22-12-2011
Thế kỷ 21 bắt đầu bằng một sự phân phối rất không đồng đều các nguồn lực sức mạnh. Với 5 phần trăm dân số thế giới, Mỹ chiếm khoảng một phần tư sản lượng kinh tế toàn cầu, chịu trách nhiệm đối với gần một nửa chi phí quân sự toàn cầu, và có các nguồn lực sức mạnh mềm văn hoá và giáo dục rộng lớn nhất. Tất cả điều này vẫn đúng, nhưng tương lai của sức mạnh Mỹ được tranh luận một cách sôi nổi. Nhiều nhà quan sát đã lý giải cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 như là khởi đầu cho sự suy đoán của Mỹ. Chẳng hạn, Hội đồng Tình báo quốc gia đã dự đoán rằng vào năm 2025, “Mỹ sẽ vẫn là cường quốc ưu việt, nhưng ưu thế đó của Mỹ sẽ bị giảm đi nhiều”.
Sức mạnh là khả năng đạt được những kết quả mà người ta mong muốn, và các nguồn lực tạo ra nó thay đổi trong những bối cảnh khác nhau. Tây Ban Nha trong thế kỷ 16 đã tận dụng quyền kiểm soát của mình đối với các thuộc địa và váng nén, Hà Lan trong thế kỷ 17 đã hưởng lợi từ thương mại và tài chính, Pháp trong thế kỷ 18 đã hưởng lợi từ dân số và quân đội to lớn của mình, và Anh trong thế kỷ 19 đã tìm được sức mạnh từ sự ưu việt của mình trong Cách mạng Công nghiệp và hải quân của nước này. Thế kỷ này được đánh dấu bằng một cuộc cách mạng phát triển nhanh chóng trong công nghệ thông tin và toàn cầu hoá, và để hiểu cuộc cách mạng này, cần phải tránh một số cạm bẫy.
Thứ nhất, người ta phải thận trọng trước những phép ẩn dụ gây hiểu lầm của sự suy thoái hữu cơ. Các quốc gia không giống như con người, với tuổi thọ có thể dự đoán được. La Mã vẫn thống trị trong hơn ba thế kỷ sau thời kỳ đỉnh cao quyền lực của mình, và thậm chí khi đó nó đã không khuất phục trước sự trỗi dậy của một nhà nước khác. Mặc dù những dự đoán có vẻ hợp thời về việc Trung Quốc, Ấn Độ hay Braxin vượt qua Mỹ trong những thập kỷ tới, mối đe doạ lớn hơn có thể đến từ những người man di hiện đại và những bên tham gia không phải nhà nước. Trong một thế giới dựa trên thông tin, sự khuếch tán sức mạnh có thể tạo ra một nguy cơ lớn hơn sự chuyển tiếp quyền lực. Sự hiểu biết thông tin thường cho rằng nhà nước với quân đội lớn nhất chiếm ưu thế, nhưng trong thời đại thông tin, nhà nước (hoặc bên tham gia không phải nhà nước) với câu chuyện hay nhất có thể đôi khi giành chiến thắng.
Ngày nay sức mạnh được phân bổ trong một mô hình giống như một ván cờ ba chiều phức tạp. Trên bàn cờ đầu, sức mạnh quân sự phần lớn là đơn cực, và Mỹ có thể giữ vị trí hàng đầu trong khoảng một thời gian. Ở bàn cờ giữa, sức mạnh kinh tế đã là đa cực trong hơn một thập kỷ, với Mỹ, châu Âu, Nhật Bản và Trung Quốc như là những bên tham gia chủ yếu và những nước khác đang có được tầm quan trọng. Bàn cờ bên dưới là lĩnh vực của các mối quan hệ xuyên quốc gia. Nó bao gồm các bên tham gia không phải nhà nước đa dạng như các chủ ngân hàng chuyển tiền bằng điện tử, những phần tử khủng bố buôn bán vũ khí, những hacker đe doạ an ninh mạng, và những thách thức như bệnh dịch và biến đổi khí hậu. Ở bàn cờ bên dưới này, sức mạnh bị khuếch tán một cách rộng rãi, và không có ý nghĩa gì khi đề cập đến đơn cực, đa cực hay bá quyền.
Trong hoạt động chính trị liên nhà nước, nhân tố quan trọng nhất sẽ là sự trở lại tiếp tục của châu Á trên vũ đài thế giới. Vào năm 1750, châu Á đã chiếm hơn một nửa dân số và sản lượng kinh tế của thế giới. Cho đến năm 1900, sau cuộc Cách mạng Công nghiệp ở châu Âu và Mỹ, phần đóng góp của châu Á thu hẹp lại còn một phần năm sản lượng kinh tế toàn cầu. Đến năm 2050, châu Á sẽ trên con đường trở lại phần đóng góp lịch sử của mình. Sự trỗi dậy của Trung Quốc và Ấn Độ có thể tạo ra sự bất ổn, nhưng đây là một vấn đề với những tiền lệ, và lịch sử cho thấy các chính sách có thể ảnh hưởng đến kết quả như thế nào.
Sự suy giảm bá quyền?
Hiện nay là hợp thời khi so sánh sức mạnh của Mỹ với sức mạnh của Anh cách đây một thế kỷ và dự đoán một sự suy giảm bá quyền tương tự. Một số người Mỹ phản ứng một cách cảm tính đối với ý tưởng về sự suy thoái, nhưng sẽ là khác thường và không mang tính lịch sử khi tin rằng Mỹ sẽ mãi mãi có một phần vượt trội trong các nguồn lực sức mạnh. Từ “suy thoái” pha trộn hai khía cạnh khác nhau: suy thoái tuyệt đối, theo nghĩa suy tàn, và suy thoái tương đối, trong đó các nguồn lực sức mạnh của những nhà nước khác tăng lên và được sử dụng hiệu quả hơn.
Điểm tương đồng với sự suy thoái của Anh gây hiểu nhầm. Anh đã có vị trí hàng đầu về hải quân và một đế chế mà ở đó mặt trời không bao giờ lặn, nhưng đến Chiến tranh Thế giới thứ Nhất, đất nước đứng chỉ thứ tư trong số các nước lớn về phần nhân viên quân sự, thứ tư về GDP, và thứ ba về chi phí quân sự. Với sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc, việc bảo vệ đế chế đã trở thành một gánh nặng hơn là tài sản. Cho dù nói về một đế chế Mỹ, Mỹ có quyền tự do hành động hơn Anh. Và trong khi Anh phải đối mặt với những nước láng giềng trỗi dậy, Đức và Nga, thì Mỹ được lợi từ việc được bao quanh bởi hai đại dương và những người láng giềng yếu hơn.
Bất chấp những khác biệt như vậy, người Mỹ nghiêng về những chu kỳ tin vào sự suy thoái của chính mình. Những thành viên đã viết ra Hiến pháp Mỹ đã lo ngại về những so sánh với nền cộng hoà La Mã. Charles Dickens đã nhận xét cách đây một thế kỷ rưỡi: “Đối với một người, nếu tin vào cá nhân các công dân của nước này thì [nước Mỹ] luôn suy yếu, và luôn đình trệ, và luôn ở trong một cuộc khủng hoảng đáng báo động, và không bao giờ khác được”. Trong nửa cuối thế kỷ, việc tin vào sự suy thoái của Mỹ đã nổi lên sau khi Liên Xô phóng Sputnik vào năm 1957, sau những điều chỉnh kinh tế của Tổng thống Richard Nixon và các cú sốc dầu lửa những năm 1970, và sau khi đóng cửa các ngành công nghiệp vùng vành đai phát triển chậm Rust Belt (Rust Belt là tên một khu vực ở miền Bắc nước Mỹ, bao gồm các bang Illinois, Michigan, Indiân, Ohio và Wisconsin, nơi nhiều ngành hớn, đặc biệt là các ngành sản xuất thép và ôtô, đã từng sử dụng nhiều nhân công nhưng ngày càng ít thành công) và những thâm hụt ngân sách trong kỷ nguyên Reagan. Mười năm sau, người Mỹ tin rằng nước Mỹ là một siêu cường duy nhất và hiện nay các cuộc thăm dò cho thấy rằng nhiều người lại tin vào sự suy thoái.
Các học giả than vãn về sự bất lực của Oasinhton trong việc kiểm soát những nhà nước như Ápganixtan hay Iran, nhưng họ để cho hào quang của quá khứ tô màu cho những đánh giá của mình. Sức mạnh của Mỹ không phải là cái đã từng có, nhưng nó cũng chưa bao giờ thực sự to lớn như được cho là vậy. Sau Chiến tranh thế giới thứ Hai, Mỹ có vũ khí hạt nhân và một ưu thế áp đảo về sức mạnh kinh tế nhưng tuy thế không thể ngăn ngừa “việc mất” Trung Quốc, không thể đẩy lui chủ nghĩa cộng sản ở Đông Âu, thoát khỏi sự bế tắc trong cuộc Chiến tranh Triều Tiên, ngăn chặn “việc mất” miền Bắc Việt Nam, hay lật đổ chế độ Castro ở Cuba. Sức mạnh đo được trong các nguồn lực hiếm khi ngang bằng với sức mạnh đo được trong những kết quả được ưa thích hơn, và những chu kỳ tin vào sự suy thoái bộc lộ ra là về tâm lý hơn là về những thay đổi thực sự trong các nguồn lực sức mạnh. Đáng tiếc là, những sự tin tưởng nhầm lẫn về suy thoái – ở trong nước và nước ngoài – có thể dẫn đến những sai lầm nguy hiểm trong chính sách.
Trung Quốc trỗi dậy
Trong hơn một thập kỷ, nhiều người đã nhìn Trung Quốc như là đối thủ có khả năng nhất để cân bằng sức mạnh Mỹ hay vượt qua nó. Một số người đã vạch ra những sự tương đồng với thách thức mà nước Đức đế quốc đã đặt ra cho Anh vào đầu thế kỷ trước. Một cuốn sách gần đây (của Martin Jacques) còn được đặt tên là Khi Trung Quốc thống trị thế giới: Sự kết thúc của thế giới phương Tây và sự ra đời của một trật tự toàn cầu mới. Goldman Sachs đã dự kiến rằng tổng quy mô của nền kinh tế Trung Quốc sẽ vượt của Mỹ vào năm 2027.
Tuy nhiên, Trung Quốc còn một con đường dài để tiến tới ngang bằng với các nguồn lực sức mạnh của Mỹ và nước này vẫn còn phải đối mặt với nhiều trở ngại đối với sự phát triển của mình. Ngay cả nếu tổng GDP của Trung Quốc vượt qua của Mỹ vào khoảng năm 2030, hai nền kinh tế, dù đại thể tương đương về quy mô, sẽ không tương đương về thành phần. Trung Quốc sẽ vẫn có một khu vực nông thôn kém phát triển rộng lớn, và nước này bắt đầu phải đối mặt với những vấn đề nhân khẩu học từ những tác động chậm của chính sách một con của mình. Thu nhập tính theo đầu người cung cấp một thước đo sự tinh vi của một nền kinh tế. Giả sử một tỷ lệ tăng trưởng GDP của Trung Quốc là 6% và tỷ lệ tăng trưởng GDP của Mỹ chỉ có 2% sau năm 2030, Trung Quốc có thể sẽ không ngang bằng với Mỹ trong thu nhập tính theo đầu người cho đến một lúc nào đó vào khoảng giữa thế kỷ. Nói cách khác, tỷ lệ tăng trưởng kinh tế ấn tượng và dân số ngày càng tăng của Trung Quốc sẽ có khả năng dẫn đến nền kinh tế Trung Quốc vượt nền kinh tế Mỹ về tổng quy mô trong một vài thập kỷ, nhưng nó không giống như là sự ngang bằng.
Hơn nữa, những dự đoán thẳng băng có thể khiến hiểu nhầm, và các tỷ lệ tăng trưởng nói chung chậm lại khi các nền kinh tế đạt tới những mức độ phát triển cao. Hệ thống chính trị độc đoán của Trung Quốc đã thể hiện một khả năng đầy ấn tượng khai thác sức mạnh của đất nước, nhưng liệu chính phủ có thể duy trì khả năng đó trong dài hạn hay không là một điều bí ẩn cả đối với người bên ngoài lẫn đối với các nhà lãnh đạo Trung Quốc. Không giống như Ấn Độ, vốn được sinh ra với một hiến pháp dân chủ, Trung Quốc vẫn chưa tìm ra con đường để giải quyết vấn đề đòi hỏi tham gia vào chính trị (nếu không phải là dân chủ) có xu hướng đi cùng với việc tăng thu nhập bình quân đầu người. Liệu Trung Quốc có thể phát triển một công thức quản lý một tầng lớp trung lưu thành thị đang mở rộng, sự bất bình đẳng khu vực, đói nghèo ở nông thôn, và sự oán giận giữa các nhóm thiểu số sắc tộc hay không thì vẫn còn phải xem xét.
Một số người đã lập luận rằng Trung Quốc đặt mục tiêu thách thức vị trí của Mỹ ở Đông Á và cuối là thế giới. Ngay cả nếu đây là một sự đánh giá chính xác về những ý định hiện nay của Trung Quốc (và thậm chí bản thân người Trung Quốc không thể biết quan điểm của những thế hệ tương lai), điều đáng ngờ là Trung Quốc sẽ có khả năng quân sự để khiến điều này có thể sớm thực hiện được bất cứ lúc nào. Hơn nữa, các nhà lãnh đạo Trung Quốc sẽ phải đấu tranh với những phản ứng của những nước khác và những sự kiềm chế được tạo ra bởi nhu cầu của Trung Quốc đối với các thị trường và nguồn lực bên ngoài. Một tư thế quân sự quá hung hăng của Trung Quốc có thể tạo ra một sự liên minh bù lại giữa các nước láng giềng của Trung Quốc sẽ làm suy yếu cả sức mạnh cứng lẫn sức mạnh mềm của nước này.
Sự trỗi dậy của sức mạnh Trung Quốc ở châu Á bị cạnh tranh bởi cả Ấn Độ lẫn Nhật Bản (cũng như những nhà nước khác), và điều đó tạo ra một lợi thế sức mạnh chủ yếu cho Mỹ. Liên minh Mỹ – Nhật và sự cải thiện trong các mối quan hệ Mỹ-Ấn có nghĩa rằng Trung Quốc không thể dễ dàng đánh bật người Mỹ ra khỏi châu Á. Từ quan điểm sức mạnh đó, Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ, Ôxtrâylia, và những nước khác có thể can dự với Trung Quốc và tạo ra những sự khích lệ để nước này đóng một vai trò có trách nhiệm, trong khi ngăn cản khả năng cư xử hung hăng khi sức mạnh của Trung Quốc tăng lên.
Sự suy tàn ở trong nước?
Một số người lập luận rằng Mỹ gánh chịu tổn thất bởi “sự dàn trải quá mức kiểu đế quốc”, nhưng cho đến nay, thực tế không đúng với thuyết đó. Ngược lại, các khoản chi tiêu cho quốc phòng và các vấn đề quốc tế đã giảm đi như là một phần của GDP trong vài thập kỷ vừa qua. Tuy vậy, Mỹ có thể suy thoái không phải vì sự dàn trải quá mức kiểu đế quốc mà vì khả năng hoạt động kém ở trong nước. La Mã mục nát từ bên trong, và một số nhà quan sát, lưu ý đến tình trạng xấu đi trong hoạt động chính trị của Mỹ hiện nay, dự đoán rằng Mỹ sẽ mất đi khả năng của mình ảnh hưởng đến các sự kiện của thế giới bởi các cuộc chiến trong nước về văn hoá, sự sụp đổ của các thể chế chính trị nước này, và sự đình trệ về kinh tế. Không thể loại bỏ khả năng này, nhưng các xu thế không rõ ràng như tâm trạng u ám hiện nay cho thấy.
Mặc dù Mỹ có nhiều vấn đề về xã hội – và luôn có – họ dường như không trở nên tồi tệ đi theo bất cứ cách thức thẳng băng nào. Một số trong những vấn đề đó thậm chí còn đang cải thiện, như tỷ lệ tội phạm, ly hôn và mang thai ở tuổi vị thành niên. Mặc dù có các cuộc chiến văn hoá đối với những vấn đề như kết hôn đồng giới và phá thai, các cuộc thăm dò cho thấy một sự gia tăng tổng thể về sự dung nạp. Xã hội dân sự vững mạnh, và tỷ lệ đi đến nhà thờ cao, 42%. Những cuộc chiến văn hoá trước đây của đất nước này, về nhập cư, nô lệ, tiến hoá, sự ôn hoà, chủ nghĩa McCarthy và nhân quyền, được cho là còn nghiêm trọng hơn bất cứ cuộc chiến nào của ngày nay.
Một mối lo ngại nghiêm trọng hơn sẽ là liệu đất nước này có chuyển sang hướng nội và hạn chế một cách trầm trọng sự nhập cư. Với mức nhập cư hiện nay của mình, Mỹ là một trong số ít những nước phát triển có thể tranh được sự suy giảm về nhân khẩu học và giữ phần đóng góp của mình trong dân số thế giới, nhưng điều này có thể thay đổi nếu sự bài ngoại hay những phản ứng đối với khủng bố đã đóng cửa các đường biên giới của nước này. Tỷ lệ phần trăm các cư dân sinh ra ở nước ngoài ở Mỹ đã đạt đỉnh cao của thế kỷ 20, 14,7% vào năm 1910. Hiện nay, 11,7% cư dân Mỹ được sinh ra ở nước ngoài, nhưng vào năm 2009, 50% người Mỹ ủng hộ giảm nhập cư, tăng từ 39% vào năm 2008. Suy thoái kinh tế chỉ làm trầm trọng thêm vấn đề.
Mặc dù một số tốc độ nhập cư quá nhanh có thể tạo ra những vấn đề xã hội, nhưng về dài hạn sự nhập cư củng cố sức mạnh của Mỹ. Ngày nay, Mỹ là nước đông dân thứ ba trên thế giới; 50 năm kể từ bây giờ, nó có thể vẫn là thứ ba (sau Ấn Độ và Trung Quốc). Điều này không chỉ liên quan đến sức mạnh kinh tế, mà do gần như tất cả các nước phát triển đang già đi và phải đối mặt với gánh nặng lo liệu cho thế hệ già hơn, sự nhập cư có thể giúp giảm bớt tính gay gắt của vấn đề chính sách do kết quả của điều đó. Thêm vào đó, có một sự tương quan giữa số visa H-1B và số bằng sáng chế được đệ trình tại Mỹ. Vào năm 1998, các kỹ sư sinh ra tại Trung Quốc và Ấn Độ điều hành một phần tư các doanh nghiệp công nghệ cao của Thung lũng Silicon, và vào năm 2005, người ta thấy cứ bốn công ty công nghệ khởi nghiệp của Mỹ trong thập kỷ qua thì có một công ty là do người nhập cư đã giúp khởi đầu.
Quan trọng không kém là những lợi ích của sự nhập cư đối với sức mạnh mềm của Mỹ. Bị thu hút bởi sự phấn đấu của những người nhập cư Mỹ, mọi người muốn tới Mỹ. Nước Mỹ là một cục nam châm, và nhiều người có thể hình dung bản thân mình là người Mỹ. Nhiều người Mỹ thành công trông giống như người ở những nước khácl. Thay vì làm giảm bớt sức mạnh cứng và mềm, sự nhập cư tăng cường cả hai. Khi Lý Quang Diệu của Xinhgapo kết luận rằng Trung Quốc sẽ không vượt qua Mỹ với tư cách cường quốc hàng đầu của thế kỷ 21, ông trích dẫn khả năng của Mỹ thu hút những người giỏi nhất và thông minh nhất từ phần còn lại của thế giới và dung nạp họ vào một nền văn hoá đa dạng của sự sáng tạo. Trung Quốc có một dân số lớn hơn để tuyển chọn từ trong nước, nhưng theo quan điểm của ông, nền văn hoá lấy Trung Quốc làm trung tâm của nước này sẽ khiến nó ít tính sáng tạo hơn Mỹ, vốn có thể lôi kéo toàn thế giới.
Mặt khác, một thất bại trong thành tích của nền kinh tế Mỹ sẽ là một điểm dừng. Hãy nhớ rằng những dự báo về kinh tế vĩ mô (giống như dự báo thời tiết) nổi tiếng là không thể tin cậy được, dường như là Mỹ sẽ trải qua sự tăng trưởng chậm hơn trong thập kỷ sau cuộc khủng hoảng tài chính 2008. Quỹ Tiền tệ Quốc tế hy vọng tăng trưởng kinh tế Mỹ đạt trung bình khoảng 2% trong năm 201. Con số này thấp hơn mức trung bình trong vài thập kỷ trước đó nhưng xấp xỉ gần với tỷ lệ trung bình trong 10 năm qua.
Trong những năm 1980, nhiều nhà quan sát tin rằng nền kinh tế Mỹ đã xì hết hơi và Đức và Nhật Bản đang vượt Mỹ. Đất nước này dường như đã đánh mất lợi thế cạnh tranh của mình. Tuy nhiên, hiện nay ngay cả sau cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kéo dài, Diễn đàn Kinh tế Thế giới đã xếp Mỹ đứng thứ 4 (sau Thuỵ Sĩ, Thuỵ Điển và Xinhgapo) về năng lực canh tranh kinh tế toàn cầu (so với Trung Quốc xếp thứ 27). Nền kinh tế Mỹ đi đầu trong nhiều khu vực tăng trưởng mới, như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và công nghệ nano. Và ngay dù những người lạc quan có xu hướng dẫn ra sự vượt trội của Mỹ trong sản xuất và sử dụng công nghệ thông tin, thì đó không phải là nguồn năng suất duy nhất của Mỹ. Mỹ cũng đã chứng kiến sự đổi mới nông nghiệp đáng kể và sự mở cửa của nước này đối với toàn cầu hoá, nếu điều này tiếp tục, cũng sẽ kéo năng suất lên. Các chuyên gia kinh tế dự đoán rằng tăng trưởng về năng suất của Mỹ sẽ từ 1,5% đến 2,25% trong thập kỷ tới.
Về đầu tư vào nghiên cứu và phát triển, Mỹ là nước đứng đầu thế giới vào năm 2007, với 369 tỉ USD, theo sau là toàn bộ châu Á (338 tỉ USD) và Liên minh châu Âu (263 tỉ USD). Mỹ đã chi 2,7 GDP của mình vào nghiên cứu và phát triển, gần gấp đôi những gì Trung Quốc đã chi (nhưng ít hơn một chút so với 3% mà Nhật Bản và Hàn Quốc đã chi). Trong năm 2007, các nhà sáng chế Mỹ đã đăng ký khoảng 80.000 bằng sáng chế ở Mỹ, hay nhiều hơn phần còn lại của thế giới hợp lại. Một số báo cáo đã bày tỏ mối lo ngại về những vấn đề như tỷ lệ thuế công ty cao, chảy máu nguồn vốn con người, và số bằng sáng chế ở nước ngoài ngày càng tăng, nhưng các công ty vốn mạo hiểm đầu tư 70% tiền của họ vào các công ty khởi nghiệp ở trong nước. Một cuộc điều tra nam 2009 của tổ chức Global Entrepreneurship Monitor (Giám sát doanh nhân toàn cầu) đã xếp Mỹ ở trên những nước khác về các cơ hội cho doanh nhân bởi nước này có một nền văn hoá kinh doanh thuận lợi, ngành công nghiệp đầu tư mạo hiểm trưởng thành nhất, các mối quan hệ thân thiết giữa các trường đại học và ngành công nghiệp, và một chính sách nhập cư mở.
Những mối lo ngại khác về tương lai của nền kinh tế Mỹ tập trung vào thâm hụt tài khoản vãng lai (mà mức hiện nay chỉ ra rằng người Mỹ đang ngày càng mắc nợ người nước ngoài hơn) và sự gia tăng nợ chính phủ. Theo lời của sử gia Niall Ferguson, “Đây là cách các đế quốc suy thoái. Nó bắt đầu bằng một sự bùng nổ nợ”. Không chỉ cứu trợ tài chính ngân hàng gần đây và gói kích thích kinh tế kiểu Keynes làm tăng thêm nợ của Mỹ, mà phí tổn ngày càng tăng của các chương trình chăm sóc y tế và đảm bảo phúc lợi cho tất cả những người được thụ hưởng như An sinh xã hội, cùng với phí tổn ngày càng tăng của việc trả lãi cho các khoản nợ, sẽ đòi hỏi những phần đóng góp lớn của thu nhập tương lai. Các nhà quan sát khác ít gây hoang mang hơn. Họ tuyên bố Mỹ không giống như Hy Lạp.
http://www.vietsn.com/forum/showthread.php?t=403985
Geen opmerkingen:
Een reactie posten