lệnh Vùng 4 Hải quân, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 146 bảo vệ Trường Sa (1977-1982), phải lọ mọ lên Đà Lạt, nhờ mối quan hệ của bạn chiến đấu cũ đang giữ chức Chỉ huy trưởng BCHQS tỉnh, xin nông dân hái rau tặng riêng bộ đội Trường Sa.
“Xin được mấy xe rau định mang ra đảo thì Hải quân Liên Xô (hồi ấy còn đóng quân ở Cam Ranh) nhìn thấy, lại đề nghị Chỉ huy Vùng can thiệp, nhường cho họ ít. Thế là số chở ra đảo, vừa héo úa vừa chả được bao nhiêu!” – ông Đăng cười.
Nhắc lại chuyện thiếu chất tươi ngoài đảo, Thượng tá Lê Văn An trầm ngâm: “Nói thì không ai tin nhưng hồi ấy đi đảo, bộ đội chỉ dám mang theo muối vừng, cá cơm khô để ăn dần. Thịt hộp cũng có nhưng để lâu trong điều kiện khắc nghiệt, khi mở ra đều thiu thối nhưng vẫn phải ăn, nên nhiều anh ngửi mùi thịt hộp là nôn ói!”.
“Có anh em bất mãn, đem cháo thịt đổ vào cửa Hội trường. Tôi gọi lên bảo: Mày mang đổ vào cửa phòng tao đi, tao sẽ hốt ăn ngay. Tao làm đảo trưởng đấy, nhưng vật chất thực tế nó vậy, xuất ra mà lỡ sau này đánh nhau, chúng mày bị thương thì lấy cái gì ăn?” - Ông An mấp máy: “Bố nuôi con mà giữ không cho con ăn?”.
Thực tế Trường Sa những năm thập niên 70-80, do cơ sở vật chất thiếu thốn, một số đảo có điều kiện đánh bắt hải sản, nhưng gia vị chế biến rút cục cũng chỉ là đồ hộp (nước me hộp, dứa hộp...) và ăn mãi có khi còn ảnh hưởng đến tiêu hóa, nên nhu cầu rau xanh với bộ đội luôn là bức thiết.
|
Nhặt trứng chim ăn thay thịt
Đại tá Phạm Công Phán là Lữ đoàn trưởng 146 (giai đoạn 1982 – 1987, giờ đang nghỉ hưu ở Đông Hưng, Thái Bình), thời điểm 30.4.1975 giữ chức Đại úy Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 14 (Trung đoàn 68, Sư đoàn 304), được cử đi học sĩ quan ngay sau ngày thống nhất và kết thúc khóa học (4.1978) về làm Trung đoàn phó Trung đoàn 146.
“Hồi ấy, tàu ra đảo cực khó khăn, nên có những đảo cả năm mới có 1 chuyến tàu ra tiếp tế - thay quân. Lương thực thực phẩm đưa ra năm nay, nhưng sang năm mới được ăn vì để dự trữ chiến đấu, nên gạo mốc, thịt hộp ghi thời hạn sử dụng 3 tháng nhưng chỉ 1 tháng là thối!” – Đại tá Phán bắt đầu câu chuyện về Trường Sa những năm sau khi đất nước thống nhất.
Ông Phán hồi tưởng: đầu tháng 4.1978, vừa chân ướt chân ráo về Hải quân, ông đã nhận lệnh xuống tàu HQ-681, cùng phân đội 19 người bí mật ra đóng giữ đảo Trường Sa Đông. Giữa tháng, khi có lực lượng thay thế, ông Phán lại theo tàu di chuyển sang Đá Tây ứng trực, đợi khi tàu chở Tư lệnh Hải quân Giáp Văn Cương tới nơi, mới ghép đoàn tại đảo Trường Sa.
Bước chân lên đảo, ấn tượng đầu tiên của ông là rợp trời chim hải âu, sau đó mới đến chuyện tìm mọi cách bắt chim - nhặt trứng cải thiện bữa ăn của bộ đội đảo, Công binh Hải quân. Thấy bộ đội nhặt cả nghìn quả trứng chim, lấy nguyên lòng đỏ phơi khô làm thức ăn lâu dài và mỗi ngày mấy lần gõ kẻng làm chim sợ hãi bay tứ tán.
Ông Phán tổ chức họp, cấm bộ đội đánh kẻng và nghịch chim, tuy thừa biết lệnh cấm không thể triệt để bởi bữa ăn hằng ngày, hãn hữu lắm mới có miếng thịt tươi tiếp tế.
“Lính rừng” thành lính biển
Những người lính đầu tiên ra giữ Trường Sa không phải là lực lượng Hải quân mà chính là Tiểu đoàn 4 Bộ binh của Quân khu 5, Đơn vị đã quen tác chiến trên rừng.
Ít người biết: 14 giờ ngày 27.5.1975, tại căn cứ Thành Tuy Hạ, Trung đoàn 46 được bí mật bàn giao từ Quân đoàn II sang Bộ tư lệnh Hải quân, ngay sau đó là cuộc chuyển quân ra Cam Ranh, tổ chức thành Lữ đoàn Hải Quân đánh bộ 126, làm nhiệm vụ “vừa cơ động chiến đấu vừa phòng thủ Trường Sa” với thành phần hỗn hợp là: Trung đoàn 46, Tiểu đoàn 4 Đặc công Hải quân, Tiểu đoàn 4 bộ binh (thuộc Sư đoàn 2, Quân khu V).
Ngày 19.8.1977, đơn vị chuyên trách bảo vệ Trường Sa được thành lập với phiên hiệu là Trung đoàn 175, thuộc Đảng ủy Bộ tư lệnh Hải quân. Tuy nhiên, những người nguyên là “lính rừng”, tiếc phiên hiệu 46 nên đã đề xuất đổi tên đơn vị là 146 và đầu tháng 5.1978, Trung đoàn 146 chính thức được tách ra khỏi Lữ đoàn 126, thành đơn vị độc lập và đến nay là Lữ đoàn 146 thuộc BTL Vùng 4 Hải quân.
|
Mai Thanh Hải
http://www.thanhnien.com.vn/chinh-tri-xa-hoi/truong-sa-sau-ngay-tiep-quan-ky-1-chet-vi-rau-xanh-554798.html
Trường Sa sau ngày tiếp quản - Kỳ 2: ‘Nước là máu’
24/04/2015 05:12(TNO) 27 năm tham gia quân đội, 13 năm gắn bó với Trường Sa trên cương vị chỉ huy Lữ đoàn, Đại tá Phạm Công Phán (71 tuổi, hiện đang nghỉ hưu tại huyện Đông Hưng, Thái Bình) là một trong những người rành rẽ Trường Sa nhất.
Ông kể: Có những thời điểm, Trường Sa là cái gì đó rất xa xôi, chỉ lực lượng Hải quân biết đến và người ta thậm chí còn gọi bằng mật danh là “Quần đảo bão tố”.
Khăn mặt cắt 3
Hồi ấy, ngoài Trường Sa ai cũng nhớ khẩu hiệu “Nước là máu”. Đặc biệt vào mùa khô cữ tháng 5-6, nắng chang chang 38-40 độ, mọi téc chứa nước mưa đều cạn khô nên phải dùng nước từ tàu tiếp tế chuyển vào, màu đỏ lòm vì để quá lâu trong hầm đầy gỉ sắt.
Những can nước được đưa xuống hầm, khóa bằng 3-4 ổ khóa to đùng và mỗi sáng chỉ cấp 1 ca cho từng người dùng trong ngày, mỗi lần mở khóa phải có sự chứng kiến của 3-4 người, từ chỉ huy đảo cho đến cán bộ hậu cần, quản lý.
“Nước biển ăn mòn cả chất vải nên chiếc khăn mặt, cũng phải cắt làm 3, dùng dần dần”, đại tá Phán lắc đầu: “Bộ đội ra đảo, tháng đầu lên cân, tháng thứ 2 chững lại và tháng thứ 3 đều bị teo cơ. Cá biển đầy đấy, nhưng ăn uống không rau, thiếu chất nên cứ dính đến hải sản là đi kiết hàng loạt. Nói thì không tin nhưng có lúc thiếu muối ăn, anh em phải múc nước mặn phơi trên mặt sàn, lấy thứ hỗn hợp dính lại, để làm thành chất mặn lùa cơm”.
Với Thượng tá Lê Văn An, 17 năm làm đảo trưởng các đảo Trường Sa thì câu chuyện thiếu nước rất rành rẽ: “Đảo Song Tử Tây có giếng rỉ ra ít nước ngọt để tắm, một giếng nước lợ dùng trồng rau. Đảo Trường Sa thì giếng ít nước hơn. Nam Yết, Sơn Ca, Sinh Tồn thì chỉ có nước mưa dự trữ và tàu tiếp tế mang ra”.
Ông An bấm ngón tay nói vậy và kể: “Tôi làm đảo trưởng, ban đêm đi ngủ giữ chìa khóa téc nước, 4 giờ sáng ca gác gọi, tôi cùng đảo phó ra mở khóa téc nước, chứng kiến nuôi quân múc nước đun sôi, chia cho bộ đội và đổ gạo vào nồi nấu cơm. Phải rành rọt, bộ đội mới không tị nạnh”.
Có lần, trung tá Lê Hữu Dương, Lữ đoàn phó 146, ra kiểm tra đảo Sơn Ca. Thời điểm ấy đảo đang hiếm nước nên bộ đội đi làm nhiệm vụ ngoài biển về chỉ được cấp 1 ca nước, đủ nhúng khăn mặt lau người. Trung tá Dương cứ quen ở đảo có nước, vác cái chậu ra gọi: “An ơi! Cho tớ xin ít nước tắm!”.
Đảo trưởng Lương Văn An cực chẳng đã, đành nói thẳng: “Ở đây chúng em chỉ mỗi người 1 ca, ưu tiên Lữ phó 3 ca là tốt lắm rồi”, khiến Lữ đoàn phó tròn mắt: “Thế tớ tắm làm sao?”.
“Thủ trưởng mà lấy nhiều nước, anh em nó tị nạnh, Thủ trưởng mấy khi ra đảo, xin dành nước ngọt để ăn uống”, ông An chốt lời.
Chờ mưa
Bây giờ ngoài Trường Sa, chuyện thiếu nước vẫn còn hiện diện ở các đảo, nhất là đảo chìm. Tuy nhiên, so với những năm khi đất nước mới thống nhất thì bộ đội bây giờ sướng như... tiên, bởi ngoài các máy lọc nước cấp phát cho từng đơn vị trên đảo để cung cấp nước ăn uống, hệ thống trữ nước được chú trọng hơn bao giờ hết và mỗi mùa khô lại có những chuyến tàu chuyên dụng chở nước, lênh đênh hết điểm này điểm khác cấp phát.
Hồi mới tiếp quản, trong số 5 đảo nổi thì chỉ có Trường Sa, Song Tử Tây, Nam Yết là có bể chứa nước xây từ thời chế độ cũ, mỗi bể chỉ khoảng 5 khối và dưới đáy là cả gang phân chim. Ngay lập tức, tàu vận tải phải chở gấp các téc đựng xăng dầu (15-20 m3) của chế độ cũ trong căn cứ quân sự Cam Ranh ra làm đồ chứa nước cho bộ đội đảo.
Thiếu tá Trần Văn Thế, nguyên Chủ nhiệm Công binh Lữ đoàn 146, nhớ lại thời điểm đầu năm 1976, chỉ huy Đại đội thuộc Tiểu đoàn 4, Trung đoàn 83 Công binh Hải quân (nay là Lữ đoàn 83) ra xây dựng củng cố doanh trại, hầm hào công sự trên đảo Song Tử Tây: “Bộ đội Công binh bưng bê khiêng vác trong điều kiện nắng nóng, nhưng khẩu phần nước cũng chỉ 1 ca/ngày y như bộ đội đảo, nên đêm nào cũng phải xì xụp chia nước trước”.
Ông kể rành rẽ: Nước ngọt chỉ có từ nước mưa dự trữ và tàu vận tải chở ra. Mùa mưa, anh em chờ được tắm mưa, háo hức hơn trẻ con chờ mẹ về chợ. Mùa khô, khi tàu chở nước ra, ai được cử làm nhiệm vụ vác nước thì sướng phải biết, bởi có vậy mới được lên tàu và được bộ đội tàu “tháo khoán” cho chút nước tắm ngay trên boong.
“Cơ số nước được cấp phát, bộ đội phải dùng dè sẻn, dùng đi dùng lại và cuối quy trình là... nộp lại nước đã sử dụng, để đảo tưới rau”, thượng tá Lương Văn An lắc đầu nhớ lại “chiến dịch đào giếng” trên các đảo nổi: chỉ huy đảo ra quyết định thành lập “Tổ tìm nước” gồm những anh em khỏe mạnh, có kinh nghiệm... đào giếng chỉ ăn và tìm chỗ nào cây mọc, để móc san hô tìm nước.
Cuốc, xẻng cho đến xà beng cạy đá san hô cứng đanh đều nảy đôm đốp, cong mẻ hết lượt. Da tay phồng rộp, máu tươi nắm cuốc xẻng tóe hết máu tươi nhưng đều vô ích. Mấy năm trời, rốt cuộc, Công binh phải đưa “thiết bị hiện đại” vào cuộc và duy nhất một chỗ trên đảo, ở độ sâu 5 mét có mạch nước trào lên.
Mừng điên cuồng, anh em vục ngay đầu xuống uống và nhất loạt nhổ ra bởi vị nước lờ lợ, đắng chát trong cổ họng. Không uống được thì mang... nấu cơm, nhưng cơm không chín nổi, cứ sống sượng mặn chát.
Thiếu tá Trần Văn Thế cười: “Anh em nảy ra sáng kiến lấy nước lợ để nhào bê tông, nhưng vữa không cứng, cứ bở ra bùng bục” và nghèn nghẹn: “Có lúc đảo hiếm nước nhưng phải đẩy nhanh tiến độ xây dựng. Toàn đơn vị phải họp lại, động viên - thuyết phục nhau chia khẩu phần nước ít ỏi của từng người, để có nước ngọt trộn bê tông”.
“Các đảo được Hậu cần đảm bảo 3-5 cơ số dự trữ cơ bản gồm gạo, thịt hộp, đường, sữa, muối, rau khô và thuốc y tế, để dùng trong trường hợp chiến đấu. Ở liền tù tì 2-3 năm ngoài đảo, thuốc lá, chè khô là những “đặc sản” được anh em quý nhất. Mỗi năm 1-2 chuyến tàu ra đảo, anh nào có người quen, đồng hương thì còn nhờ mua hộ. Số còn lại, cứ công kênh nhau đứng dưới xuồng, chìa tay lên xin thuốc lá, nhìn thương vô cùng. Hồi ấy anh em đi đảo, phụ cấp hằng tháng được gửi vào Ngân hàng ở Cam Ranh để lấy lãi, nhưng dịp đổi tiền 1985, có anh đi đảo cả chục năm bỗng thành tay trắng.
(Đại tá Phạm Công Phán, nguyên Lữ đoàn trưởng 146)
|
Mai Thanh Hải
http://www.thanhnien.com.vn/chinh-tri-xa-hoi/truong-sa-sau-ngay-tiep-quan-ky-2-nuoc-la-mau-555198.html
Trường Sa sau ngày tiếp quản - Kỳ 3: Những chuyến đi bí mật
25/04/2015 07:30(TNO) Ngay sau khi tiếp quản Trường Sa và tổ chức đóng giữ trên 5 đảo nổi, rất nhiều tàu thuyền của BTL Hải quân đã tham gia nhiều nhiệm vụ bí mật ở các bãi đá trên toàn quần đảo, chuẩn bị cho việc làm chủ và chốt giữ.
>> Trường Sa sau ngày tiếp quản - Kỳ 2: ‘Nước là máu’
>> Trường Sa sau ngày tiếp quản - Kỳ 1: Chết vì… rau xanh
>> Trường Sa sau ngày tiếp quản - Kỳ 1: Chết vì… rau xanh
“Mình không chốt giữ là nước khác chiếm ngay”
Tháng 3.1978, khu vực Trường Sa thường xuyên xuất hiện máy bay, tàu thuyền nước ngoài xâm phạm và trinh sát các đảo của ta. Tình hình càng phức tạp tàu thuyền giả dạng đánh cá của Malaysia, Hồng Kông, Trung Quốc, xuất hiện ở khu vực Đá Đông, Phan Vinh, Thuyền Chài…
Đại tá Cao Ánh Đăng, nguyên Lữ đoàn trưởng 146, cho biết: hồi ấy, đã nổ ra chiến tranh biên giới Tây - Nam, khiêu khích vũ trang ở biên giới phía Bắc và khi quán triệt Nghị quyết của Đảng ủy Quân chủng Hải quân “Phải tập trung khẩn trương mọi nỗ lực cao nhất của toàn Quân chủng vào việc chuẩn bị chiến đấu; sẵn sàng đánh thắng kẻ thù xâm lược, giành cho được thắng lợi từ trận đầu, bảo vệ vững chắc vùng biển, hải đảo của Tổ quốc”, chúng tôi biết thế nào cũng sẽ xảy ra đụng độ trên biển Trường Sa.
Thực tế, ngay từ đầu tháng 3.1978, đã có 4 Đoàn công tác của Lữ đoàn 146 cùng với các tàu vận tải của Đoàn 125, tàu đánh cá của Đoàn 128, Trung đoàn 83 Công binh bí mật ra chốt giữ một số đảo quan trọng khác.
Cụ thể: tối ngày 10.3.1978, Đoàn 1 gồm bộ đội Lữ đoàn 146, Đặc công nước Lữ đoàn 126 do Lữ trưởng Cao Ánh Đăng chỉ huy, từ tàu HQ-601 đã đổ bộ và chốt giữ đảo An Bang; ngày 15.3, Đoàn 2 do Đại tá Ngô Sĩ Ta (khi đó là Chủ nhiệm Chính trị) chỉ huy, cùng lực lượng trên tàu HQ-679 hoàn thành việc đổ bộ và triển khai bảo vệ đảo Sinh Tồn Đông; ngày 30.3.1978, phân đội gồm 31 cán bộ chiến sĩ đi trên tàu HQ-680 của Đoàn 128 hoàn thành đóng giữ đảo Phan Vinh; 4.4.1978, Đoàn 4 do Tham mưu trưởng 146 Nguyễn Trung Cang chốt giữ Trường Sa Đông…
Đại tá Cao Ánh Đăng cho biết: “Tháng 4.1978, tàu 501 cũng chở 1 phân đội ra đóng giữ đảo Thuyền Chài, nhưng do điều kiện vật chất chưa được đảm bảo, đến tháng 5.1978, BTL Hải quân đành cho phân đội rút về đất liền!” và tiếp mạch ký ức: Trước khi ra An Bang, Tư lệnh Giáp Văn Cương nói với ông Đăng: “Trung Quốc nó hăm he chiếm đảo ta từ lâu rồi, nên mình phải chốt giữ nhanh. Tàu Trung Quốc đang rập rình ngoài đấy, nên phải chốt ban đêm. Ban ngày công khai lộ liễu quá, nó lại ào ào ra chiếm thì chết, trong khi tàu bè mình không bì lại với chúng nó!”
Y như rằng, đóng giữ đêm hôm trước, sáng hôm sau bộ đội ta đang đào công sự thì tàu chiến đấu của Malaysia mò đến, quay nòng pháo dọa tấn công.
Nắm từng bãi đá
Phải khẳng định rằng: ngay từ những năm Trường Sa còn do lính VNCH đóng giữ, quần đảo này đã trở nên quen thuộc với nhiều cán bộ chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam, cũng qua những chuyến thực hiện nhiệm vụ trinh sát bí mật.
Đại tá Cao Ánh Đăng nhớ lại: “Tháng 3.1978, sau khi chỉ huy bộ đội đóng giữ An Bang, chúng tôi trinh sát xung quanh và phát hiện bãi Thuyền Chài. Thuyền Chài rất thích hợp cho các tàu trọng tải trung bình vào neo đậu khi có sóng to gió lớn bởi giữa bãi san hô của đảo có lòng hồ dài khoảng 10 hải lý, rộng trung bình 1,5 hải lý, độ sâu 3-10 mét và dễ đóng quân nhờ 3 bãi cát nhô lên quanh hồ!” và sang sảng: “Tôi báo cáo về bờ và được yêu cầu nghiên cứu kỹ vị trí. Lúc ấy mới giật mình: Trinh sát của mình chắc đã ra đây nhiều lần và các cụ có phương án lâu rồi!”
Không giấu giếm, Đại tá Cao Ánh Đăng thuật: Một thời gian ngắn sau đó, tàu vận tải chở Đoàn công tác có Lữ trưởng Đăng và chuyên gia Liên Xô ra tìm hiểu kỹ về địa hình địa vật Thuyền Chài, chuẩn bị đóng giữ.
Thấy địa hình quá thuận lợi, các chuyên gia còn bảo: “Thủy phi cơ thừa sức hạ cất cánh trong hồ Thuyền Chài. Các đồng chí nên cho đóng quân phía đầu và cuối của đảo để bảo vệ và xây dựng hạ tầng đón máy bay ra!”.
Tôi tò mò: “Hồi ấy chuyên gia Liên Xô giúp mình nhiều không?”, khiến vị Đại tá gần 90 tuổi cười sảng khoái: “Những năm mới tiếp quản Trường Sa, bác Giáp Văn Cương (Đô đốc Giáp Văn Cương, Tư lệnh Hải quân) đã lường đến việc nước ngoài, nhất là Trung Quốc hăm he tấn công các đảo nổi mà bộ đội ta đang chốt giữ, nên tăng cường cho các đảo các loại tăng pháo hỏng hóc bộ phận chuyển động (lốp, bánh xích di chuyển), nhằm tăng cường hỏa lực mạnh cho việc phòng thủ đảo. Chuyên gia Liên Xô được mời ra xem sáng kiến “giữ tốt, dùng bền” của ta và khi về, anh nào cũng đồng ý giúp ta vũ khí!”... (Còn nữa)
...“Năm 1978, trong một thời gian ngắn, cùng với các đơn vị bạn, Trung đoàn đã triển khai chốt giữ 4 đảo mới (An Bang, Hòn Sập, Trường Sa Đông, Sinh Tồn Đông) kịp thời, bí mật, an toàn. Đến tháng 10.1978, cùng với lực lượng công binh của Trung đoàn 83, đã hoàn thành sân bay trực thăng ở Sơn Ca, mở rộng luồng cho cho 3 đảo Sơn Ca, Nam Yết, Sinh Tồn.
Ngày 29-10-1978 ở đảo Phan Vinh, 7 đồng chí bị trôi 8 ngày liền trên biển (trong đó có Đảo trưởng Bùi Văn Hà), anh em đã bình tĩnh tự tin, động viên lẫn nhau vượt qua mọi sóng to, gió lớn trở về đơn vị an toàn. Tập thể cán bộ chiến sỹ đảo và đồng chí Vũ Văn Hà được tặng thưởng 2 Huân chương Chiến công hạng 3.
(Lịch sử Lữ đoàn 146, BTL Vùng 4 Hải quân)
|
Mai Thanh Hải
http://www.thanhnien.com.vn/chinh-tri-xa-hoi/truong-sa-sau-ngay-tiep-quan-ky-3-nhung-chuyen-di-bi-mat-555494.html
Trường Sa sau ngày tiếp quản - Kỳ 4: Đau đáu Chữ Thập, Châu Viên, Gạc Ma
26/04/2015 09:19(TNO) “Bộ đội ta đã đặt chân lên Chữ Thập, Châu Viên, Gạc Ma nhưng do thời tiết khắc nghiệt, phương tiện cũ kỹ và nhất là sự ngăn cản hung hãn, bất ngờ nổ súng tấn công của phía Trung Quốc nên cả 3 nơi này bị chiếm đóng trái phép” - đại tá Phạm Công Phán, nguyên Lữ trưởng 146 trầm ngâm.
>> Trường Sa sau ngày tiếp quản - Kỳ 3: Những chuyến đi bí mật
>> Trường Sa sau ngày tiếp quản - Kỳ 2: ‘Nước là máu’
>> Trường Sa sau ngày tiếp quản - Kỳ 1: Chết vì… rau xanh
>> Trường Sa sau ngày tiếp quản - Kỳ 2: ‘Nước là máu’
>> Trường Sa sau ngày tiếp quản - Kỳ 1: Chết vì… rau xanh
Vị đại tá khẳng định: “Có được 33 điểm đóng quân ở Trường Sa như hôm nay là nhờ Chiến dịch Chủ quyền 1988 (CQ-88) và những năm 1987-1988, máu đào của bộ đội không chỉ ướt đẫm Gạc Ma, Cô Lin mà còn ở nhiều đảo chìm khác”.
Gian nan Chữ Thập, sóng gió Châu Viên
Đại tá Phạm Công Phán, nguyên Lữ trưởng 146 kể: “Ngày 24.10, Tư lệnh Hải quân ra lệnh cho các đảo của Lữ đoàn chuyển sang trạng thái sẵn sàng chiến đấu và ngày 25.10 phải nhanh chóng đóng thêm 4 điểm đảo (Tiên Nữ, Đá Lớn, Đá Tây, Chữ Thập)”.
|
Ngày 28.12, tàu HQ-604 lại đưa bộ đội và vật liệu xây dựng ra Đá Tây và ngày 18.8, làm nhà cấp 3, thực hiện đóng giữ. Ở các điểm khác, kế hoạch đóng giữ như dự kiến không thể thực hiện được do thời tiết quá khắc nghiệt.
Đại tá Nguyễn Văn Thái, nguyên Chủ nhiệm Khoa Công tác Đảng - Công tác Chính trị, Học viện Hải quân “bật mí”: “Hồi ấy phân đội chúng tôi đã đóng giữ ở Chữ Thập gần 1 tháng trời, nhưng sau phải rút về bởi lương thực - thực phẩm hết và anh em ngâm nửa người trong nước suốt ngày đêm, chịu không nổi” và lắc đầu: “Cuối năm mùa mưa bão, đảo nổi còn khó sống nữa là bãi đá khắc nghiệt”.
Xin được nhắc lại: từ tháng 10.1987, tình hình hoạt động của đối phương quanh các đảo ta gia tăng bất thường, các tàu trinh sát nước ngoài giả dạng đánh cá liên tục xuất hiện ở Sinh Tồn, An Bang, Đá Tây, Song Tử Tây, Trường Sa Đông.
Ngày 30.1, tàu HQ-611 và tàu HQ-712 do Lữ trưởng Phán chỉ huy, nhận lệnh của BTL Hải quân, cơ động từ Trường Sa Đông về đóng giữ ở đá Chữ Thập.
6 giờ ngày 30.1 khi cách Chữ Thập 5 hải lý, biên đội bị 4 tàu chiến của Trung Quốc (2 tàu 502 và 2 tàu 503), ra ngăn cản tàu, có lúc chỉ cách 300m, không cho tàu ta tiếp cận, tàu của ta phải quay về Trường Sa Đông.
Phương án đóng giữ Châu Viên đã được chuẩn bị từ lâu và ngay cuối năm 1987. Bằng mọi cách chốt giữ Châu Viên, phương án của ta là bên cạnh việc khảo sát, đồng thời sẵn sàng lực lượng đổ bộ đóng giữ trên đảo từ ngày 13.2 và khi cần sẽ sử dụng tàu HQ-851 để ủi bãi giữ đảo.
Ngày 18.2, tàu HQ-851 và HQ-614 thực hiện khảo sát đóng giữ nhưng do sóng quá to, tàu rê neo, tàu Trung Quốc ép tàu ta liên tục và đến 19.2, tàu HQ-851 hỏng máy nên không thực hiện được kế hoạch đóng giữ Châu Viên.
Lúc này, Quân chủng Hải quân lệnh: “Các tàu, các đảo nêu cao cảnh giác sẵn sàng chiến đấu. Khi gặp tàu địch, tránh khiêu khích, nếu địch nổ súng vào ta thì kiên quyết đánh trả”.
Thảm sát Gạc Ma
Nhớ lại sự kiện 14.3.1988 trên vùng biển Cô Lin, Gạc Ma, Len Đao, đại tá Phạm Công Phán rành mạch: “Chúng tôi đã đổ bộ lên chốt giữ, xây dựng Gạc Ma, Cô Lin từ rạng sáng 14.3 và khi Trung Quốc bất ngờ tấn công, bộ đội ta đã dùng các súng, đánh trả quyết liệt”.
Theo ông Phán, ngày 13.3, tàu HQ-604 do Đại úy Vũ Phi Trừ làm thuyền trưởng xuất phát từ Đá Lớn (chở 2 khung nhà cấp 3, 2 phân đội xây dựng của Trung đoàn 83, 2 tổ chiến đấu của Lữ đoàn 146, do Trung tá Trần Đức Thông, Lữ phó chỉ huy), nhập với tàu HQ-505 do Thiếu tá Vũ Huy Lễ làm thuyền trưởng, nhận lệnh tới Cô Lin, Gạc Ma.
Tàu HQ-605 do đại úy Lê Lệnh Sơn làm thuyền trưởng được lệnh sang Len Đao.
16 giờ ngày 13.3, tàu HQ-604 đến Gạc Ma, HQ-505 thả neo an toàn. Khoảng 30 phút sau, tàu hộ vệ tên lửa 502 của Trung Quốc từ đá Huy Gơ chạy xuống, áp sát tàu ta 500m rồi đi về phía tây cách ta 5-6 hải lý. Ta cương quyết bám giữ và dự kiến 20 giờ ngày 14.3 sẽ lên đảo, đưa vật liệu xây dựng làm nhà. Tuy nhiên, trước tình hình căng thẳng, Bộ tư lệnh Hải quân lệnh cho Lữ phó Trần Đức Thông và 2 thuyền trưởng HQ-505, HQ-604 “Quyết giữ mục tiêu Gạc Ma và Cô Lin; cho phép ủi bãi để giữ 2 đảo; khẩn trương chuẩn bị vật liệu làm nhà”.
“Thời điểm này, các tàu Trung Quốc luôn bám sát tàu ta, riêng tàu 502 vào sát tàu HQ-604 khoảng 3 hải lý và các tàu của chúng không thắp đèn”, đại tá Vũ Huy Lễ (khi đó là thiếu tá, thuyền trưởng HQ-505, Lữ đoàn 125) nhớ vậy và khẳng định: 3 giờ sáng ngày 14.3, ta tổ chức cắm cờ ở Gạc Ma; 6 giờ 30, tàu HQ-505 hoàn tất cắm cờ ở đảo Cô Lin.
Gần sáng, ngoài tàu 502 của Trung Quốc bám sát tàu HQ-604, có thêm 3 tàu chiến có trang bị tên lửa, pháo 100mm của Trung Quốc tiến về Gạc Ma, khiêu khích đe dọa.
5 giờ 5 phút, tàu Trung Quốc hạ xuồng đưa lực lượng vào đảo, dàn hàng ngang giương lưỡi lê xông về phía ta cắm cờ. Tên chỉ huy hung hăng quát bằng tiếng Việt: “Đây là lãnh thổ của Trung Quốc, các anh rút khỏi đây ngay”. Thiếu úy Trần Văn Phương, Chỉ huy trưởng đảo Gạc Ma (Lữ đoàn 146) trả lời : “Đây là lãnh thổ của Việt Nam, các anh đã xâm phạm, hãy rút khỏi đây, đừng gây đổ máu vô ích”.
Thấy bộ đội ta không chịu lùi bước, lính Trung Quốc xông vào cướp cờ. Hạ sĩ Nguyễn Văn Lanh cương quyết giữ và bị lính Trung Quốc dùng lưỡi lê đâm, sau đó dùng súng ngắn bắn trọng thương. Thấy vậy, thiếu úy Phương lao vào cứu đồng đội, bị lính Trung Quốc nổ súng bắn chết ngay tại chỗ.
Cùng lúc ấy, tàu 502 của Trung Quốc bắn pháo hiệu cho các tàu chiến đồng loạt nổ súng tấn công vào các tàu vận tải của ta HQ-604 và HQ-605, sau đó bắn vào cả tàu HQ-505 đang neo đậu bên đảo Cô Lin.
Thấy tàu HQ-604 bị bắn chìm, thuyền trưởng Vũ Huy Lễ ra lệnh cho HQ-505 nhổ neo ủi bãi, bất chấp đạn pháo từ 2 tàu 502 và 531 của Trung Quốc. 8 giờ sáng, HQ-505 lên được bãi cạn với 2/3 thân tàu bốc cháy. Tàu HQ-605 đưa bộ đội lên cắm cờ ở Len Đao và 8 giờ 30 bị tàu 556 của Trung Quốc bắn cháy.
Lịch sử Lữ đoàn 146, Bộ tư lệnh Vùng 4 Hải quân ghi rõ: “Cuộc chiến đấu không cân sức ấy tuy có gây tổn thất cho ta, nhưng mãi mãi sáng ngời tấm gương bình tĩnh, dũng cảm, kiên cường, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ của cán bộ, chiến sĩ ta” và đưa ra con số chính xác: “Qua cuộc đụng độ, 64 đồng chí hy sinh và mất tích, trong đó Lữ đoàn có 19 đồng chí, tàu HQ-604 bị chìm, tàu HQ-605 và HQ- 505 bị thiệt hại nặng”...
... “Sự kiện 14.3.1988, hoàn toàn là một hành động có tính toán nằm trong mưu đồ xâm lược của Trung Quốc, chúng lại còn đổi trắng thay đen vu cáo Việt Nam nổ súng tấn công tàu khảo sát của Trung Quốc.
Hành động gây chiến trên, không chỉ là cuộc đụng độ của hai lực lượng trên biển mà nó đã được sắp đặt từ chóp bu của nhà cầm quyền Trung Quốc. Ngay khi chiến sự đang xảy ra trên biển, 9 giờ ngày 14.3.1988, Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã đưa công hàm cho Đại sứ quán ta, vu cáo Việt Nam nổ súng khiêu khích Trung Quốc. 12 giờ, chúng tổ chức họp báo nhằm bóp méo sự thật che đậy âm mưu và hành động tội ác của Hải quân Trung Quốc. 14 giờ cùng ngày, Đài Truyền hình Trung Quốc đã đưa tin về sự kiện đụng độ trên biển.18 giờ tối, Đài Tiếng nói Trung Hoa đưa tin xuyên tạc và nói xấu Việt Nam”...
(Lịch sử Lữ đoàn 146, BTL Vùng 4 Hải quân)
|
Mai Thanh Hải
>> Tưởng niệm liệt sĩ hy sinh, bảo vệ Gạc Ma>> Các anh đã có nơi yên nghỉ
>> Góp gạch xây khu tưởng niệm chiến sĩ Gạc Ma
Từ khóa
|
Video đang được xem nhiều