Chùa Việt qua ống kính nhiếp ảnh gia Pháp
Đăng ngày:
Phần âm thanh 09:56
Ba tầng gác chuông chùa Keo (tỉnh Thái Bình) rêu phong và mềm mại với những đầu đao uốn cong ở mỗi góc mái, nét mờ sương ảo trong buổi sớm mai nhìn từ chùa Thiên Mụ (Huế) ra dòng sông Hương đến vẻ tĩnh lặng, linh thiêng trong chùa Ngọc Hoàng (Đa Kao), với ba ngôi chùa đặc trưng của mỗi miền, nhiếp ảnh gia người Pháp Nicolas Cornet mở đầu cuốn sách ảnh song ngữ Anh-Pháp, dầy 250 trang, giới thiệu về Chùa Việt Nam (Pagodes/Vietnam/Pagodas) (*).
« Đi dọc Việt Nam từ ba thập niên qua, tôi đã có thể nhìn thấy những thay đổi về cảnh quan, thành phố và nông thôn do kinh tế phát triển mạnh mẽ ». Giải thích trong lời giới thiệu, nhiếp ảnh gia Nicolas Cornet cho biết « rất quan tâm đến số phận của những ngôi chùa », dường như cũng bị cuốn theo dòng xoáy đổi mới. Chính điều này đã thôi thúc ông làm tập sách ảnh Chùa Việt Nam, theo giải thích của ông khi trả lời RFI tiếng Việt :
« Đi dọc Việt Nam từ ba thập niên qua, tôi đã có thể nhìn thấy những thay đổi về cảnh quan, thành phố và nông thôn do kinh tế phát triển mạnh mẽ ». Giải thích trong lời giới thiệu, nhiếp ảnh gia Nicolas Cornet cho biết « rất quan tâm đến số phận của những ngôi chùa », dường như cũng bị cuốn theo dòng xoáy đổi mới. Chính điều này đã thôi thúc ông làm tập sách ảnh Chùa Việt Nam, theo giải thích của ông khi trả lời RFI tiếng Việt :
« Tôi muốn làm một cuốn sách mới về Việt Nam nói chung, từ Bắc xuống Nam. Tôi hình dung ra đó sẽ là một chuyến chu du thú vị. Rồi tôi nhớ lại một lần đi vãn cảnh chùa, khi tôi đến đó, ngôi chùa bị thay đổi hoàn toàn. Cột kèo cũ bị gác sang một bên và tôi thấy người ta đang thay vào đó là một ngôi chùa mới. Chính điều này đã thôi thúc tôi làm một dạng thống kê, một chuyến du ngoạn qua những ngôi chùa Việt để thấy được thực trạng của những ngôi chùa từ Bắc đến Nam ».
Đặc trưng của chùa ba miền
Đối tượng chính của cuốn sách là độc giả nước ngoài, vì thế bố cục cũng được chia thành năm chương, bắt đầu từ những ngôi chùa cổ (chùa Dâu, Bút Tháp, Tây Phương, Yên Tử...) đến những ngôi chùa có liên quan đến những thiền sư, nhà vua nổi tiếng của Việt Nam và những ngôi chùa ở miền Trung (chùa Từ Hiếu, Diệu Đế…) và miền Nam (chùa Giác Lâm, đền Thiên Hậu, chùa Bà Đen…). Kèm với hình ảnh về mỗi ngôi chùa là những nét chính giới thiệu lịch sử và chú thích về đồ thờ hoặc hoạt động trong chùa.
« Miền Bắc, miền Trung và miền Nam rất khác nhau. Với tôi, ở miền Bắc có rất nhiều chùa cổ. Không chỉ có mỗi đức Phật hiện diện, mà còn có nhiều thánhthần khác, những anh hùng... cũng được mời ngự trong chùa. Chùa ở miền Nam thì lại không như vậy, như trường hợp những ngôi chùa Khmer, và cũng khác với những ngôi đền của người Hoa, ở đó họ thờ thần là chính và thường thì đức Phật cũng có một vị trí nào đó.
Vì vậy, tôi muốn chỉ ra các nét đặc trưng của mỗi miền. Ví dụ như ở miền Trung, phong thủy và cân nhắc về sự hài hòa của ngôi chùa với phong cảnh là điều rất quan trọng.Với 250 trang sách ảnh nói về chùa, điều này giúp tôi giải thích chi tiết về những đặc trưng, một mặt về Phật Giáo, và mặt khác về truyền thống tôn thờ của người Việt, cũng như những nghi lễ thờ phượng trong chùa ».
Chùa trong ảnh của Nicolas Cornet hiện lên cổ kính và trầm mặc. Các chất liệu gỗ, gạch, ngói, đồng, đá làm nên ngôi chùa được nhấn chi tiết trong cuốn Chùa Việt Nam. Nicolas Cornet chụp từng họa tiết trong « Những kho báu dưới mái chùa », từ những tấm phù điêu gỗ được chạm trổ tinh vi thuật lại tích nhà Phật, đến hình ảnh trang trí trên những quả chuông đồng…
« Khi đi vãn cảnh chùa, người ta có cảm giác như đang tham quan một viện bảo tàng, ví dụ ở Pháp có bảo tàng Guimet (Bảo tàng Nghệ thuật châu Á, quận 16, Paris). Ở Việt Nam, trong một vài ngôi chùa có rất nhiều cổ vật, các cột trụ được chạm trổ tinh xảo, rất nhiều họa tiết nhỏ được khéo léo khắc trên tượng gỗ hoặc công trình bằng đá...
Tôi muốn cho thấy khía cạnh này vì khi nói về di sản của những ngôi chùa, người ta phải đề cập đến cả di sản nghệ thuật. Các ngôi chùa nơi mà dân làng coi là của mình, cũng lưu giữ một phần lớn nền văn hóa Việt Nam. Vì thế, điều quan trọng với tôi là cho thấy một cách chi tiết những đặc trưng của mỗi ngôi chùa ».
Ngoài mặt lịch sử nghệ thuật và di sản, chùa Việt dưới ống kính của nhiếp ảnh gia người Pháp sống động qua những hoạt động đời thường : một Phật tử thành tâm gõ mõ niệm kinh, đoàn người mang lễ vật lặng yên cầu nguyện, cảnh hóa vàng, rồi những chú tiểu học tập và chơi đùa trong sân chùa… Nicolas Cornet đã rất tinh ý nêu lên điểm khác biệt về mặt xã hội trong những ngôi chùa ở ba miền Việt Nam.
« Ở miền Bắc, dân làng có cảm giác là chùa thuộc về họ, vì thế họ tổ chức những cuộc họp, tập trung nhau lại để cùng cầu nguyện. Ở đây, có điều gì đó thiên về lễ lạt và cầu cúng. Ở miền Trung, có những ngôi chùa dành để giáo dục trẻ em. Trong chùa ở miền Nam có Phật chữa bệnh, có nghĩa là có nhiều bác sĩ khám bệnh với giá phải chăng ở chùa hoặc trong chùa có tủ thuốc y học truyền thống.
Vì thế, tôi muốn cho thấy mặt xã hội của những ngôi chùa, chứ không chỉ dừng ở khía cạnh di sản. Thường thì trong các cuốn sách trước đây của mình, tôi bị cuộc sống hàng ngày cuốn hút nên tôi muốn cho thấy người Việt sử dụng đền chùa như thế nào ».
Mong muốn bảo tồn chùa cổ
Nicolas Cornet coi mỗi chuyến đi của mình là một chuyến chu du, khám phá con người và đất nước mà ông đã gắn bó gần 30 năm. Với ông, chuyến xuyên Việt qua những ngôi chùa là chuyến đi đẹp nhất.
« Tôi bỏ rất nhiều thời gian và với tôi đó là một chuyến du ngoạn tuyệt vời mà ở cuối cuốn sách, tôi khuyến khích mọi người nên thử. Tôi lập danh sách những ngôi chùa mà tôi đã tham quan, có địa chỉ ghi rõ ràng, đánh dấu theo đúng tiếng Việt.
Với tôi, đây là một chuyến chu du lặng lẽ, đơn độc, nhưng điều đó không ngăn cản tôi gặp được rất nhiều người, có nhiều cuộc trao đổi khá thú vị. Đây cũng là cơ hội khá độc đáo để khám phá Việt Nam, được yên tĩnh một chút, tránh được ồn ào thành phố và là dịp để tôi tìm hiểu thêm về văn hóa, bản sắc Việt Nam ».
Quặn lòng trước nhiều thay đổi mà ông chứng kiến ở một số ngôi chùa, Nicolas Cornet muốn lưu lại hình ảnh về truyền thống, về những ngôi chùa cổ ở Việt Nam trong tập sách ảnh, trước khi những công trình này bị tác động bởi thời gian và hoạt động của con người. Không nhận là chuyên gia, nhưng ông đề xuất một số biện pháp bảo tồn đã được một số chùa áp dụng.
« Trong những ví dụ rất thiết thực mà tôi nêu trong sách, có trường hợp chùa Giác Lâm ở Sài Gòn - trước là một trong những ngôi chùa lớn nhất thuộc tỉnh Gia Định. Thay vì trùng tu, họ bảo tồn toàn bộ khu vực cổ của chùa và ngay bên cạnh đó, họ xây một ngôi chùa mới để đón nhiều Phật tử hơn. Đây là nơi tổ chức thuyết pháp, cầu nguyện, ăn chung vì có rất nhiều Phật tử hành hương và ngủ ngay tại chùa.
Kinh nghiệm này có thể là một ví dụ nên theo. Tôi không phải là một chuyên gia trùng tu chùa, tôi chỉ nêu lên thực trạng bằng cách thống kê di sản. Sau này, những người muốn bảo vệ di sản của đất nước, chính họ là người sẽ tìm ra cách thực hiện. Ở châu Âu, chúng tôi cũng mất rất nhiều thời gian để cải thiện đội ngũ chuyên cập nhật danh sách những di tích và thủ tục để gia cố, sửa chữa, trùng tu.
Ở Việt Nam, trường Viễn Đông Bác Cổ đã thu thập rất nhiều tài liệu cho đến thế kỷ XIX. Trường có mặt ở Cam Bốt và giúp trùng tu nhiều ngôi đền Khmer. Ngoài ra, còn có rất nhiều nhóm nghiên cứu Nhật Bản, Hàn Quốc mà người ta có thể kết hợp để trao đổi quan điểm, cùng nghiên cứu xem làm thế nào để trùng tu tốt nhất.
Với tôi, điều quan trọng là phải bảo tồn địa điểm mà người ta có thể tham quan để hiểu được văn hóa. Có nhiều việc phải làm và mỗi người có thể tìm ra được một giải pháp và chính người Việt phải tự đứng ra tìm các giải pháp bền vững cho tương lai ».
Đền chùa Việt Nam được làm chủ yếu bằng gỗ, nhưng vật liệu này lại dễ bị xuống cấp do tác động của mối mọt và khí hậu nóng ẩm. Từ hơn một thế kỷ nay, các nhà nghiên cứu Việt Nam và Pháp, trong đó có trường Viễn Đông Bác Cổ, đã tiến hành tu bổ và gia cố nhiều công trình. Kỹ thuật này dù tốn kém, nhưng giúp các công trình giữ lại được vẻ đẹp nguyên thủy và giá trị văn hóa. Nhiếp ảnh gia người Pháp hy vọng, người Việt và người nước ngoài yêu Việt Nam cùng chung tay để truyền lại cho con cháu di sản văn hóa được bảo quản trong điều kiện tốt nhất.
***
(*) Nicolas Cornet, Pagodes/Vietnam/Pagodas, Vietnam News Agency - Publishing House, 2018, 250 trang.
http://www.rfi.fr/vi/viet-nam/20190225-chua-viet-qua-ong-kinh-nhiep-anh-gia-phap
Hình bóng phố phường Hà thành qua Nhà cổ 87 Mã Mây
Đăng ngày: Sửa đổi ngày:
Phần âm thanh 10:07
Trở thành điểm tham quan khó có thể bỏ qua khi đến đất Thăng Long kinh kỳ, ngôi nhà cổ 87 Mã Mây là thành quả của dự án trùng tu công trình cổ đầu tiên hợp tác giữa hai thành phố Hà Nội và Toulouse (Pháp) năm 1999. Công trình giúp du khách trong và ngoài nước hình dung ra được không gian sống và sinh hoạt của khu 36 phố phường bên kinh thành xưa với kiến trúc đặc trưng của nhà hình ống : chiều rộng nhỏ và chiều sâu lớn.
Phố Mã Mây nằm trong khu vực đất cao bên bờ sông Hồng, nơi « trên bến, dưới thuyền » với các hoạt động giao thương sầm uất, tấp nập. Trả lời ban tiếng Việt, đài RFI, kiến trúc sư Nguyễn Phú Đức, thuộc Ban quản lý phố cổ Hà Nội, cho biết thêm : Phố Mã Mây nối với Hàng Buồm và gồm ba phố : Hàng Mã (không phải là phố Hàng Mã ngày nay), Hàng Mây, Hàng Buồm.
Đây là con phố có hình dáng uốn cong, giống hình móng ngựa, từ chỗ chạy theo hướng bắc-nam ở phố tiếp giáp với Hàng Bạc, sang Hàng Buồm lại chuyển theo hướng đông-tây và kết thúc ở điểm Hàng Buồm giao với Hàng Ngang. Thời Pháp thuộc, phố Mã Mây còn được gọi là phố Cờ Đen (rue des Pavillons Noirs) và trở thành nơi buôn bán, sinh sống của nhiều tiểu thương người Việt và nước ngoài.
Ngôi nhà 87 Mã Mây là một trong 14 ngôi nhà cổ ở Hà Nội được xây dựng khoảng cuối thế kỷ XIX. Ngôi nhà đã thay đổi chủ nhiều lần. Năm 1945, một thương gia bán thuốc bắc mua lại ngôi nhà. Từ năm 1954 đến năm 1999, đã có 5 gia đình lần lượt sinh sống tại đây.
Kiến trúc sư Nguyễn Phú Đức nêu một vài nét đặc trưng của phố phường Hà Nội xưa :
« Ngôi nhà 87 Mã Mây là một ngôi nhà cấu trúc cổ nằm trong tổng thể của khu 36 phố phường Hà Nội. Đặc trưng của ngôi nhà hàng phố tuy riêng lẻ về ô đất nhưng các ngôi nhà thường lại buôn bán chung một loại mặt hàng, theo dạng phường hội, nên quen gọi là Phố Phường. Đây là khu vực các phường hội sản xuất sản phẩm phục vụ cho kinh thành nên còn gọi là phố thị : « thị » bên « thành » phía Đông.
Trước đây, lòng đường chỉ để cho xe tay, xe kéo và người đi bộ. Chính vì thế, trong quy định của lớp nhà ngoài, thì phần mái đua ra phía ngoài phải thấp hơn kiệu vua. Sau khi mở rộng đường ra, không theo cấu trúc đường dạng Trung cổ nữa, nên lớp nhà phía ngoài đã bị phá bỏ, các cổng ngăn tại mỗi phường vì thế cũng bị dỡ bỏ theo. Tuy nhiên, đến nay, trên một số tuyến phố vẫn còn các ngôi nhà đầy đủ cấu trúc xưa với lớp nhà phía ngoài thấp hơn kiệu vua khi rước qua khu phố phường này ».
Kiến trúc nhà hình ống đặc trưng của nhà hàng phố khu phố cổ Hà Nội
Ngôi nhà 87 Mã Mây có tổng diện tích đất là 157,6 mét vuông, trong đó mặt ngoài phố rộng 6 mét, bề mặt phía trong là 5 mét và chiều dài là 28 mét.
Ngôi nhà theo kiểu kiến trúc đặc trưng của nhà cổ xưa Hà Nội : Dạng hình ống và có nhiều lớp nhà, giữa các lớp nhà có sân để lấy ánh sáng và không khí. Sân là nơi bày cây cảnh, uống nước, ngắm trăng.
Công trình được sử dụng để ở, buôn bán. Lớp ngoài là cửa hàng, không làm tường vách mà mở thông ra phố để bày hàng. Khu vực nhà chính gồm hai tầng : tầng dưới là nơi buôn bán. Sạp hàng được chủ nhà kê từ « những lớp cửa xếp bằng gỗ dễ tháo lắp (kiểu cửa bức bàn) vừa tiết kiệm diện tích, vừa tối giản mà đa chức năng », theo nhận xét của kiến trúc sư Nguyễn Phú Đức. Khu gác xép phía trên cửa hàng thường cao chừng 2,2 mét, dành làm gian thờ và cũng là nơi chứa hàng hoá, với cầu thang dốc 70-75 độ dẫn lên.
Sau khu nhà chính là sân trời. Tiếp đến là gian nhà hậu, kho hàng và nhà bếp. Gian nhà hậu cũng có hai tầng. Tầng một làm nơi tiếp đón bạn hàng, khách giao dịch hoặc là nơi sản xuất. Trên tầng hai, gian phía ngoài thường dành đón tiếp cố nhân hoặc người thân từ quê lên chơi. Kiến trúc sư Nguyễn Phú Đức giải thích :
« Chúng ta đang ở gian hai, chỉ có những người thân thiết mới được lên đến đây. Gian hai là gian của chủ nhà, tức là nơi kín đáo nhất. Đây là khu vực mà ông chủ thường ngồi tiếp trà, tiếp rượu, chơi cờ. Đây còn được gọi là khu vực khách cố nhân, trong trường hợp thân thiết, họ có thể ở lại. Vì những người ở khu phố cổ đều có gắn bó với làng quê của họ nên họ hàng thăm thú hoặc giúp đỡ công việc nhiều, nên đây là nơi tiếp đón họ hàng thân thiết, đồng môn, đồng nghiệp ».
Gian tiếp theo là phòng ngủ, không gian riêng tư của chủ nhà và không có gia nhân đi qua. Đằng sau là không gian sân cuối cùng và cũng chỉ có chủ nhà mới được sử dụng để thư giãn hoặc tập thể thao. Từ sân thượng có thể nhìn thấy mái ngói của khu bếp và vệ sinh, chỉ có một tầng.
Cho đến sau năm 2000, mới dần dần bỏ được việc một số nhà cổ sử dụng xí thùng, với việc xây thành bệ cao, bên dưới là một thùng lớn chứa chất cặn bã. Chính vì vậy, sau mỗi dãy nhà luôn có một lớp đường đi rộng 2 mét, được gọi là « đường kỹ thuật » để dọn vệ sinh và cũng giúp khí từ nhà vệ sinh thoát nhanh, không bị ám mùi.
Hai lớp sân trong là nơi lấy ánh sáng cho hai gian ở hai bên và tạo ra khoảng cách biệt với không gian bên ngoài, thường được trồng cây cao hoặc thậm chí là giếng khơi. Ngoài ra, ngôi nhà luôn có luồng khí đối lưu và không bị nóng nực nhờ vào lớp cửa gỗ và mái nhà được lợp bằng ngói mũi hài, tạo ra các lỗ thoát khí ở giữa.
« Hầu hết các lớp cửa được chạm trổ và luôn luôn tạo ra đối lưu ánh sáng. Khi cần thiết có thể mở lớp này ra, ngôi nhà sẽ có được toàn bộ ánh sáng, cũng như là khe gió tùy thuộc theo khí hậu. Đây cũng là điều đặc biệt, trụ khớp cửa cũng rất đơn giản, chỉ cần nhấc lên là xong.
Mái ngói của các lớp nhà có độ dốc 30°, nhờ thế, tạo nên luồng không khí luôn luôn đối lưu. Việc đun nóng các loại thức ăn của người châu Á bốc lên trên và không bao giờ lan mùi ra phía ngoài, vì vậy tạo ra một không gian luôn luôn thoáng ».
Gắn bó với làng nghề cổ truyền
Dù sinh sống và buôn bán ở kinh kỳ, nhưng người dân luôn nhớ công ơn tổ nghề của họ. Điều này được thể hiện rõ trong không gian thờ ở mỗi nhà và đình ở mỗi khu phố, theo giải thích của kiến trúc sư Nguyễn Phú Đức :
« Mỗi phố nghề trong khu phố cổ Hà Nội thường gắn kết với một làng quê có nghề. Ví dụ nghề trên phố Hàng Đồng thì gắn với Đồng Xâm ở Thái Bình, nghề làm trống ở phố Hàng Trống gắn với Đọi Tam ở Hà Nam, thêu gắn với Quất Động, nghề bạc phố Hàng Bạc gắn với Châu Khê (Hải Dương)…
Các nghệ nhân lập phường hội trên kinh kỳ thì yêu cầu sản phẩm phải tinh xảo. Chính vì thế, những thợ vụng, thợ vườn sau một thời gian sẽ tự bị đào thải, không thể cạnh tranh. Chỉ còn lại những người làm đúng và lành nghề. Vì thế, những ngôi nhà này, không chỉ thờ tổ tiên, mà còn thờ nghề của mình ở quê.
Và cũng thường trên mỗi phường, phố nghề trong khu phố cổ Hà Nội đều có đình tổ nghề, nơi thờ vọng các tổ nghề. Chính vì thế, trong các lễ hội thờ tổ nghề tại các đình trong khu phố cổ thì thường tái hiện lại việc làm nghề thủ công đó như một cách báo cáo vị thần tổ nghể ở quê nghề gốc, sau đó mới bắt đầu đến phần hội. Đó cũng là đặc trưng lễ hội đình ở trong phố cổ, khác với lễ hội đình ở quê ».
Với mục tiêu khôi phục ngôi nhà ống truyền thống, số nhà 87 Mã Mây được lựa chọn là công trình đầu tiên thực hiện trong khu Phố cổ Hà Nội. Ngôi nhà bắt đầu được trùng tu từ cuối năm 1998, hoàn thành vào ngày 27/10/1999. Năm 2013, ngôi nhà lần thứ 2 được cải tạo chống xuống cấp và vẫn giữ nguyên vẹn kiến trúc cổ. Ngôi nhà 87 Mã Mây được xếp hạng Di tích Quốc gia (Quyết định số 06/2004/QĐ-BVHTT ngày 18/2/2004 của Bộ Văn hóa Thông tin).
Ngôi nhà di sản 87 Mã Mây đã trở thành địa chỉ giới thiệu về kiến trúc ngôi nhà ống đặc trưng và lối sinh hoạt truyền thống trong Khu Phố cổ Hà Nội. Thành công của việc trùng tu nhà cổ Mã Mây đã mở đường cho nhiều dự án khác, nổi bật là đền Quan Đế (28 Hàng Buồm), đình Kim Ngân (42-44 Hàng Bạc), đình Đồng Lạc (38 Hàng Đào).
Giữa lòng Hà Nội vội vã vẫn còn những điểm lặng, đưa khách tham quan về những nơi tái hiện nên hình bóng phố phường Hà Thành xưa.
http://www.rfi.fr/vi/viet-nam/20170317-hinh-bong-pho-phuong-ha-thanh-qua-nha-co-87-ma-may
Geen opmerkingen:
Een reactie posten