Giữ Trường Sa trước tham vọng bá quyền
21/10/2014 13:30(TNO) Ngay từ ngày đầu tiên tiếp quản Trường Sa từ tay chính quyền Sài Gòn (đầu tháng 4.1975), những người lính hải quân QĐND Việt Nam đã ngay lập tức đối đầu với những con tàu nước ngoài lăm le chiếm đảo. Trong suốt gần 40 năm, sự căng thẳng chưa bao giờ giảm nhiệt trên từng điểm đảo, từng góc trời Tổ quốc nơi biển Đông.
Đại tá Phạm Duy Tam (thứ ba từ trái sang) trong một lần ra thăm Trường Sa (Trung Hiếu chụp lại ảnh tư liệu) |
Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Hải Bình nhiều lần nhấn mạnh những hành động nêu trên của Trung Quốc là vô giá trị, không thể làm thay đổi thực tế là Việt Nam có chủ quyền không tranh cãi đối với hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.
Trong bối cảnh Trung Quốc đang đẩy mạnh hoạt động xây dựng phi pháp tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam, nhiệm vụ giữ đảo càng trở nên quyết liệt.
Kỳ 1: Kiểm soát 'lá chắn của biển
Đông'
Tháng 4.1975, đại tá Phạm Duy Tam là thuyền trưởng tàu 675 thuộc đoàn tàu
không số (hiện là Lữ đoàn 125 hải quân). Sau chiến dịch Mậu Thân 1968, việc vận
chuyển vũ khí, đạn dược từ miền Bắc vào Nam bị gián đoạn. Nhiệm vụ của các tàu
không số là giả dạng các tàu cá chở vũ khí, đánh bắt ở dọc ven biển, khi có thời
cơ sẽ hỗ trợ cho chiến trường miền Nam.
|
Thời cơ đến, được lệnh của Bộ Chính trị, ngày 9.4.1975, một biên đội gồm các tàu 673 (trung úy Nguyễn Xuân Thơm làm thuyền trưởng), 674 (trung úy Nguyễn Văn Đức làm thuyền trưởng) và 675 từ Hải Phòng được điều vào Đà Nẵng nhận lệnh đi Trường Sa.
Sau hơn một ngày lênh đênh trên biển, 21 giờ ngày 10.4.1975, ba tàu có mặt ở cảng Tiên Sa. Ở đây, tàu nhận đặc công nước hải quân và một lực lượng phối hợp thuộc Quân khu 5.
4 giờ sáng 11.4.1975, ba tàu được lệnh nhổ neo hành quân ra biển, hướng về Song Tử Tây - một đảo nổi nằm ở phía bắc quần đảo Trường Sa, cách đất liền chừng 470 hải lý (gần 900 km).
“Tàu đi biển trong điều kiện sóng to, gió lớn. Giữa đường thì tàu 674 bị hư máy, tàu của tôi phải kéo. Khó khăn nhất là chúng tôi mất liên lạc với sở chỉ huy ở bờ. Các phương tiện định vị lúc đó trên tàu chỉ có cái la bàn và một số dụng cụ thô sơ để đo tính thiên văn. Cho nên từ đất liền ra Song Tử Tây chủ yếu dựa vào kinh nghiệm của anh em”, đại tá Tam kể lại.
Đại tá Tam cho hay, trước khi ra Trường Sa, cấp trên giao phải tiếp cận đảo mục tiêu lúc 2-3 giờ sáng để gây bất ngờ và không được đánh nhầm vào các đảo do Đài Loan và Philippines kiểm soát.
Ba thuyền trưởng đầu tiên ra giải phóng quần đảo Trường Sa sau năm 1975. Đại tá Tam ngoài cùng bên phải (Trung Hiếu chụp lại ảnh tư liệu) |
Chiều 13.4.1975, trinh sát trên tàu báo đã phát hiện đảo Song Tử Tây. Tàu 673 cho quân đổ bộ sát đảo, còn tàu 674 và 675 án ngữ cách đảo 15 hải lý về phía bắc đề phòng tàu lạ xuống và cảnh giới tàu của Việt Nam Cộng hòa (lúc đó tập trung ở đảo Nam Yết).
Rạng sáng 14.4.1975, tàu 673 tiếp cận sát đảo Song Tử Tây, thả thuyền cao su xuống để chở 40 đặc công nước do ông Nguyễn Ngọc Quế chỉ huy, lặng lẽ ém sát bờ và đổ bộ lên đảo.
Sau 30 phút kể từ khi hiệu lệnh tấn công được phát ra, khoảng 4 giờ 30 phút, bộ đội đã chiếm toàn bộ đảo Song Tử Tây.
“Lúc này ở Trường Sa, phía Việt Nam Cộng hòa chiếm giữ 6 đảo, gồm: Song Tử Tây, Nam Yết, Sơn Ca, Sinh Tồn, An Bang, Trường Sa Lớn. Nam Yết được coi là nơi đóng sở chỉ huy của đối phương. Trang bị trên các đảo rất thô sơ, chỉ có một vài dãy nhà tôn lụp xụp, xiêu vẹo”, ông Tam nhớ lại.
Cờ bay phấp phới
Sau khi chiếm giữ Song Tử Tây, ông Tam chuyển sang làm thuyền trưởng tàu 674, chở số tù binh về bờ giao cho ban quân quản ở Đà Nẵng. Hai tàu 673 và 675 ở lại củng cố lực lượng, sau đó trở về Đà Nẵng để chuẩn bị lực lượng tiến về các đảo còn lại ở Trường Sa.
Ngày 23.4.1975, quân giải phóng lấy được đảo Sơn Ca. 2 giờ ngày 29.4.1975, toàn bộ 6 đảo nổi do Việt Nam Cộng hòa chiếm đóng đều thuộc quyền kiểm soát của quân giải phóng. Cờ Mặt trận giải phóng miền Nam Việt Nam được treo lên. Bộ đội tổ chức lực lượng phòng ngự đề phòng phản công.
Cùng lúc đó, các đơn vị tiến hành gắn bia chủ quyền ở đảo nổi và rải bia chủ quyền ở mép đảo chìm.
Đại tá Tam (cầm lái) trong một lần đi biển (Trung Hiếu chụp lại ảnh tư liệu) |
Đại tá Tam cười nói: “Sau hai ngày kể từ khi ta giải phóng Trường Sa, Trung Quốc tổ chức một biên đội tàu kéo quân xuống Trường Sa với ý đồ “giúp đỡ” ta. Nhưng tới nơi, thấy cờ của ta phấp phới bay ở các đảo, quân Trung Quốc đành bỏ về”.
Liên quan đến âm mưu thôn tính, độc chiếm biển Đông của Trung Quốc, đại tá Tam lý giải do biển Đông có vị trí quân sự quan trọng, giống như một lá chắn kéo dài từ Trường Sa xuống nhà giàn DK1. Tất cả tàu bè từ eo biển Malacca, đi qua biển Đông đều qua khu vực này.
“Trường Sa giống như yết hầu và con mắt của biển Đông nên Trung Quốc luôn có dã tâm xâm chiếm”, ông Tam nói.
Năm 1983, ông Tam quay lại Trường Sa khi có thông tin Malaysia xây dựng nhà trên đảo cách đảo An Bang chừng 60 hải lý. Sau đó, ông Tam cho tàu tới các đảo chìm Châu Viên, Chữ Thập để trinh sát thì vẫn thấy bia chủ quyền của Việt Nam ở đây.
Ngày 14.3.1988, Trung Quốc đã dùng vũ lực đánh chiếm Gạc Ma, trước đó đã chiếm đóng đảo Châu Viên, Chữ Thập. (Còn tiếp)
Lịch sử Lữ đoàn 146, Bộ tư lệnh Vùng 4 Hải quân (đơn vị bảo vệ Quần đảo Trường Sa) ghi rõ: “Tháng 3.1978, trên khu vực Quần đảo Trường Sa thường xuyên xuất hiện máy bay và tàu thuyền của một số nước xâm phạm và tiến hành trinh sát các đảo của ta. Diễn biến tình hình có nhiều phức tạp. Ngoài ra, còn có tàu thuyền giả dạng tàu đánh cá của Trung Quốc, xuất hiện ở vùng Đá Giữa (Đá Đông), Hòn Sập (Phan Vinh), Thuyền Chài…”. |
Trung Hiếu
>> Lập bài vị các liệt sĩ Gạc Ma trong chùa Sinh
Tồn>> Loạt bài '25 năm hải chiến Trường Sa' của TNO giành giải A báo chí quốc gia
>> 25 năm hải chiến Trường Sa - Kỳ 5: Mùa xuân nhớ con anh hùng
>> 25 năm hải chiến Trường Sa - Kỳ 4: Cuộc trở về của Nguyễn Văn Lanh
>> 25 năm hải chiến Trường Sa - Kỳ 3: 1.000 ngày bị địch bắt
>> 25 năm hải chiến Trường Sa - Kỳ 2: Anh hùng đất Việt
>> 25 năm hải chiến Trường Sa
Dòng sự kiện
Giữ Trường Sa trước tham vọng bá quyền - Kỳ 2: Chạm trán22/10/2014 06:00(TNO) Lính Hải quân Việt Nam có mặt tại Trường Sa từ lúc khảo sát đường Hồ Chí Minh trên biển. Thế nhưng, họ thực sự thấm thía khái niệm “biên đảo địa đầu” chỉ từ đầu tháng 4.1975, khi chạm trán các con tàu lạ đang rình rập chiếm biển đảo của ta.
“Chậm vài tiếng là mất Nam Yết” Thượng tá Lê Văn An (nguyên Chỉ huy trưởng Khu vực, Lữ đoàn 146 - Vùng 4 Hải quân) nay đã 68 tuổi. Ông đang nghỉ hưu tại thị trấn Mỹ Ca (thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa) và có lẽ sẽ chẳng bao giờ quên ký ức những ngày tiến về Trường Sa năm 1975. Ông kể, cuối tháng 3.1975, ông mang cấp bậc trung úy, giữ chức vụ Đại đội trưởng Đại đội 4 (Tiểu đoàn 4, Trung đoàn 38, Sư đoàn 2, Quân khu 5) và cùng đơn vị đóng quân tại sân bay Nước Mặn (Đà Nẵng). Đầu tháng 4.1975, Tiểu đoàn 4 nhận lệnh “giải phóng Trường Sa” và được tăng cường chỉ huy, hỏa lực. “Trung tá Nguyễn Đình Thúy, Trung đoàn Trưởng trực tiếp xuống chỉ huy Tiểu đoàn cùng với 1 đại đội “12 ly 7” và 1 đại đội ĐKZ, phối hợp với lực lượng đặc công nước của trung tá Mai Năng và đi trên tàu của Đoàn 128 Hải quân”, thượng tá An nhớ rành rọt.
Ông An cười: “Hồi ấy chẳng ai biết gì về Trường Sa. Mình cứ nghĩ đảo cũng giống vùng núi đá Ninh Bình quê mình, nên quán triệt cho cán bộ chiến sĩ: Trường Sa là vùng núi đá trọc - tai mèo, sóng rất to. Anh em không được nô đùa, câu cá kẻo bị ngã, tai nạn”. Những gì họ được quán triệt về Trường Sa khác hẳn “mắt thấy tai nghe” khi mấy ngày sau tàu ra đến đảo. Bất ngờ hơn, dọc đường hành quân, họ luôn gặp tàu Trung Quốc trong hình dạng tàu cá le ve bám theo, lượn lờ quanh hòn đảo như đang quan sát động tĩnh, chuẩn bị làm điều gì bất thường. Sau khi đóng giữ Song Tử Tây, Đại đội trưởng Lê Văn An cùng các lực lượng tiến về Sơn Ca (25.4.1975), Nam Yết - nơi quân đội của chế độ cũ đặt Sở Chỉ huy (28.4), Sinh Tồn (28.4). Ngày 29.4.1975, chỉ huy bộ đội đổ bộ chiếm lĩnh đảo Trường Sa.
“Nhớ nhất là tại Nam Yết. Mình vừa chiếm đảo, kéo cờ được mấy tiếng và cho tàu lùi ra ngoài xa, thì một số tàu Trung Quốc thả trôi tiếp cận đảo. Phát hiện cờ của ta trên đảo và bộ đội đang bố phòng, tàu Trung Quốc nổ máy chạy ra chỗ khác”, thượng tá An kể rồi gật đầu: “Chậm vài tiếng là đảo chỉ huy Nam Yết rơi vào tay Trung Quốc!” Tàu Trung Quốc ở quanh nhiều đảo Đại tá Nguyễn Văn Dân (sinh năm 1945, tại huyện Tĩnh Gia, Thanh Hóa), có gần 20 năm (1975 - 1994) gắn bó với quần đảo Trường Sa, nên những chi tiết ngày đầu ra tiếp quản các đảo được ông nhớ rất kỹ. Ông kể năm 1975, ông được lệnh tham gia Đoàn công tác tiếp quản căn cứ Cam Ranh (Khánh Hòa) khi đang là trung úy, trợ lý Tham mưu của Khu vực 2 Sông Mã, Hải quân. Vừa vào đến nơi, ông nhận lệnh hành quân tiếp ra Trường Sa, tổ chức tăng cường cho lực lượng ngoài đảo.
Một đêm giữa tháng 4.1975, ông cùng anh em lên 2 tàu hải quân giả dạng tàu cá, mang số hiệu 679, 680 ra Trường Sa. Tiếp quản đảo, đoàn công tác của ông Dân tập trung tổ chức lại công tác bảo vệ và nắm thêm tình hình chung. “Xong Song Tử Tây, Sơn Ca rồi đến Nam Yết, Sinh Tồn, Trường Sa. Thời điểm ấy ở gần Nam Yết, có 1 tàu khu trục của hải quân chế độ cũ, nhưng tàu này rút đi khi thấy tàu ta”, đại tá Nguyễn Văn Dân kể.
Ông khẳng định: “Trong những ngày tiếp quản các đảo, hầu như không thấy tàu Mỹ mà chỉ gặp một số tàu của Trung Quốc ở quanh các đảo. Khi thấy tàu ta đến, họ rút đi. Ở các đảo Thị Tứ, Loại Ta còn phát hiện tàu mang cờ Philippines”. (Còn tiếp)
Mai Thanh Hải
http://www.thanhnien.com.vn/pages/20141020/giu-truong-sa-truoc-tham-vong-ba-quyen-ky-2-cham-tran.aspx
Giữ Trường Sa trước tham vọng bá quyền - Kỳ 3: An Bang, Thuyền Chài giữa vòng vây23/10/2014 06:45(TNO) "Tàu Trung Quốc đang rập rình, nên phải chốt giữ ban đêm. Ban ngày đổ bộ công khai lộ liễu, nó lại ào ra chiếm lại thì chết, trong khi tàu bè của mình không bì lại với chúng nó", Đô đốc Giáp Văn Cương, Tư lệnh Quân chủng Hải quân, dặn dò bộ đội.
>> Giữ Trường Sa trước tham vọng bá quyền - Kỳ 1: Kiểm soát 'lá chắn của biển Đông' Giữ An Bang giữa vòng vây Những tháng đầu năm 1978, diễn biến tình hình trên khu vực quần đảo Trường Sa rất phức tạp, đặc biệt là hoạt động trinh sát dò la của máy bay, tàu thuyền Philippines, Malaysia, Hồng Kông, Trung Quốc... tại nhiều đảo. Trước tình hình đó, Nghị quyết Đảng ủy Quân chủng Hải quân chỉ rõ “phải tập trung khẩn trương mọi nỗ lực cao nhất của toàn Quân chủng vào việc chuẩn bị chiến đấu; sẵn sàng đánh thắng kẻ thù xâm lược, giành cho được thắng lợi từ trận đầu, bảo vệ vững chắc vùng biển, hải đảo của Tổ quốc”.
Đầu tháng 3.1978, đại tá Cao Ánh Đăng (khi đó là trung tá) trực tiếp chỉ huy một đơn vị gồm lực lượng của Trung đoàn 146, Trung đoàn 83 Công binh Hải quân và phân đội đặc công nước của Lữ đoàn 126, theo tàu HQ-601 ra tập kết tại đảo Trường Sa xem xét tình hình và chuẩn bị đổ bộ lên đảo An Bang. 20 giờ ngày 10.3.1978, toàn thể phân đội đổ bộ, khẩn trương xây dựng và sẵn sàng bảo vệ đảo. Sau đó 20 ngày, khi lực lượng đi trên tàu 680 (Đoàn 128) do đại úy Vũ Xuân Hòa chỉ huy, cùng 31 chiến sĩ đổ bộ lên đóng giữ đảo Phan Vinh (ngày 30.3.1978), trung tá Cao Ánh Đăng cũng có mặt, nghiên cứu giúp đơn vị tổ chức lực lượng bảo vệ phòng thủ đảo. Hồi ức về những ngày đầu tiên lên “lò vôi” An Bang của đại tá Cao Ánh Đăng, luôn có Đô đốc Giáp Văn Cương, Tư lệnh Quân chủng Hải quân. Trước đó, Tư lệnh Giáp Văn Cương trực tiếp giao nhiệm vụ cho Trung đoàn trưởng Cao Ánh Đăng: “Nước ngoài để ý từ lâu rồi. Mình không đóng nhanh, lính Trung Quốc hoặc Malaysia ra chiếm mất”. Ông dặn dò: “Tàu Trung Quốc đang rập rình, nên phải chốt giữ ban đêm. Ban ngày đổ bộ công khai lộ liễu, nó lại ào ra chiếm lại thì chết, trong khi tàu bè của mình không bì lại với chúng nó”. Y như rằng, bộ đội vừa chiếm giữ ban đêm, sáng hôm sau tàu chiến của Malaysia đã cơ động tới ngay. “Sáng hôm ấy, khi đào công sự còn thấy cột mốc chủ quyền của chế độ Sài Gòn. Họ đặt ở đó rất lâu rồi, nhưng không cho quân đóng giữ, chắc do thời tiết quá khắc nghiệt”, đại tá Cao Ánh Đăng nhớ lại. Ông cho biết: “Cả Trung Quốc và Malaysia muốn chiếm đóng An Bang, nhưng vẫn chậm chân hơn mình”. Trong buổi sáng 11.3.1978 ấy, tàu chiến Malaysia tiến sát An Bang, quay pháo hung hăng đe dọa nhưng bộ đội ta vẫn bình thản đào công sự. “Lúc ấy tàu vận tải của ta đang thả trôi, súng ống trên tàu dưới đảo, tuy chỉ bộ binh nhưng cũng sẵn sàng hết rồi”, đại tá Cao Ánh Đăng kể. Tại An Bang, tháng 11.1978, Hải quân Malaysia đã cho tàu chiến vây ép đảo suốt 11 ngày đêm, nhưng bộ đội ta đã kiên trì bám trận địa khiến tàu đối phương phải rút ra khỏi khu vực. Tập thể đảo và Đảo trưởng Đào Minh Thu sau đó được tặng thưởng Huân chương chiến công.
Làm sạch Thuyền Chài Tháng 4.1978, tàu HQ-501 đưa 1 phân đội của Trung đoàn 146 (do đồng chí Kỳ phụ trách) ra đóng giữ. Do điều kiện vật chất chưa đảm bảo, đến tháng 5.1978, phân đội rút về đất liền. Cuối năm 1986, Philippines đã tăng cường hoạt động thăm dò quần đảo Trường Sa, với máy bay và tàu thuyền (có tàu chiến trinh sát), hoạt động từ Song Tử Tây đến khu vực Thuyền Chài. Malaysia cho 2 tàu khu trục hoạt động cách đảo An Bang từ 7 đến 10 hải lý, mở luồng và xây dựng cầu tàu ở đảo Chim Én, đưa lực lượng chiếm bãi Kiêu Ngựa, bãi Kỳ Vân.
Chủ trương đóng giữ Thuyền Chài đã có từ lâu, một đại đội được thành lập (gồm 3 trung đội, 3 pông tông) với vũ khí trang bị cần thiết, sẵn sàng đóng giữ Thuyền Chài theo lệnh của Chỉ huy Vùng 4. Tổ chức 1 phân đội công binh - công trình kết hợp với tàu neo giữ Thuyền Chài, nghiên cứu luồng lạch, vị trí neo giữ pông tông, phương hướng đưa pông tông vào vị trí đóng giữ đảo. Ngoài ra, lực lượng dự bị gồm 1 phân đội chiến đấu của Lữ đoàn 146 và 1 phân đội của đảo Trường Sa sẵn sàng cơ động khi cần thiết. Thời gian đưa pông tông số 1 vào vị trí là ngày 10.1.1987, còn 2 pông tông còn lại trước ngày 20.1.1987; lương thực - thực phẩm đảm bảo 3 tháng... Từ ngày 5.1.1987, đã có tàu của Hải đội 413 (Vùng 4) tiến hành cảnh giới quan sát đảo Thuyền Chài, tàu HQ-961 (Lữ đoàn 125) và HQ-674 (Hải đội 413) phục vụ kéo và vận chuyển, tàu chiến của Lữ đoàn 171 sẵn sàng chi viện khi có chiến sự xảy ra. Sở Chỉ huy phía trước ở đảo Nam Yết, khi xảy ra chiến đấu hoặc căng thẳng, cần thiết chuyển về Trường Sa, đảm bảo chỉ huy kịp thời. Yêu cầu được đặt ra: “Nhanh chóng hành quân cơ động trên biển và thực hiện đổ bộ lên đảo. Sở chỉ huy đặt trên tàu HQ-961, chỉ huy là đồng chí Lê Văn Thư và Cao Ánh Đăng. Điều tàu HQ-614 đang làm nhiệm vụ cấp phát hàng Tết phục vụ bộ đội các đảo, về neo giữ đảo Thuyền Chài”. Tháng 2.1987, tàu HQ-613 ra thay cho HQ-614 về căn cứ, 2 chỉ huy của Vùng 4 ra thay cho 2 đại tá Thư và Đăng về đất liền, báo cáo tình hình với Bộ Tư lệnh Hải quân. Quân chủng quyết định chiếm giữ Thuyền Chài và sáng 5.3.1987, pông tông số 01 chở lực lượng của Lữ đoàn 146 đã được bí mật kéo lên bãi, bộ đội treo cờ đỏ sao vàng lên ca bin pông tông, khẳng định chủ quyền của Việt Nam và Thuyền Chài là đảo chìm đầu tiên được Việt Nam đóng giữ tại quần đảo Trường Sa.
Quý 2/1987, Trung đoàn 83 Công binh Hải quân hoàn thành việc xây dựng ở đảo Thuyền Chài và một số công trình khác trên đảo. “Thời điểm xây dựng Thuyền Chài, máy bay Malaysia liên tục bay qua bay lại, thấp đến mức nhìn rõ chữ in trên thân”, đại tá Cao Ánh Đăng nhớ lại. Đại tá Đăng kể, trong thời gian cảnh giới, chờ đóng giữ Thuyền Chài (cuối năm 1986), anh em báo tàu cá Trung Quốc trinh sát tất cả các đảo. Ông liền điện về bờ, đề nghị cho người biết tiếng Trung ra Trường Sa. Ông kể: “Hôm ấy, phát hiện tàu cá Trung Quốc neo đậu sát đảo, tôi lệnh cho tàu chạy tới áp sát, anh em trên tàu sẵn sàng. Tàu Trung Quốc thấy mình chạy tới, mới cho người lên boong căng dây phơi quần áo, như thể đi biển. Mấy anh em chúng tôi cùng đồng chí phiên dịch nhảy sang hỏi: “Tàu của nước nào?”. Chủ tàu khoảng 40 - 45 tuổi trả lời: “Tàu của Trung Quốc!”. “Cụ thể ở chỗ nào của Trung Quốc?”. “Hợp tác xã đánh cá tỉnh Quảng Tây”. “Tôi chắc chắn là tàu Trung Quốc, nên yêu cầu phiên dịch nói chậm rãi: “Đảo này là của Việt Nam, các đảo nơi đây đảo Việt Nam. Yêu cầu các anh rời khỏi khu vực!”. Vừa nói xong, có 5 cái xuồng máy nhỏ ào ào về cập mạn tàu, trên mỗi xuồng có 1 thanh niên, toàn 19 - 20 tuổi, trắng trẻo đẹp trai”, đại tá Đăng nhớ lại. Ông tiếp lời: “Tôi hỏi: “Các anh này là ai, đi đâu về?”. Chủ tàu đáp: “Ngư dân của chúng tôi câu cá trong hồ. Phải câu cá sống, bán mới nhiều tiền” và đưa ống câu ra cho xem. Đến lúc này, tôi vạch mặt thẳng: “Các anh đừng nói dối. Ngư dân gì mà trắng trẻo vậy? Các anh là lính thủy đánh bộ của Trung Quốc, đến đây để trinh sát. Cái gọi là cước câu là sợi chỉ đo độ sâu, khảo sát địa điểm cho xuồng đổ bộ” và yêu cầu: “Rời khỏi đây ngay lập tức”. “Thằng chủ tàu im thin thít cúi đầu và kéo 5 cái xuồng lên boong tàu, đi mất dạng”, đại tá Cao Ánh Đăng kể tiếp. (Còn tiếp)
Mai Thanh Hải
http://www.thanhnien.com.vn/pages/20141020/giu-truong-sa-truoc-tham-vong-ba-quyen-ky-3-an-bang-thuyen-chai-giua-vong-vay.aspx
Giữ Trường Sa trước tham vọng bá quyền - Kỳ 4: Những cuộc đối đầu căng thẳng24/10/2014 06:20(TNO) Giai đoạn cuối 1986 đến tháng 3.1988 là quãng thời gian đối đầu căng thẳng giữa ta và các lực lượng nước ngoài âm mưu chiếm đóng các đảo ở Trường Sa. Trong đó, tàu Trung Quốc nguy hiểm và hung hãn nhất.>> Giữ Trường Sa trước tham vọng bá quyền - Kỳ 3: An Bang, Thuyền Chài giữa vòng vây>> Giữ Trường Sa trước tham vọng bá quyền - Kỳ 2: Chạm trán >> Giữ Trường Sa trước tham vọng bá quyền
Thượng tá Lê Văn An (nguyên Chỉ huy trưởng khu vực, Lữ đoàn 146, Vùng 4 Hải quân) vẫn nhớ như in tháng 10.1987. Khi đó, ông mới học xong lớp bổ túc cán bộ chỉ huy - Tham mưu Binh chủng hợp thành, Học viện Lục quân và tiếp tục nhận nhiệm vụ Đảo trưởng Trường Sa. Trong 1 chuyến công tác ra đảo, ông được Tư lệnh Giáp Văn Cương giao nhiệm vụ: “Tàu Trung Quốc nó xuống đây, cậu bắn chìm cho tớ 2 - 3 cái nhé!”. Đảo trưởng An thật thà: “Nếu trong đất liền, giao bắn bao nhiêu xe tăng - quân lính, tôi cũng bắn được, vì đó là mục tiêu “động trong tĩnh”. Nhưng với mục tiêu tàu, tôi mới học chỉ huy binh chủng hợp thành về, nhiệm vụ này sợ không hoàn thành, cùng lắm chỉ bắn bị thương 1 - 2 chiếc thôi”. Tư lệnh Cương vỗ vai: “Cũng được, nhưng phải bắn trúng!”. “Từ đầu năm 1986, anh em chỉ huy đã dự đoán sẽ có đụng độ ở Trường Sa”, thượng tá Lê Văn An kể lại và minh chứng: “Nhìn từ khâu huấn luyện bộ đội cho đến việc trang bị vũ khí - khí tài chiến đấu là biết ngay”.
Quả thật, từ tháng 10.1987, hoạt động của nước ngoài trên các đảo ở khu vực Trường Sa gia tăng đột biến. Nhiều tàu giả dạng đánh cá liên tục tiếp cận các đảo Sinh Tồn, An Bang, Đá Tây, Song Tử Tây, Trường Sa Đông... Từ 16.5 - 6.6.1987, hải quân Trung Quốc tập trận. Ngày 14.12, Trung Quốc đưa đoàn tàu đánh cá gồm 14 chiếc xuống hoạt động thăm dò và đặt bia kỷ niệm ở 1 đảo. Giữa tháng 10 - 11.1987, Trung Quốc cho tàu Hải Dương 4 và một số tàu chiến đi qua khu vực đảo An Bang, Thuyền Chài, Trường Sa Đông, Trường Sa, Song Tử Tây (có lúc đi sát đảo của ta khoảng 1 hải lý)... Ngày 24.10.1987, các đảo Trường Sa chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu, tránh âm mưu khiêu khích. Đồng thời, Lữ đoàn 146 cũng nhận nhiệm vụ nhanh chóng đóng thêm 4 đảo (Tiên Nữ, Đá Lớn, Đá Tây, Chữ Thập). Ngày 28.10.1987, tàu HQ-613 đưa một lực lượng công binh, phân đội chiến đấu ra đóng giữ đảo Đá Tây. Ngày 30.10 bộ phận chiếm đảo Đá Tây đã lên đảo làm nhà bạt, tàu HQ-613 neo ngoài để bảo vệ. Tuy nhiên, do sóng to gió lớn, tàu phải chở lực lượng Đá Tây về Trường Sa Đông. Đến 27.11, bộ đội lại trở về trực ở đảo Đá Tây. Do nhiều lần sóng to tràn lên đảo, không đảm bảo an toàn, anh em phải về căn cứ Cam Ranh. Ngày 28.12.1987, tàu HQ-604 đưa bộ đội và vật liệu xây dựng ra đóng giữ và làm nhà cấp III ở đảo Đá Tây, đến ngày 18.8.1988 mới xong. Với 3 đảo còn lại, kế hoạch đóng giữ theo dự kiến cũng bất thành, do thời tiết quá khắc nghiệt. Đối mặt Đầu tháng 1.1988, Đảng ủy Quân chủng Hải quân nhận định: “Tình hình trên biển ngày càng phức tạp, Trung Quốc sẽ tăng cường hoạt động, thăm dò, trinh sát, tranh chấp chủ quyền, xâm chiếm một số đảo chìm xen kẽ với các đảo của ta hoặc hoạt động vũ trang khiêu khích đánh chiếm một số đảo của ta”.
Đảng ủy chỉ rõ: “Nhiệm vụ bảo vệ vùng biển và quần đảo Trường Sa là nhiệm vụ quan trọng nhất và cũng vinh quang nhất trong năm 1988”. Hoạt động đóng giữ các đảo lại gấp rút triển khai. Ngày 23.1.1988, tàu HQ- 613 chở lực lượng, vật liệu ra đóng giữ, triển khai làm nhà cấp III ở đảo Tiên Nữ, đến 6.2.1988 hoàn thành và bàn giao cho bộ đội đóng giữ đảo. Ngày 27.1.1988, tàu HQ-611 và HQ-712 do Lữ trưởng 146 Phạm Công Phán làm Biên đội trưởng và trung tá Nguyễn Văn Dân, tham mưu phó Vùng 4, làm biên đội phó, đưa 1 đại đội công binh và 2 khung đóng giữ đảo đi làm nhiệm vụ.
Ngày 30.1.1988, lữ trưởng Phán chỉ huy 2 tàu, từ Trường Sa Đông về đóng giữ đảo Chữ Thập (lúc này trung tá Nguyễn Văn Dân đi với HQ-07, làm nhiệm vụ tại Đá Lớn). 6 giờ ngày 30.1.1988, khi cách đảo Chữ Thập khoảng 5 hải lý, có 4 tàu chiến Trung Quốc ra ngăn cản không cho tàu ta tiếp cận đảo (có lúc chỉ cách tàu ta 300 mét) nên 2 tàu ta phải quay về Trường Sa Đông. Từ tình hình này, Quân chủng Hải quân ra lệnh: “Nêu cao cảnh giác sẵn sàng chiến đấu. Khi gặp tàu địch, tránh khiêu khích, bình tĩnh xử lý tình huống. Nếu địch nổ súng vào ta, thì kiên quyết đánh trả”. Ngày 5.2.1988, tàu HQ-611 và HQ-712 cơ động đến Đá Lát, đổ bộ, triển khai làm nhà cấp III, đến 20.2.1988 thì xong và giao cho bộ đội bảo vệ đảo.
Ngày 13.2.1988, tàu HQ-505 kéo LVC-556 chở công binh, ra phối hợp với HQ-671 và HQ-701 đóng giữ đảo Đá Lớn (tàu HQ-07 cùng xây dựng và bảo vệ). HQ-505 cũng đến Trường Sa Đông, nhưng do sóng to gió lớn, tàu bị đứt 2 neo nên phải quay về. Ngày 15.2.1988, HQ-701 được lệnh ủi bãi phía Tây Nam Đá Lớn. Tàu HQ-671 cũng ủi bãi, nhưng máy bị hỏng, phải neo đậu. HQ-505 đến Đá Lớn ngày 17.2 và đưa LVC-556 vào bãi cạn phía Nam Đá Lớn, để công binh triển khai làm nhà cấp III, đến ngày 13.3 hoàn thành. Ý định của ta là khảo sát và đưa lực lượng đóng giữ Châu Viên từ 13.2.1988; sử dụng tàu HQ-851 khi cần cho ủi bãi để giữ đảo. Ngày 18.2, cả 2 tàu HQ-851 và HQ-614 cùng tiến hành khảo sát đóng giữ, nhưng do sóng quá to, tàu rê neo, tàu Trung Quốc ép tàu ta liên tục. Ngày 19.2, tàu HQ-851 lại hỏng máy, nên ta không thực hiện được kế hoạch đóng giữ Châu Viên. Đại tá Nguyễn Văn Dân, nguyên Phó tham mưu trưởng Vùng 4 Hải quân, khẳng định: “Nếu tối 18.2, ngày 19.3.1988 mình không linh hoạt, cứ dập dình với mấy tàu của Trung Quốc, thì không lên được Đá Đông, đâm ra mất cả Châu Viên lẫn Đá Đông”. Ông nhận định: “Đá Đông quan trọng hơn Châu Viên nhiều. Nó dài, có hồ trong đó, tàu bè vào trong đó đậu bình thường”. (Còn tiếp)
Mai Thanh Hải
Ảnh: Nguyễn Viết Thái
http://www.thanhnien.com.vn/pages/20141020/giu-truong-sa-truoc-tham-vong-ba-quyen-ky-4-nhung-cuoc-doi-dau-cang-thang.aspx
Giữ Trường Sa trước tham vọng bá quyền - Kỳ 5: Quyết tử25/10/2014 06:00(TNO) “Chiếm được Gạc Ma, phía Trung Quốc nhanh chóng làm nhà kiên cố nhiều tầng. Xong Gạc Ma, nó định đánh chiếm thêm vài đảo nữa, nhưng mình quyết tử ngăn chặn, nên nó không thực hiện được ý đồ”, đại tá Cao Ánh Đăng nói.
>> Giữ Trường Sa trước tham vọng bá quyền - Kỳ 4: Những cuộc đối đầu căng thẳng >> Giữ Trường Sa trước tham vọng bá quyền - Kỳ 3: An Bang, Thuyền Chài giữa vòng vây >> Giữ Trường Sa trước tham vọng bá quyền - Kỳ 2: Chạm trán >> Giữ Trường Sa trước tham vọng bá quyền - Kỳ 1: Kiểm soát 'lá chắn của biển Đông' Vẹn nguyên Đá Tây Đại tá Vũ Huy Lễ (nguyên Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 649 Vận tải Trường Sa) nhớ lại sự kiện sáng 14.3.1988, khi đang là thiếu tá, thuyền trưởng chỉ huy tàu HQ-505 lao lên bãi cạn Cô Lin bảo vệ chủ quyền: “Xung quanh Gạc Ma rất sâu bởi vực biển cả nghìn mét, hôm ấy chúng tôi tìm vết dầu của tàu HQ-604 bị Trung Quốc bắn chìm, nhưng mãi không thấy!”. Quanh câu chuyện địa hình địa vật Gạc Ma, đại tá Cao Ánh Đăng (nguyên Phó tư lệnh Vùng 4 Hải quân) kể đầu năm 1986, Tư lệnh Hải quân Giáp Văn Cương đã dự định đi khắp các đảo nổi, bãi đá ngầm ở Trường Sa để trực tiếp khảo sát nông sâu - điều kiện thủy văn. Tuy nhiên, do điều kiện thời tiết bất thường, tàu thuyền cũ kỹ không đảm bảo an toàn chuyến đi, nên Tư lệnh Cương không thực hiện được kế hoạch. Công việc này được giao lại cho đại tá Đăng và chính ông Đăng đã có lần khảo sát tại Gạc Ma.
“Ngồi trên xuồng nhìn xuống cứ tưởng mắc cạn đến nơi, nhưng đưa dây đo sâu xuống mới biết là rất sâu và dây nghiêng lệch bởi dòng chảy xiết, ngầm bên dưới”, đại tá Cao Ánh Đăng nhớ lại. Ông trầm ngâm: “Lúc ấy Trung Quốc tập trung nhiều tàu giả tàu cá ở khu vực Đá Tây. Đây là rạn san hô hình rẻ quạt, nằm theo hướng đông bắc - tây nam, diện tích khoảng 37 km vuông, ở giữa có một hồ lớn, rất thuận lợi cho việc neo đậu tàu thuyền nghỉ ngơi - tránh trú bão và nhất là tôn tạo thành khu vực liên hoàn quốc phòng - kinh tế, trung tâm của Trường Sa. Chính vậy ta tập trung đóng giữ, khiến Trung Quốc phải từ bỏ ý định chiếm Đá Tây”. Cầm chặt Len Đao - Cô Lin Đêm 13.3.1988, trong khi đang chỉ huy củng cố phòng thủ Đá Đông, đại tá Nguyễn Văn Dân (lúc đó là trung tá, Phó tham mưu trưởng Vùng 4 Hải quân) được lệnh chỉ huy lực lượng trên tàu HQ-614, hành quân gấp lên phía đảo Sinh Tồn. Do bị 2 tàu chiến Trung Quốc quấy phá, chặn đường nên mãi trưa 14.3, tàu HQ-614 mới đến được đảo Sinh Tồn. Khi đó, các tàu HQ-604, HQ-605 đã bị bắn chìm, HQ-505 của thiếu tá Vũ Huy Lễ đã lao lên Cô Lin. Chiều và đêm 14.3, tàu HQ-614 đưa anh em thương binh từ các đảo Gạc Ma, Len Đao, Cô Lin lên đảo Sinh Tồn để cứu chữa và báo cáo tình hình. Sáng 15.3, tàu HQ-614 ra vị trí tàu HQ-605, HQ-604 bị bắn chìm và theo vết dầu nổi lên, xác định được tàu HQ-605 chìm ở cạnh đảo Len Đao. Trưa 15.3, tàu HQ-614 vào khu vực Gạc Ma để tìm dấu vết tàu HQ-604, nhưng bị hai tàu khu trục của Trung Quốc ngăn cản, hung hãn đe dọa.
Đại tá Vũ Huy Lễ kể tàu HQ-614 neo gần chỗ tàu HQ-505 ở đảo Cô Lin, lập Sở Chỉ huy cụm 2 (Sinh Tồn) ngay trên tàu. Thời điểm này, ta chưa xây dựng được nhà ở trên Cô Lin và Len Đao, mà giữ chủ quyền Cô Lin bằng tàu HQ-505, giữ Len Đao bằng cờ cắm trên đảo và tàu trực HQ-614. Liên tục trong thời gian dài, các tàu chiến Trung Quốc đe dọa, khiêu khích nhằm đẩy đuổi các tàu Việt Nam. Ban ngày, chúng kè sát bên quay nòng pháo như thể nhả đạn và bắc loa kêu gọi đích danh “thuyền trưởng Vũ Huy Lễ hãy đưa thủy thủ về bờ cho an toàn”, nhưng không dám đổ bộ chiếm đảo vì biết ta bố trí sẵn các tổ chiến đấu, sẵn sàng đánh trả, theo đại tá Lễ. Nhiều đêm, tàu Trung Quốc tắt đèn, rì rì mò đến định dùng dây kéo tàu ta nhưng bị phát hiện. “Quân ta luôn bình thản, không mắc mưu khiêu khích của đối phương”, đại tá Vũ Huy Lễ khẳng định và cười: “Chúng tôi phân công hết rồi. Nếu nó nhảy sang, B40 sẽ bắn vào đài chỉ huy của tàu nó, còn AK cũng bắn mạnh luôn, mình có hy sinh thì nó cũng phải chết bao nhiêu đứa”... Tháng 9.1988 trở về đất liền, đại tá Dân đề xuất cách xây dựng đảo Len Đao với Tư lệnh Giáp Văn Cương: Len Đao có doi cát di chuyển theo mùa, khi thủy triều lên cao nhất là doi cát gần ngập. Nên kéo một tàu há mồm nhỏ ra, trên đó có sẵn nhà cao chân và các phương tiện lắp ghép. Đại tá Dân đề nghị: “Buổi tối mình tập kết cạnh đảo, lúc thủy triều lên cao nhất thì mình đổ bộ, triển khai làm nhà luôn. Tàu Trung Quốc ở ngay đó, nhưng sẽ không kịp phản ứng, không có cớ để đánh mình”. Khoảng tháng 10-11.1988, lúc triều cường, việc xây dựng đảo Len Đao theo đề xuất của đại tá Dân được thực hiện thành công. "Thiếu từ hạt gạo còn ngăn chặn được" “Cái khó là Hải quân mình lúc đó còn yếu, không đánh lại nó nên phải khôn khéo để giữ. Đô đốc Giáp Văn Cương luôn dặn chúng tôi mưu mẹo trong giữ đảo”, đại tá Cao Ánh Đăng nhớ lại. “Chiếm được Gạc Ma, phía Trung Quốc dùng kỹ thuật hiện đại và công binh hùng hậu, nhanh chóng làm nhà kiên cố nhiều tầng. Xong Gạc Ma, nó định đánh chiếm thêm vài đảo nữa, nhưng mình quyết tử ngăn chặn, nên nó mới không thực hiện được ý đồ”, ông Đăng khẳng định.
Ít ai biết tháng 3.1988, phía Trung Quốc tung tin cho các Đài phát thanh nước ngoài “bắt sống 2 đại tá hải quân Việt Nam”, nhằm lung lạc ý chí bộ đội, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân. Ngay sau đó, hai đại tá Lê Văn Thư (lúc đó là Tư lệnh Vùng 4 Hải quân) và Cao Ánh Đăng lập tức hành quân vào bờ, ra thẳng TP.Nha Trang tham gia cuộc họp báo, tố cáo hành vi chiếm đóng trái phép của Trung Quốc trước các phóng viên báo chí - hãng thông tấn trong và ngoài nước, xong lại ra ngay Trường Sa chỉ huy bộ đội củng cố, xây dựng các đảo. “Hồi ấy thiếu từ hạt gạo cho đến miếng nước, mà chúng tôi còn ngăn chặn được âm mưu thôn tính của đối phương trang bị hiện đại, đông quân. Nữa là bây giờ, Hải quân ta đã chính quy - tinh nhuệ và hiện đại, thừa sức đập tan mọi hành động xâm phạm chủ quyền thiêng liêng Tổ quốc”, vị đại tá già trầm giọng, hướng mắt sang phía bên kia bờ vịnh. Nơi ấy Quân cảng Cam Ranh ken dày tàu pháo, tàu tên lửa, tàu ngầm hướng mũi sẵn sàng hướng ra địa đầu Tổ quốc: Trường Sa... (Còn tiếp).
Mai Thanh Hải
>> Loạt bài '25 năm hải chiến Trường Sa' của TNO giành giải
A báo chí quốc gia>> 25 năm hải chiến Trường Sa - Kỳ 5: Mùa xuân nhớ con anh hùng >> 25 năm hải chiến Trường Sa - Kỳ 4: Cuộc trở về của Nguyễn Văn Lanh >> 25 năm hải chiến Trường Sa - Kỳ 3: 1.000 ngày bị địch bắt >> 25 năm hải chiến Trường Sa - Kỳ 2: Anh hùng đất Việt >> 25 năm hải chiến Trường Sa - Kỳ 1: Cuộc xâm lược của Trung Quốc
|