"Lần đầu tiên Việt Nam có một văn bản luật quy định đầy đủ chế độ pháp lý các vùng biển, đảo theo đúng Công ước Luật biển 1982. Luật sẽ tạo cơ sở pháp lý quan trọng trong việc quản lý, bảo vệ và phát triển kinh tế biển, đảo", Thứ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn cho biết.
> 'Việt Nam cần tăng năng lực chấp pháp ở Biển Đông'
Việt Nam là quốc gia ven biển, có bờ biển dài hơn 3.200 km, kinh tế biển và các ngành liên quan đến biển đóng góp lớn vào nền kinh tế đất nước. Từ năm 1994, Việt Nam trở thành thành viên Công ước Luật biển 1982. Tuy nhiên, cho tới trước khi Quốc hội thông qua Luật Biển, Việt Nam chưa một bộ luật tổng quát về biển.
Giới thiệu về dự luật này chiều 16/7, Thứ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn cho biết, mục đích của việc xây dựng Luật Biển là để hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, phục vụ cho việc sử dụng, quản lý, bảo vệ các vùng biển, đảo và phát triển kinh tế biển của Việt Nam. Luật cũng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình hội nhập quốc tế và tăng cường hợp tác với các nước, vì hòa bình, ổn định trong khu vực và thế giới.
Thứ trưởng Bùi Thanh Sơn: "Luật Biển sẽ tạo cơ sở pháp lý quan trọng trong việc quản lý, bảo vệ và phát triển triển kinh tế biển, đảo nước ta". Ảnh: Nguyễn Hưng. |
"Việc xây dựng luật bắt đầu từ năm 1998 trên cơ sở các quy định của Công ước Luật biển 1982, có tham khảo các thông lệ quốc tế, trong đó có thực tiễn của các nước và yêu cầu phát triển kinh tế, an ninh, quốc phòng của Việt Nam", ông Sơn nói.
Thứ trưởng Sơn khẳng định, thông qua Luật Biển là hoạt động lập pháp quan trọng nhằm hoàn thiện khuôn khổ pháp lý liên quan tới biển đảo nước ta. Lần đầu tiên Việt Nam có một văn bản luật quy định đầy đủ chế độ pháp lý các vùng biển, đảo theo đúng Công ước Luật biển 1982. Luật sẽ tạo cơ sở pháp lý quan trọng trong việc quản lý, bảo vệ và phát triển kinh tế biển, đảo nước ta.
"Cùng với việc khẳng định chủ trương giải quyết các tranh chấp biển, đảo bằng các biện pháp hòa bình, Nhà nước ta đã chuyển một thông điệp quan trọng tới toàn thế giới: Việt Nam là một thành viên có trách nhiệm trọng cộng động quốc tế, tôn trọng và tuân thủ luật pháp quốc tế, quyết tâm phấn đấu vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển của khu vực và trên thế giới", ông Sơn nói.
Phân tích về nội dung của Luật Biển, tiến sĩ Nguyễn Toàn Thắng cho hay, điểm thành công của Luật Biển Việt Nam là đã chi tiết hóa được các quy định của Công ước Luật biển 1982 thành các điều khoản để có thể áp dụng trên các vùng biển của Việt Nam. "Điều đó có nghĩa là Luật Biển Việt Nam đã nội luật hóa các quy định của quốc tế để trở thành văn bản pháp luật có thể dễ hiểu, dễ áp dụng hơn trên thực tế", tiến sĩ Thắng nhận xét.
Cũng theo ông Thắng, các vấn đề quan trọng nhất mà luật này xác định được các vùng biển và quy chế pháp lý cho từng vùng. Luật quy định rõ tàu thuyền các nước có quyền gì, có được tự do hàng hải hay không. Từ đó áp dụng các biện pháp xử lý trong trường hợp tàu nước ngoài có hành vi vi phạm pháp luật.
Tàu tuần tiễu cao tốc của Cảnh sát biển Việt Nam. Ảnh: QĐND. |
Luật Biển Việt Nam gồm 7 chương, 55 điều. Điều 1, chương 1 ghi rõ luật này quy định về đường cơ sở, nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, các đảo, quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa và quần đảo khác thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia của Việt Nam; hoạt động trong vùng biển Việt Nam; phát triển kinh tế biển; quản lý và bảo vệ biển, đảo.
Chương 2 quy định về vùng biển Việt Nam với các quy định về đường cơ sở, nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, đảo, quần đảo... Các điều khoản của chương này nêu rõ chế độ pháp lý của các vùng biển.
Chương 3 quy định về hoạt động trong vùng biển Việt Nam. Trong chương này, đề cập đến 13 hành vi bị coi là gây phương hại đến hòa bình, quốc phòng, an ninh khi tàu thuyền nước ngoài đi qua lãnh hải Việt Nam (Khoản 3, Điều 23). Những hành vi này bao gồm "đe dọa hoặc sử dụng vũ lực chống lại độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam; luyện tập hay diễn tập với bất kỳ kiểu, loại vũ khí nào, dưới bất kỳ hình thức nào"... (Xem chi tiết)
Điều 37 của chương này cũng nêu rõ các quy định cấm trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam như đe dọa chủ quyền, quốc phòng, an ninh của Việt Nam; khai thác trái phép tài nguyên sinh vật, đánh bắt hải sản trái phép... (Xem chi tiết)
Ngoài ra, khi hoạt động trong vùng biển Việt Nam, tàu thuyền, tổ chức, cá nhân bị cấm: tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép vũ khí, chất nổ, chất độc hại; mua bán người, mua bán, vận chuyển, tàng trữ trái phép chất ma túy; phát sóng trái phép.
Các vùng biển theo Công ước Luật biển 1982 với những quy định pháp lý khác nhau. Luật Biển Việt Nam đã đưa ra các điều khoản tuân thủ theo Công ước. Ảnh: Wikipedia. |
Để bảo đảm việc thực thi, điều 41, chương 3 Luật Biển quy định về quyền truy đuổi tàu thuyền nước ngoài. Theo đó, lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển có quyền truy đuổi tàu thuyền nước ngoài vi phạm các quy định của pháp luật Việt Nam nếu các tàu thuyền này đang ở trong nội thủy, lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải Việt Nam.
Quyền truy đuổi được tiến hành sau khi lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển đã phát tín hiệu yêu cầu tàu thuyền vi phạm hay có dấu hiệu vi phạm pháp luật dừng lại để tiến hành kiểm tra nhưng tàu thuyền đó không chấp hành. Việc truy đuổi có thể được tiếp tục ở ngoài ranh giới của lãnh hải hay vùng tiếp giáp lãnh hải Viêt Nam nếu được tiến hành liên tục, không ngắt quãng.
Ngoài ra, quyền truy đuổi cũng được áp dụng đối với hành vi vi phạm quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia của Việt Nam, vi phạm trong phạm vi vành đai an toàn và trên các đảo nhân tạo, thiết bị, công trình trên biển trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam. Việc truy đuổi của các lực lượng tuần tra, kiểm soát Việt Nam chấm dứt khi tàu thuyền bị truy đuổi đi vào lãnh hải của quốc gia khác.
Các lực lượng thực thi trách nhiệm chấp pháp được quy định tại điều 47, theo đó, lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển gồm: các lực lượng có thẩm quyền thuộc Quân đội nhân dân, Công an nhân dân, các lực lượng tuần tra, kiểm soát chuyên ngành khác. Lực lượng dân quân tự vệ của các tỉnh, thành phố ven biển trực thuộc trung ương, lực lượng bảo vệ của tổ chức, cơ quan đóng ven biển và các lực lượng khác có trách nhiệm tham gia tuần tra, kiểm soát trên biển khi được cơ quan có thẩm quyền huy động.
Theo tiến sĩ luật Nguyễn Toàn Thắng, Luật Biển là tiền đề, hành lang pháp lý quan trọng nhưng để đưa luật vào cuộc sống Việt Nam cần lực lượng chấp pháp - trong khi ở thời điểm hiện tại, sức mạnh của lực lượng này của chúng ta chưa thể bao quát hết 200 hải lý vùng đặc quyền kinh tế được quy định trong luật. Vì thế, Việt Nam phải chú trọng nâng cao năng lực để bao quát vùng biển của mình.
Luật Biển có hiệu lực từ 1/1/2013.
Nguyễn Hưng
Geen opmerkingen:
Een reactie posten