dinsdag 13 januari 2015

Người Việt hải ngoại 'càng vững mạnh' (Phạm Cao Dương)

Người Việt hải ngoại 'càng vững mạnh'

  • 17 tháng 9 2014
Lễ khánh thành tượng Đức Thánh Trần tại Little Saigon đầu tháng 9
Gần đây có quyết định dựng tượng Đức Thánh Trần ở Little Saigon. Tôi không rõ trên giấy tờ liên lạc với Toà Thị Chính Thành Phố Westminster ban tổ chức đã dùng danh xưng của tượng là gì nhưng ở đây tôi vẫn dùng danh xưng là Tượng Đức Thánh Trần.
Khác với các nhân vật lịch sử khác như Hùng Vương, Hai Bà Trưng, Triệu Quang Phục, Lý Thường Kiệt, Lê Thái Tổ, Quang Trung …, tất cả đều có đền thờ và được dân chúng địa phương quanh năm hương khói, đến ngày kỵ đều được các quan lại địa phương hàng năm chính thức đến tế. Chỉ riêng có Trần Hưng Đạo ngoài đền thờ, còn được coi là đã hiển linh để phù hộ, giúp đỡ đồng bào của mình, che chở mọi người chống lại tà ma, quỉ quái. Đức Thánh Trần với các con trai và các gia tướng của Ngài như Yết Kiêu, Dã Tượng luôn luôn được truyền tụng là đã hiển linh trong các công tác này. Những chuyện như Phạm Nhan chuyên môn tìm ăn máu dơ của phụ nữ làm cho họ mắc bệnh, mảnh chiếu lấy từ đền thờ của ngài là những chuyện phổ thông trước đây ai cũng biết
Sự kiện các dân di cư tị nạn khi ra đi đã mang theo các thần của mình là một sự kiện đã xảy ra từ lâu trong lịch sử nhân loại. Dân Hy Lạp trong các thế kỷ thứ bảy và thứ tám kéo dài đến hết thế kỷ thứ năm trước Thiên Chúa, khi có những cuộc tranh chấp nội bộ ở các đô thị-quốc gia, những city-states, những polis, của họ, điển hình là hai đô thị Athens và Sparta, các phe bại trận bị loại trừ phải bỏ xứ mà đi. Họ đã tạo nên một đường viền Hy Lạp chung quanh Địa Trung Hải với những quốc gia-đô thị, những polis mới ở nam Âu, ở Tây Á và luôn cả ở Phi Châu. Khi ra đi họ đã mang theo văn minh Hy Lạp và đặc biệt là các thần linh Hy Lạp của họ. Với những yếu tố văn minh, văn hóa và đặc biệt là tín ngưỡng này, những đô thị-quốc gia mới của họ, mặc dù vẫn giữ được những liên hệ lịch sử, văn minh và văn hoá, đã trở thành hoàn toàn độc lập với các đô thị-quốc gia mẹ, đã tự mình đứng vững và phát triển, không còn bị các quốc gia-đô thị mẹ chi phối về phương diện chính trị và sinh hoạt hàng ngày nữa.
Người Tầu khi di cư ra khỏi quê hương của họ cũng làm những việc tương tự. Bằng chứng là các “chùa Tầu” đã hiện diện ở khắp thế giới và ở miền Nam Việt Nam rất nhiều, đặc biệt là ở Saigon. Tất cả đã trở thành nhũng nơi thăm viếng mà du khách khi tới Saigon đều phải biết và ít nhiều ghé qua. Chính người viết bài này hồi trước năm 1975, khi dẫn sinh viên đi du khảo quanh vùng Thủ Đô Saigon, cũng đã ghé thăm những nơi này. Điều đáng để ý là những nơi này luôn luôn có nhiều khách hành hương tới viếng trong đó rất đông là người Việt. Nơi đây khói hương ngày đêm nghi ngút, không bao giờ tàn lạnh.
Chiến tranh kết thúc, nhiều người Việt bỏ nước ra đi
Cho tới nay, Cộng Đồng người Việt ở Hải Ngoại đã được gần tròn 40 tuổi, đã trải qua giai đoạn sống còn, đã mỗi ngày mỗi thêm vững mạnh về đủ mọi phương diện để trở thành thành phần thứ hai độc lập với thành phần thứ nhất của dân tộc Việt Nam.
Cộng Đồng Hải Ngoại của chúng ta trẻ trung hơn, năng động hơn,có tiềm năng hiểu biết cập nhật hơn, có nhiều khả năng phát triển hơn nhờ đã hình thành và phát triển trong những quốc gia tân tiến nhất trên thế giới, so với thành phần thứ nhất mỗi ngày già cỗi hơn, mòn mỏi hơn, kiệt lực hơn, không còn đủ khả năng nhận thức và ngay cả sử dụng những khả năng trí tuệ vẫn còn không ít của mình. Tuổi trẻ Việt Nam ở Hải Ngoại có thể vào và đã vào bất cứ một đại học danh tiếng nào nếu các em mong muốn và được cha mẹ khuyến khích. Rất đông các em đã đạt được điều này. Cộng Đồng Việt Nam Hải Ngoại đã tự mình hội đủ mọi điều kiện để tự đứng vững. Chúng ta đã có đầy đủ nếu không nói là khá đông các chuyên viên trí thức thượng thặng từ các khoa học gia, các giáo sư đại học, các học giả tốt nghiệp từ các học viện lớn và hiện đang phục vụ trong các trung tâm, các viện nghiên cứu bậc nhất trên thế giới để góp sự hiện diện của mình với các sắc tộc khác. Chúng ta cũng đã có những chỉ huy cao cao cấp trong quân đội, kể cả tướng lãnh. Chúng ta cũng có những chỉ huy trưởng khu trục hạm tối tân nhất của Hải Quân Hoa Kỳ, những nữ đại tá người nhỏ thó chỉ đứng đến nách những đồng sự hay thuộc cấp của mình nhưng vẫn được họ chào kính một cách trịnh trọng. Họ cũng là con em của chúng ta đó.
Trong địa hạt chính trị, người Việt nay cũng đã đi rất sâu và rất cao trong hệ thống chính quyền của nhiều nước, ở đủ cả ba ngành, ngay cả ở cấp trung ương. Nhiều người trẻ cũng đã xuất hiện và đã thành công xuất sắc. Họ thông thạo ngôn ngữ, được học, được sống và hiểu biết về xã hội nơi họ đang cư ngụ. Họ bắt đầu thay thế cho thế hệ cha anh đã đến tuổi xế chiều, nhưng vẫn hiểu biết về Việt Nam và thông thạo tiếng Việt.
Người Việt nay có cộng đồng lớn tại Mỹ
Sang một địa hạt khác gần gũi với mọi người hơn là địa hạt giáo dục. Ở đây tôi chỉ nói vế các cấp trung tiểu học và mẫu giáo, những cấp học cơ bản liên hệ trực tiếp tới các em nhỏ của chúng ta trong cộng đồng. Con số những thày cô giáo người Việt hiện diện trong các trường địa phương mỗi ngày một nhiều. Nghề làm thày cô giáo không còn bị chê so với các nghề khác như trong những thập niên đầu. Nhiều người tỏ ra đã yêu mến nghề dạy học ngay từ khi còn học ở bậc trung và luôn cả tiểu học. Họ đã đạt được ước vọng và sau nhiều năm hành nghề vẫn tỏ ra yêu nghề hơn bao giờ hết. Nhiều người đã chuyển sang cấp chỉ huy làm hiệu trưởng, phó hiệu trưởng các trường khi chán phụ trách lớp. Nên nhớ là, ít ra là ở Mỹ, dạy ở cấp nào cùng được coi là quý, là trọng, không nhất thiết là ở bậc đại học, nơi kiếm được một chỗ làm rất khó vì rất hiếm, cạnh tranh giữa các sắc dân Á Châu rất nhiều, bè cánh phe phái rất nhiều. Điều quan trọng là ở chính mình và hạnh phúc của chính mình.
Cộng đồng của chúng ta đã độc lập, đã tự đứng vững và phát triển trong suốt 39 năm qua không hề phải nhờ và vào chính quốc. Trái lại, hàng chục tỷ đôla hàng năm đã được gửi về làm giàu cho các cán bộ và các đại gia ở trong nước. Có điều thay vì để yên cho thành phần thứ hai của dân tộc này phát triển để hỗ trợ lẫn nhau, cùng nhau song song phát triẻn, cùng hưởng thì các “đỉnh cao trí tuệ” ở trong nước đã coi nó như một con gà đẻ trứng vàng, tìm cách ảnh hưởng tới nó, bắt nó đẻ nhiều hơn, thậm chí bắt và giết nó. Riêng trong phạm vi dạy tiếng Việt có người còn cổ võ đưa các thày ở trong nước ra dạy ở các trường hải ngoại. Cổ võ nhưng vị này không hề quan tâm đến tình trạng suy đồi thậm tệ của tiếng Việt ở ngay chính trong nước mà rất nhiều bài thuyết trình, khảo cứu đã được phổ biến trong nhiều cuộc hội thảo ở khắp nơi trên thế giới, ở Mỹ. ở Canada, ở Úc, ở Pháp, trên báo chí, truyên truyền thanh, truyền hình, trong những năm qua.
Sự hình thành của Cộng đồng Việt Nam Hải Ngoại coi như thành phần thứ hai của dân tộc là một cơ hội ngàn năm một thuở chúng ta có được, sau khi người dân Việt Nam đã phải trải qua nhiều chục năm dài đầy chiến tranh, đau thương, chết chóc và bất hạnh. Chúng ta đã không có được một lãnh thổ duy nhất, một chính quyền chung nhưng chúng ta có những con người, có chung một lịch sử, một nguồn gốc, đã ra đi trong cùng một hoàn cảnh, một thời điểm. Nói một cách khác, chúng ta đã có một Siêu Quốc gia Việt Nam không có lãnh thổ, không có chính quyền, không có thủ đô nhưng tất cả đều nằm sâu thẳm trong lòng mọi người dân của nó. Một siêu quốc gia như vậy thích hợp hơn với sinh hoạt quốc tế trong thời hiện tại, thời mà biên giới giữa các nước đã mờ dần trước sự phát triển chung của cả nhân loại. Cũng nói cách khác, nếu trong thế kỷ 19, một học sinh người Anh được học rằng “Mặt trời không bao giờ lặn trên Đế Quốc Anh” thì khác đi một chút, kể từ thế kỷ 20, một học sinh Việt Nam phải được học rằng “Từ sau năm 1975, mặt trời không bao giờ lặn trên những miền đất có người Việt Nam cư ngụ.”
Cộng Đồng của chúng ta đã vững mạnh và luôn luôn được các nhà cầm quyền bản xứ che chở. Chúng ta không cần phải có sự giúp đỡ từ bên ngoài, nói trắng ra là từ những người này. Phạm Nhan đã bị chém đầu từ bảy thế kỷ trước tuy vẫn còn lảng vảng khắp nơi để kiếm máu dơ của phụ nữ nhưng y sẽ không làm gì được chúng ta vì chúng ta đã có Đức Thánh Trần và Chúa Liễu Hạnh luôn luôn hiển linh và che chở cho chúng ta. Chúng ta hãy cùng nhau giữ cho tượng ngài quanh năm sạch sẽ và nếu có, hương khói lúc nào cũng nghi ngút, để trở thành một thắng tích bất cứ ai ghé Little Saigon đều phải ghé qua để tỏ lòng tôn kính ngài.
Chúng ta đã khơi lại được mạch sống của bảy trăm năm trước. Chúng ta có sống lại được với sức sống do tiền nhân truyền lại cho chúng ta hay không? Điều này tùy thuộc ở chính chúng ta. Chúng ta sẽ coi quyền lực, danh lợi tiền bạc của cá nhân hay phe nhóm là trọng hay sự tồn vong của cả dân tộc là trọng. Đó là tùy thuộc chúng ta. Những người đang sống trên đất mẹ của chúng ta xem ra khó mà làm được điều này vì dù có muốn họ cũng không làm được và không được phép làm và cũng vì tất cả đều đã quá mòn mỏi, khô cằn, nếu không nói là kiệt lực. Tất cả chỉ còn trông cậy ở chúng ta và con cháu chúng ta.
Bài viết phản ánh quan điểm và cách hành văn riêng của tác giả. Ông Phạm Cao Dương lấy bằng tiến sĩ sử học ở Đại học Paris, và dạy ở nhiều đại học tại Sài Gòn trước 1975. Sau khi sang Mỹ, ông dạy về lịch sử, ngôn ngữ Việt Nam ở một số trường tại Nam California trước khi về hưu.

Tin liên quan

http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/2014/09/140917_pham_cao_duong_y_kien

25 năm Little Saigon

  • 22 tháng 6 2013
California là nơi đến của nhiều người Việt từ năm 1975
Tuần qua, cộng đồng người Việt ở Quận Cam nhộn nhịp những sinh hoạt chào mừng Little Saigon 25 tuổi.
Hai bên phố Bolsa, khúc từ Brookhurst đến Magnolia, phất phới cờ Mỹ và cờ vàng ba sọc đỏ.
Tháng này 25 năm về trước, tiểu bang California chính thức công nhận khu thương mại đầu tiên của người Việt tại Mỹ với lễ khai trương bảng “Little Saigon” đặt trên các xa lộ bắc nam 405 và đông tây 22 chỉ đường vào trung tâm buôn bán của người Việt tại hai thành phố Westminster và Garden Grove. Buổi lễ hôm đó có sự hiện diện của Thống đốc George Deukmejian để đánh dấu sự phát triển của cộng đồng người Việt sau 13 năm định cư tại Hoa Kỳ.
Vì sao California là nơi đến của nhiều người Việt từ năm 1975 và ngay cả bây giờ?
30-4-1975, khi xe tăng cộng sản Bắc Việt tiến vào thủ đô miền Nam Việt Nam và chính quyền Sài Gòn tuyên bố đầu hàng, khoảng 150 nghìn người Việt đã bỏ quê hương ra đi.
Vào những ngày cuối cùng của Việt Nam Cộng hoà, khi Hoa Kỳ quyết định rút lui, chính phủ Mỹ đã dựng trại tại căn cứ hải quân ở Philippines, ở các đảo Guam, đảo Wake nằm trong Thái Bình dương để đón người Việt tị nạn.
Sau đó nhiều trại cũng được mở ra trong nội địa Hoa Kỳ ở California, Arkansas, Florida và Pennsylvania.
Trung tâm huấn luyện Thuỷ quân Lục chiến tại miền nam California, Camp Pendleton nằm gần San Diego, là nơi đầu tiên lều trại được dựng lên từ cuối tháng Tư để tiếp nhận người Việt và là trại có số người tạm cư đông nhất trên toàn nước Mỹ.
Từ trại tiếp cư, người tị nạn được các nhà thờ, cơ sở từ thiện bảo trợ đưa ra ngoài sinh sống. Chỉ cách trại tị nạn vài chục phút đường ô-tô nên các thành phố Garden Grove, Westminster, Santa Ana đã đón nhận nhiều người Việt đến định cư ngay trong thời gian đầu.
Năm 1975, 130 nghìn người Việt đã được định cư tại Hoa Kỳ, rải rác ở nhiều nơi trên toàn quốc. Cộng đồng người Việt tại Mỹ được khai sinh từ đó.
Lúc đầu, chính phủ Hoa Kỳ muốn phân tán người Việt ra khắp nơi nên đã mở ra bốn trại tiếp nhận ở các tiểu bang khác nhau.
Tháng Giêng 1976, trải qua mùa đông đầu tiên nơi đất mới với thời tiết lạnh khác thường và bão tuyết đổ xuống miền đông nên khi mùa hè đến, nhiều người Việt đã được định cư ở Chicago, New York, Connecticut, Pennsylvania, sợ cái lạnh nên quyết định làm cuộc “tây tiến”, tức đi về California tìm nắng ấm.
'Đi dễ khó về'
Đến Cali một lần là không bỏ đi được, nên thời đó đã có thơ: “Cali đi dễ khó về. Trai đi có vợ, gái về có con”. Đi Cali chơi cũng là mơ ước của nhiều người Việt ở những tiểu bang khác.
Theo nghiên cứu năm 1983 của hai giáo sư Karl Jackson và Jacqueline Desbarats thuộc Đại học California Berkeley, những nguyên nhân khiến nhiều người Việt tới Hoa Kỳ, sau nơi định cư ở nơi đầu tiên đã di cư lần thứ hai, đa số đổ về California vì nơi đây có nhiều việc làm, dễ xin trợ cấp xã hội, khí hậu ấm áp và được gần gũi với đồng hương.
Chân ướt chân ráo đến xứ lạ, ngôn ngữ còn kém, phong tục tập quán mới chưa quen nên người Việt thấy cần sống quây quần với nhau. Từ những tình cảm thương nhớ, hoài niệm về quê hương và nhu cầu bảo tồn văn hoá nguồn cội vì thế những năm đầu tiên ở Mỹ đã có các hội đoàn tương trợ và hội sinh viên Việt Nam được thành lập.
Ngay từ đầu, những khu người Việt tập trung sinh sống cũng gần phố Tầu, Quận Cam cạnh phố Tầu Los Angeles, San Jose gần phố Tầu San Francisco. Điều này nói lên việc ăn bơ, uống sữa và làm quen với thực phẩm Mỹ còn là điều khó khăn, nhất là cho những ai trưởng thành từ Việt Nam.
Năm 1975 có khoảng hai chục nghìn người Việt định cư tại Quận Cam. Với làn sóng vượt biển gia tăng vào đầu thập niên 1980, người vượt biển được Hoa Kỳ nhận cho định cư thường đi về những nơi có thân nhân hay bạn bè đang sinh sống, vì thế số người đến California ngày càng nhiều.
Cộng đồng lớn mạnh, kéo theo những phát triển về kinh tế, xã hội, văn hoá và chính trị.
Nhu cầu ổn định cuộc sống là mua được căn nhà sau một thời gian đi làm. Nhiều người đã quen đường đi, nước bước nên mở nhà hàng, cơ sở buôn bán nhà cửa, bảo hiểm để phục vụ đồng hương.
Thông tin, giải trí cũng là nhu cầu không thể thiếu trong cộng đồng. Tờ báo tiếng Việt đầu tiên ở California là nguyệt san Hồn Việt ra đời cuối năm 1975. Sau có bán nguyệt san Việt Nam Hải Ngoại, Thức Tỉnh. Tuần báo Người Việt phát hành số đầu tiên năm 1978.
Các chương trình sinh hoạt cộng đồng, văn nghệ sinh viên thường mang chủ đề đấu tranh cho nhân quyền tại Việt Nam hay giúp người vượt biên, vượt biển được tổ chức tại các đại học từ Los Angeles, Santa Ana, Irvine lên đến Berkeley, San Jose, San Francisco.
Năm 1988 có khoảng 100 nghìn người Việt ở Quận Cam, làm chủ trên 1000 cơ sở thương mại, quây quần trong hai thành phố Westminster và Garden Grove, đông nhất trên các phố Bolsa, Brookhurst và Magnolia, những nơi mà hơn thập niên trước đó còn là những cánh đồng trái cây.
Ngày nay số cư dân gốc Việt tại Little Saigon tăng gấp ba, số cơ sở thương mại tăng có đến gấp năm lần. Ở đó, nay có siêu thị bán thực phẩm với nhiều cây trái, gia vị, cà-phê, hải sản nhập từ Việt Nam, có nhiều cửa hàng phục vụ đủ loại món ăn Việt. Ở đó nổi tiếng có Xe đò Hoàng nối liền nam bắc Cali mỗi ngày, có phở và bánh mì được nhiều người không phải gốc Việt cũng thích ăn. Các trung tâm băng nhạc Thuý Nga, Asia và Vân Sơn đều đặt trụ sở tại đây.
Người Việt ở Mỹ có một số tờ báo riêng
Sau 25 năm chính thức được công nhận, Little Saigon ngày nay có các nhật báo Người Việt, Việt Báo, Viễn Đông là lâu đời nhất; gần hai chục tuần báo, cả chục chương trình ti-vi và phát thanh tiếng Việt.
Nhật báo Người Việt ra ngày Chủ nhật 16-6-2013 là số 10053. Trên báo này, mỗi ngày chỉ phần rao vặt không thôi, chưa kể nhiều các quảng cáo thương mại khác, đã chiếm trên 10 trang.
Tuần báo Saigon Times đến nay ra được 1349 số, in khổ nhật báo. Số mới nhất dày 76 trang với nhiều tin tức, bình luận cùng nhiều quảng cáo từ văn phòng bác sĩ, nha sĩ, nhà hàng và tràn ngập rao vặt tìm thợ sơn móng tay.
Đánh dấu cho sinh hoạt chính trị của cộng đồng, Little Saigon có thị trưởng Westminster là ông Tạ Đức Trí, có Giám sát viên Janet Nguyễn trong Hội đồng Giám sát Quận Cam và hơn chục dân cử gốc Việt các cấp trong chính quyền địa phương. Little Saigon với Westminster có hơn một phần ba cư dân gốc Việt và Garden Grove với một phần tư, là khu vực đã có những nghị quyết không hoan nghênh các cuộc viếng thăm của quan chức nhà nước cộng sản Việt Nam.
Thành phố Westminster có tượng đài chiến sĩ Việt Mỹ, đài tưởng niệm thuyền nhân. Đại học U.C. Irvine có văn khố lưu trữ tài liệu về người Việt tị nạn. Đại học Cal State Fullerton có chương trình sư phạm đào tạo giáo viên dạy Việt ngữ bậc phổ thông. Các đại học Long Beach, U.C. Los Angeles và Irvine đều có những lớp về ngôn ngữ và văn hoá Việt. Nhiều giáo sư có dự án nghiên cứu về cộng đồng người Việt.
Với lịch sử cộng đồng gắn liền với sự phát triển của Little Saigon tại Quận Cam, vì thế khi nhắc đến người Mỹ gốc Việt, giới truyền thông và nghiên cứu thường coi khu vực này là tiêu biểu cho cộng đồng.
Tác giả hiện dạy đại học cộng đồng và là một nhà báo tự do từ vùng Vịnh San Francisco.

Geen opmerkingen:

Een reactie posten