vrijdag 20 september 2013

Nguồn Gốc Chữ Quốc ngữ

Nguồn Gốc Chữ Quốc ngữ
Huỳnh Ái Tông
1. Ðại Cương.
Danh từ chữ Quốc ngữ hay chữ Việt, người Việt chúng ta đã dùng từ lâu, mặc dù nó không được chính danh. Bởi vì danh từ chữ Quốc ngữ là danh từ chung, chỉ cho các thứ chữ của một nước, chẳng hạn chữ Nôm ( 1 ) cũng là chữ Quốc ngữ của nước ta, nhưng do chúng ta dùng lâu đã quen, nên danh từ chữ Quốc ngữ để chỉ cho chữ viết chúng ta dùng ngày nay. Chữ nầy thoạt đầu do những vị giáo sĩ Tây phương truyền đạo tại Việt Nam, họ mượn mẫu tự La tinh, ghép lại để ghi âm địa danh và nhân vật địa phương, từ đó nó đã trải qua các thời kỳ hình thành chữ Quốc ngữ, qua quá trình hình thành, nó đã được sự đóng góp của người Việt cũng như người ngoại quốc, phần chính vẫn là người Việt chúng ta.
Sự hình thành chữ Quốc ngữ có thể chia ra làm ba thời kỳ :
  • Thời kỳ sáng tạo từ năm 1621.
  • Thời kỳ xây dựng năm 1651.
  • Thời kỳ phát triển từ năm 1867.
Chúng ta biết rằng, khoảng giữa thế kỷ XVI, lúc ấy nước ta chia thành Nam, Bắc triều. Năm 1533, có giáo sĩ Irigo (I-Nê-Khu), người Âu, theo đường biển vào nước ta ở Ðàng Ngoài, tại Nam Ðịnh để giảng đạo. Năm 1596, giáo sĩ Diago Advarte đến Ðàng Trong ở một thời gian rồi bỏ đi, cho đến năm 1615, giáo sĩ Francesco Buzomi đến lập Giáo Ðoàn Ðàng Trong (Mission de la Cochinchine), đến năm 1627, giáo sĩ Ðắc Lộ (Alexandre de Rhodes) mới lập Giáo Ðoàn Ðàng Ngoài (Mission de Tonkin).
Cả hai giáo đoàn nầy đều thuộc Dòng Tên, có một trung tâm truyền giáo ở Áo Môn (Macao - Trung Quốc), vì trước kia người Bồ Ðào Nha sang Trung Hoa buôn bán, họ ở bán đảo Schangch nan thuộc Quảng Châu, vào khoảng năm 1557, có bọn cướp biển trú ẩn ở Áo Môn, thường hay khuấy nhiễu Quảng Châu, nên người Trung Hoa nhờ các thương gia Bồ Ðào Nha dẹp bọn cướp biển ấy, sau khi dẹp xong bọp cướp, người Bồ Ðào Nha xin phép nhà cầm quyền Trung Hoa cho họ trú ngụ ở bán đảo Schangch nan và Áo Môn, mỗi năm họ đóng thuế cho chánh quyền Trung Hoa, cho đến thế kỷ XX Áo Môn vẫn còn thuộc Bồ Ðào Nha.
Thuở đó, các nhà truyền giáo Tây phương muốn sang Viễn đông, họ đều theo các thương thuyền Bồ Ðào Nha, cho nên họ chọn Áo Môn làm trung tâm truyền giáo để hoạt động ở Trung Hoa, Nhật Bản và Việt Nam, nơi ấy có cả một Viện thần học Madre de Dieux (Mẹ Ðức Chúa Trời).
Do đó các giáo sĩ người Âu thường từ Áo Môn sang Ðàng Ngoài hay Ðàng Trong và ngược lại, họ thường dùng ngôn ngữ Bồ Ðào Nha để giao dịch với nhau, những phúc trình truyền giáo hay thư từ gửi về La Mã có khi họ viết chữ Bồ, có khi họ viết chữ La Tinh.

2. Sự Hình Thành Chữ Quốc Ngữ
I.- Thời Kỳ Sáng Tạo Chữ Quốc Ngữ
Không phải chữ Quốc ngữ hình thành do sự ngẫu nhiên từ những chữ phiên âm tiếng Việt, thực ra chữ Quốc ngữ hình thành theo hướng chung của các giáo sĩ Tây Phương, họ muốn La Tinh hóa các chữ Á Ðông nằm trong địa bàn truyền giáo của họ.
Thật vậy, tại Trung Hoa, Hoa ngữ được các nhà truyền giáo dùng mẫu tự La Tinh phiên âm trước nhất, công việc nầy do hai giáo sĩ Dòng Tên là Micac Ruggieri và Matteo Ricci đã soạn quyển Ngữ vựng hay Tự vựng Bồ-Hoa, quyển nầy mỗi trang chia làm 3 cột : chữ Bồ, chữ Hán, phiên âm Hoa ngữ, tài liệu nầy soạn khoảng năm 1584-1588, bảng viết tay còn lưu trử tại văn khố Dòng Tên ở La Mã (Rome).
Năm 1598, giáo sĩ Ricca và Cateneo đã dùng ký hiệu để ghi các thanh Hoa ngữ.
Tại Nhật Bản, các tác phẩm chữ Nhật đã được La tinh hóa, từ năm 1592 đến năm 1596 có đến 10 tác phẩm loại nầy được in ra, hai tác phẩm quan trọng sau đây đáng được nhắc đến:
1) Cuốn Giáo lý ghi bằng tiếng Nhật theo mẫu tự La Tinh có tên là : Dotrina Jesus no Compania no Collegio Amacusa ni voite superiores no vou xi no comuni core no fan to nasu mono nari, Nengi, 1592.
2) Cuốn tự điển La - Bồ - Nhật: Dictionarium latino lusitanicum ac Japonium (In Amacusa in Collegia Japonico Societa Jesus, Anno 1595)
Ngoài ra còn có sách ngữ pháp Nhật được in theo mẫu tự a, b, c vào năm 1603-1604.
Tại Việt Nam, thời kỳ sáng tạo chữ Quốc ngữ có thể chia ra làm 2 giai đoạn :
  • Giai đoạn phiên âm.
  • Giai đoạn cấu tạo câu.
1.- Giai đoạn phiên âm.
Về nguồn gốc, có lẽ câu sau đây là một dòng chữ xuất hiện đầu tiên, trong tiến trình hình thành chữ Quốc ngữ.
Con gno muon bau tlom laom Hoalaom chian .
Câu nầy, theo giáo sĩ Christofora Borri ( 2 ), là câu mà các giáo sĩ đàng trong đã dùng trước khi ông có mặt tại đây, nó có nghĩa là : Con nhỏ muốn vào trong lòng Hoa Lang chăng ?
Danh từ Hoa Lang, không rõ do đâu mà có, nhưng đó là danh từ do người Việt Nam thời bấy giờ dùng để chỉ cho người Bồ Ðào Nha, và sau đó được dùng để gọi chung các nhà truyền giáo Tây Phương. Như vậy câu trên là câu các nhà truyền giáo Tây phương muốn hỏi một người Việt rằng : Muốn vào đạo Thiên chúa chăng ? Vì lẽ câu nói không diễn tả được rõ ý nên Linh mục Buzomi đã sữa lại như sau : Muon bau dau Christiam chiam ? ( Muốn vào đạo Christiang chăng ?).
Ðây là câu trích trong quyển sách của Christoforo Borris xuất bản năm 1631 tại La Mã, viết bằng chữ Ý ( 3 ). Tuy vậy, chúng ta có thể coi những chữ phiên âm trong sách nầy đã được ông dùng trong thời gian từ 1618 đến 1621, là thời gian ông sống ở Ðàng Trong.
Phiên âm : Nghĩa
Anam : An Nam
Tunchim : Ðông Kinh
Ainam : Hải Nam
Kemoi : Kẻ mọi
Cacciam : Cả chàm (Kẻ Chàm)
Sinunua : Xứ Hóa ( Thuận Hóa)
Quamguya : Quảng Nghĩa
Quignin : Qui Nhơn
Dàdèn, lùt : Ðã đến lúc
Dàdèn lùt : Ðã đến lúc
Scin mocaij : Xin một cái
Chià : Trà
Cò : Có
.......
Onsaij : Ông sãi
Quanghia : Quảng Nghĩa
Nuoecman : Nước mặn
Da, an, nua : Ðã ăn nữa,
Da, an, het : Ðã ăn hết
Omgne : Ông nghè
Tuijciam,biet: Tui chẳng biết
Onsaij di lay : Ông Sãi đi lại
Bàncò : Bàn Cổ
Maa : Ma
Maqui, Macò : Ma quỉ, ma quái
Bũa : Vua
Chiuna : Chúa
Bản phúc trình của Linh mục João Roig viết bằng chữ Bồ Ðào Nha tại Áo Môn ngày 20-11-1621, để gửi về La Mã, trong ấy có phiên âm vài danh từ như sau :
An nam : An Nam
Sinoa : Xứ Hóa
Usai : Ông Sãi
Ungne : Ông nghè
On trũ : Ông trùm
Ca cham : Ca chàm ( kẻ chàm, tức Thanh Chiêm, thủ phủ Quảng Nam Dinh, thời ấy dân chúng gọi là Cả Chàm hay Dinh Chàm)
Nuocman : Nước Mặn
Bafu : Bà phủ
Sai Tubin : Sãi Từ Bình ( ? )
Banco : Bàn Cổ
Oundelinh : Ông Ðề Lĩnh
Cùng năm ấy, Linh mục Gaspa Luis cũng viết một bảng tường trình bằng La văn tại Áo Môn ngày 12-12-1621 gửi cho Linh mục Mutio Vitelleschi ở La Mã, để báo cáo về giáo đoàn Ðàng Trong, trong ấy có dùng vài phiên âm :
Cacham : Kẻ chàm
Nuocman : Nước Mặn
Ongne, Ungué : Ông nghè
Bancô : Bàn Cổ
Ðến ngày 16-6-1625, giáo sĩ Ðắc Lộ có viết một lá thư bằng Bồ văn gửi cho Linh mục Nuno Mascarenhas, trong ấy có vài phiên âm :
Ainão : Hải Nam
Tunquim, Tunquin : Ðông Kinh
Thêm một tài liệu khác Gaspar Luis viết bằng La văn ngày 1-1-1626 tại Nước Mặn để gửi cho Linh mục Mutio Vitelleschi ở La Mã, trong ấy có phiên âm một số địa danh và danh từ:
Fayfó : Hải phố (Fayfo : Hội An)
Cacham : Kẻ chàm
Nuocman : Nước Mặn
Pullocambi : ?
Dinh cham : Dinh chàm
Quanghia : Quảng Nghĩa
Quinhin : Qui nhơn
Ranran : Ran ran ( tức là sông Ðà Rằng ở Phú Yên)
Bendâ : Bến đá
Bôdê : Bồ đề
Ondelimbay : Ông Ðề Lĩnh Bảy
Ondedoc : Ông Ðề đốc
Unghe chieu : Ông nghè Chiêu
Nhit la khaun, khaun la nhit : Nhứt là không, không là nhứt
Và Linh mục Antonio de Fontes người Bồ Ðào Nha, đã có đến ở Ðàng Trong năm 1624 và Dinh Chàm với Linh mục Pina và Ðắc Lộ, cũng ngày 1-1-1626, Linh mục Fontes viết tại Hội An một bản tường trình bằng Bồ văn gửi cho Linh mục Mutio Vitelleschi là Bề Trên Cả Dòng Tên ở La Mã, bảng tường trình nầy gồm có 3 phần, trong ấy cũng cho chúng ta biết thuở ấy giáo đoàn Ðàng Trong có 3 cơ sở: Hội An, Kẻ Chàm (Quảng Nam) và Nước Mặn (Qui Nhơn). Trong bảng tường trình nầy, có các phiên âm :
Digcham : Dinh Chàm
Nuocman : Nước Mặn
Quinhin : Qui Nhơn
Sinua, Sinuâ : Xứ Hóa
Orancaya : ?
Quan : Quảng (Quảng Nam)
Xabin : Xá Bình ?
Bếndá : Bến đá
Bude : Bồ đề
Ondelimbay: Ông Ðề Lĩnh Bảy
Ondedóc : Ông đề đốc
Onghe Chieu : Ông nghè Chiêu
Nhít la khấu, khấu la nhít : Nhứt là không, không là nhứt
Dinh Cham : Dinh Chàm
Sinóa : Xứ Hóa
Ngày 13-7-1626, Linh mục Francesco Buzomi viết một lá thư chữ Ý gửi cho Linh mục Mutio Vitelleschi, cách phiên âm có tiến triển phần nào, vì các danh từ ghi theo đơn âm như ngày nay, các chữ phiên âm trong bức thư nầy gồm có:
Xán tí : Xán tí (Thượng đế)
Thiên chu : Thiên chủ (Thiên chúa)
Thiên chũ xán tí : Thiên chủ thượng đế
Ngaoc huan : Ngọc hoàng
Cho đến năm 1631, có thêm hai tài liệu của Ðắc Lộ: một vào ngày 16-1-1631, ông có viết một bức thư gửi cho Linh mục Nuno Mascarenhas ở La Mã , trong ấy chỉ tìm thấy có một chữ phiên âm Thinhũa : Thanh Hóa, và một bản văn khác thuật lại việc ông cùng Linh mục Pedro Marques tới cửa Bạng (Thanh Hóa) vào ngày 19-3-1627 cho đến lúc Linh mục Antonio F. Cardin đến Thăng Long ngày 15-3-1631 (trong chuyến đi ấy, có các Linh mục Gasparo dAmiral, André Palmeiro, Antonio de Fontes), tài liệu nầy gồm 2 trang rưỡi chữ, viết trên giấy khổ 16 x 23 cm, trong ấy chỉ phiên âm có mấy chữ :
Sinoa : Xứ Hóa (thuận Hóa)
Anná : An nam
Sai : Sãi
Mía : Mía ( nhà tạm trú)
Những tài liệu phiên âm trên, cho chúng ta thấy phần nào sự manh nha hình thành chữ Quốc Ngữ trong các năm từ 1621 đến năm 1631. Trong mười năm đó, chúng ta thấy sự phiên âm không mấy tiến triển, chưa có sự thống nhất nào cả, chẳng hạn như danh từ xứ Hóa, họ đã phiên âm :
Sinoa (Jão Roig 20-11-1621)
Sinua, Sinuâ, Sinoá (Antonio de Fontes 1-1-1626)
Sinoa (Ðắc Lộ 1631)
Danh từ Ông Nghè :
Omgne (Christoforo Borri 1618-1621)
Ungne (Jão Roig 20-11-1621)
Ongne, Ungué ( Gaspar Luis 12-12-1621)
Unghe (Gaspar Luis 1-1-1626)
Onghe (Antonio de Fontes 1-1-1626)
2.- Giai Ðoạn Cấu Tạo Câu.


a.- Sự đóng góp của Gasparo dAmiral
Giai đoạn kế tiếp được coi như khởi sự từ năm 1632 với những phiên âm của Gasparo dAmiral, trong giai đoạn nầy, chúng ta thấy vai trò đóng góp cho sự hình thành chữ Quốc ngữ của Gasparo d Amiral rất quan trọng, ông phiên âm có phương pháp. Tài liệu dẫn sau đây cho chúng ta thấy rõ Ðắc Lộ đã theo phương pháp của ông để phiên âm trước khi dựa vào quyển tự điển Bồ Ðào Nha - Annam cũng của ông, để Ðắc Lộ soạn quyển tự vị An Nam - Bồ Ðào Nha - La Tinh
Ðể hiểu rõ điều chúng tôi vừa đề cập tới, không gì hơn là chúng ta nhìn lại cuộc đời và vết đi của họ, chúng ta sẽ thấy ảnh hưởng của Gasparo d Amiral đối với Ðắc Lộ.
Gasparo d Amiral sinh năm 1592 tại Bồ Ðào Nha, gia nhập Dòng Tên ngày 1-7-1608, ông đã làm giáo sư dạy La văn, Triết học, Thần Học tại các học viện và đại học Evora, Braga, Coinbra ở Bồ Ðào Nha.
Năm 1623, Gasparo dAmiral đến Áo Môn, vào tháng 10 năm 1926, ông cùng với Thầy Paulus Saito (1577-1633 người Nhật) đến Ðàng Ngoài cho đến tháng 5 năm 1630 cả hai cùng với Linh mục Ðắc Lộ và Pedro Marques về Áo Môn. Ngày 18-2-1631 Gasparo cùng 3 Linh mục khác là André Palmeiro, Antonio de Fontes và Antonio F. Cardim từ Áo Môn đáp tàu Bồ Ðào Nha đến cửa Bạng (Thanh Hóa) và đến ngày 15-3-1631, các Linh mục nầy mới đến Kẻ Chợ (Thăng Long).
Sau đó Linh mục Palmeiro và Fontes trở về Áo Môn còn Amiral và Cardim ở lại tiếp tục công cuộc truyền giáo tại Ðàng Ngoài. Năm 1638, Linh mục Amiral được gọi về giữ chức Viện Trưởng Viện thần học tại Áo Môn, như vậy ông đã ở Ðàng Ngoài được 7 năm.
Ðến năm 1641, ông được cử làm Phó Giám Tỉnh Dòng Tên hai tỉnh Nhật và Trung Hoa (gồm các nước Nhật, Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia, Thái Lan và Trung Hoa - Áo Môn, Quảng Ðông, Quảng Tây). Năm 1645, ông đáp tàu từ Áo Môn đi Ðàng Ngoài, khi tàu đến gần đảo Hải Nam bị đắm, do đó ông bị chết đuối vào ngày 23-12-1645.
Trong 7 năm ở Ðàng Ngoài, Gasparo dAmiral còn để lại 2 tài liệu liên quan đến chữ Quốc Ngữ. Tài liệu 1, ông viết bằng Bồ văn tại Kẻ Chợ vào ngày 31-12-1632 nhan đề: Annua do reino de Annam do anno de 1632, pera o Pe André Palmeiro de Compa de Jesu, Visitator das Provincias de Japan, e China ( Bảng tường trình hàng năm về nước An nam năm 1632, gửi cha André Palmeiro, Dòng Tên, giám sát các tỉnh Nhật và Trung Hoa). Tài liệu nầy hiện lưu trử tại văn khố Dòng Tên La Mã, trong đó có một số phiên âm như sau:
Tun kim : Ðông Kinh, chỉ cho xứ An Nam
Ðàng tlão : Ðàng Trong
Ðàng ngoày : Ðàng Ngoài
Ðàng tlên : Ðàng trên
Oũ nghe : Ông nghè
nhà thượng dày: nhà thượng đài
nhà ti, nhà hién : nhà ti, nhà hiến
nhà phũ : nhà phủ
nhà huyẹn : nhà huyện
oũ khơũ : Ông Khổng ( Khổng Phu Tử)
Ðức laõ : Ðức Long; niên hiệu Ðức Long (1629-1634)
Vĩnh Tộ : Vĩnh Tộ; niên hiệu Vĩnh Tộ (1620-1628)
Bua : Vua
Tế Kì đạo : Tế kỳ đạo
Ðức vương : Ðức Vương
Chúa oũ : Chúa Ông ( tức Trịnh Tráng)
Chúa tũ, chúa dũ, chúa quành : Chúa Tung (Trịnh Vân; Tung Quận Công)
Chúa Dũng (Trịnh Khải; Dũng Quận Công)
Chúa Quỳnh ( Trịnh Lệ; Quỳnh quận công)
Chúa cả : Chúa cả (Trịnh Tạc, vào thời nầy Ðàng Ngoài có 5 chúa là : Trịnh Tráng, Trịnh Tạc, Trịnh Vân, Trịnh Khải, Trịnh Lệ mà chỉ 2 chúa có quyền hành mà thôi)
Thanh đô vương : Thanh Ðô Vương
Chúa triết : Chúa Triết (Trịnh Tùng)
Kẻ chợ : Kẻ Chợ (Thăng Long)
yêu nhău : yêy nhau
oũ phô mả liêu : Ông Phò Mã Liêu (con rễ Trịnh Tráng)
Ðàng Ngoằy : Ðàng Ngoài
Quãng : Quảng
Tàm đàng : Tàm Ðàng
Bên đoũ đa : Bên Ðống Ða
tày : Tầy
lằng bôũ bàu : làng Bông Bầu
Cô bệt : Cô Bệt
Tri yếu : Tri yếu
kẻ hằii : kẻ hầu
ăn dương huyẹn : An Dương huyện
coũ thằn : công thành
Thíc ca : Thích Ca ( Phật)
Phổ lô xã : Phổ lô xã
Sãy uãy : Sải vải
Hộy ăn xả : Hội An xã
huyẹn uịnh lạy : huyện Vĩnh Lại
Thầi uăn Chật : Thầy Văn Chật
làng Kẻ tranh xuyên : Làng Kẻ Tranh Xuyên
Kẻ trãng : Kẻ Trang
Sấm phúc xả : Sấm Phúc xã
Nghỹa ăn xả : Nghĩa An xã
huyẹn bạyc hặc : Huyện Bạch Hạc
thầi phù thủi : Thầy phù thủy
Oũ jà nhạc : Ông già Nhạc
Oũ phu mã kiêm : Ông Phò mã Kiêm
bà : bà (?)
chúa bàng : chúa Bằng
thăn khê : Thanh Khê
hàng bè : hàng Bè
hàng bút : hàng Bút
cữa nam : cửa Nam
kẻ ăn lẵng : kẻ An lãng
hàng nấm : hàng nắm
đinh hàng : Ðinh hàng
càii iền : Cầu Yên
hàng thuõc : hàng thuốc
oũ đô đốc hạ : Ông Ðô Ðốc Hạ
Oũ phũ mã nhăm : Ông Phò mã Nhâm
Oũ chưỡng hương : Ông chưởng Hương
Thầi : Thầy
đức oũ hồe : Ðức ông Huề
thuyèn thũỉ : thuyền thủy
Quãng liẹt xã : Quãng liệt xã
giỗ : giỗ
chặp : chạp
mă : ma
kẽ uạc : kẻ Vạc
cỗ : cỗ
oũ chưỡng quế : ông chưởng Quế
tình : tình
nhũộn : nhuận
tháng : tháng
cốt bõý : cốt bói
Kẽ lăm huyẹn toũ sơn : kẻ Lâm, huyện Tống Sơn
Nghệ an : Nghệ An
Bố chính : Bố chính
thuặn hốe : Thuận Hóa
huyẹn nghi xuon : huyện Nghi Xuân
huyẹn Thinh Chương : huyện Thanh Chương
làng cầii : làng Cầu
nhà nga : nhà nga
đậii xá : đậu xá
vàng may : Vàng May
đức bà sang phú : đức bà sang phú
oũ bà phủ : ông bà phủ
kẽ mộc : kẻ Mộc
kẽ bàng : kẻ Bàng
an nam : An Nam
Tài liệu thứ hai cũng soạn bằng Bồ văn tại kẻ Chợ ngày 25-3-1637, có nhan đề: Relacam dos Catequista da Christamdade de Tumk e seu modo de proceder pera o Pe Manoel Dias, Vissitador de Jappão e China (Tường thuật về các Thầy giảng của giáo đoàn Ðàng Ngoài và về cách thức tiến hành của họ, gửi cha Manoel Dias, giám sát Nhật Bản và Trung Hoa), tài liệu nầy hiện lưu trử tại Văn Khố Hàn Lâm Viện Sử Học Hoàng Gia Madrid Bồ Ðào Nha. Gồm có một số phiên âm sau đây :
Sãy : Sãi
đức : đức
Chúa thanh đô : Chúa Thanh Ðô
thầy : thầy
định : định
nhin : Nhơn (tên)
Nghệ an : Nghệ an
lạy : lạy
tri : Tri (tên)
bùi : Bùi (tên)
Quang : Quảng (tên)
tháng : Thắng (tên)
Coũ thàn : Công Thành
Sướng : Sướng (tên)
đàng ngoài : Ðàng Ngoài
già : Già (tên)
Vó : Vó (tên)
nân : Nân (tên)
lồ : Lồ (tên)
đôủ thành : Ðông thành (tên)
Kẻ chợ : Kẻ Chợ (tên)
Trong hai tài liệu nầy, tài liệu thứ nhất có gần 400 chữ phiên âm, chưa được thống nhất cách dùng mẫu tự ghi âm. Ví dụ :
Âm a ghi ă (Hội ăn xã) hay ghi a (Nghệ an)
Âm ò ghi ô (oũ phô mả liêu) hay ũ (oũ phũ mả kiêm)
Có một số âm, phụ âm, dấu giọng không như ngày nay :
Các âm â ghi ă (hàng nấm)
----------- ê - e (huyẹn, hién)
----------- y - i (thầi)
----------- o - õ (bõy)
--------- âu - ăii (hầu)
Các phụ âm : ng ghi ũ (oũ)
-----------------  ch - yc (bạyc)
Các dấu giọng : ? ghi ~ (cữa nam, phũ)
-------------------   ~ - ? (Sấm phú xả, Nghỹa ăn xả)
Tuy nhiên Gasparo dAmiral cũng ghi được các âm như ngày nay :
a (nghệ an ) ă (hàng nắm) â (thầi)
ê ( nghệ) ô (giỗ) ơ (chợ)
i (nghi xuôn) u (yêu nhău) ư (thương, vương)
Có đủ dấu giọng:
không dấu (nam, đô)
(Thíc ca)
` (thầi phù thũi)
? (chúa cả)
~ (giỗ)
. (vĩnh tộ)
Tài liệu thứ hai viết sau 5 năm, một số chữ viết ngày nay giống y như vậy: đức, chúa thanh đô, thầy, Nghệ an, lạy, định ... Do đó chúng ta thấy Gasparo dAmiral ghi âm tiến bộ hơn các giáo sĩ khác, đó cũng là điều dĩ nhiên bởi vì từ tài liệu của Jão Roiz hay Gaspar Luis viết từ năm 1621, đến tài liệu thứ nhất của Gasparo dAmiral có khoảng cách biệt trên 10 năm.
b.- Sự đóng góp của Linh mục Ðắc Lộ.
Linh mục Ðắc Lộ (Alexandre de Rhodes), người được Pháp đề cao đã sáng chế ra chữ Quốc Ngữ, mang lại sự khai hóa cho dân tộc Việt Nam, với chiêu bài nầy để che đậy hành động thực dân, xâm chiếm lãnh thổ và cai trị hà khắc dân tộc chúng ta. Ðể hiểu rõ vấn đề nầy, chúng ta cần lướt qua tiểu sử và hành trình truyền giáo của Ðắc Lộ.
Ðắc Lộ sinh ngày 15-3-1591 tại Comtat Venaissin, tỉnh Avignon, miền Nam nước Pháp, tổ tiên ông gốc Do Thái. Tổ phụ của ông đã di cư từ Tây Ban Nha sang Avignon vào giữa thế kỷ XVI, thân sinh ông là Benadin II de Rhodes, được liệt vào hàng thân hào, nhân sĩ trong vùng.
Ðắc Lộ gia nhập Dòng Tên ở La Mã ngày 14-4-1612, học tập chuyên về thần học và toán học tại học viện Saint André du Quirinal, thụ phong linh mục tại La Mã năm 1618. Cũng trong năm nầy, ông được phép sang Ðông Nam Á truyền giáo, ông đến Lisbonne thủ đô Bồ Ðào Nha, rồi từ đây đáp tàu đi Áo Môn ngày 04-4-1619, vì có ghé qua Goa (Ấn Ðộ) nên ông đến Áo Môn ngày 29-5-1623, ông đặt chân lên Việt Nam lần đầu tiên vào tháng 12 năm 1624 tại Ðà Nẳng, cùng với các linh mục Gabriel de Mattos và một giáo sĩ Nhật.
Ðắc Lộ đến cơ sở truyền giáo Thanh Chiêm thuộc Quảng Nam Dinh, nơi đây có Linh mục Francisco de Pina (sinh năm 1585 tại Bồ Ðào Nha, đến Ðàng Trong năm 1617 và chết đuối ở Quảng Nam năm 1625) và Antonio de Fontes (đến Ðàng Trong tháng 12 năm 1624), tại đây Ðắc Lộ học tiếng Việt với Francisco de Pina, tháng 7 năm 1626 ông rời Ðàng Trong về Áo Môn, ngày 19-3-1627, ông cùng với Linh mục Pierre Marquez đến của Bang ( Thanh Hóa), ở đây, hai ông có yết kiến Trịnh Tráng, rồi sau đó theo chúa Trịnh ra Thăng Long, thời gian nầy hai Linh mục lập giáo đoàn Ðàng Ngoài, tháng 5 năm 1630, chúa Trịnh cấm đạo, trục xuất các giáo sĩ, Ðắc Lộ trở về Áo Môn.
Từ năm 1630 đến năm 1640, Ðắc Lộ dạy thần học ở học viện thần học Áo Môn. năm 1640, ông được cử đến Ðàng Trong làm Bề Trên, thay thế Linh mục Buzomi vừa từ trần tại Quảng Nam Dinh, ông ở đây cho đến ngày 3-7-1645, bị bắt buộc phải rời cơ sở truyền giáo Thanh Chiêm, theo lệnh của quan Cai bộ áp dụng án trục xuất các giáo sĩ của chúa Nguyễn. Kể từ đó, ông rời hẳn nước Việt Nam, trở lại Áo Môn ông dạy tiếng Việt ở Học viện Thần Học, ngày 20-12 năm 1645 ông đáp tàu từ Áo Môn đi Âu Châu, nhằm mục đích vận động thành lập hàng giáo phẩm Việt Nam.
Ngày 16-11-1654,Toà thánh La Mã cử Ðắc Lộ làm Bề Trên của phái đoàn truyền giáo ở Ba Tư. Ðầu tháng 11-1655, ông đáp tàu từ Marseille đi Ispaham thủ đô Ba Tư, và tại đây ông đã trút hơi thở cuối cùng vào ngày 5 tháng 11 năm 1660.
Giai đoạn trước, giáo sĩ Ðắc Lộ có để lại 3 tài liệu về chữ Quốc Ngữ vào năm 1625 và 1631 đã dẫn ở trên và giai đoạn sau nầy, ông cũng để lại 3 tài liệu khác viết vào các năm 1636, 1644, 1647.
Tài liệu năm 1634, viết tay có nhan đề: Tunchinenois Historiae libri duo quorum altero status temporalis hujus Regni, altero mirabiles evangelicae praedications progressus refuruntur. Coeptae per Patres Societatis Jesu, ab Anno 1627 ad Annum 1636 ( Lịch sử Ðàng Ngoài và những bước tiến triển lớn lao mà phúc âm rao giảng đã làm ở nước nầy để cải hóa lương dân, từ năm 1627 đến năm 1636) Bản nầy ghi bằng La văn gồm 2 quyển, lưu trử tại Văn khố Dòng Tên ở La Mã.
Các chữ phiên âm trong quyển một.
Tung : Ðông
kin : kinh
Annam : An Nam
Ai nam : Hải Nam
Chúacanh : Chúa Canh
Che ce : kẻ Chợ (Thăng Long)
Chúa bàng : Chúa Bàng (đúng ra là Bình; Bình An Vương Trịnh Tùng)
Chúa õu : Chúa ông
Chúa thanh đô : Chúa Thanh Ðô ( Thanh Ðô Vương Trịnh Tráng)
uuan : vương
min : minh
bát min : bất minh
thuam : thuận
uan : văn
uu : vũ
gna ti : nhà ti
gna hien : nhà hiến
Cai phu : cai phủ
Cai huyen : cai huyện
Bua ; vua
den : đền
sin do : sinh đồ
huan cong : hương cống
tin si : tiến sĩ
tam iau : tam giáo
dạu nhu : đạo nhu (nho)
dạu thíc ; đạo thích
Thicca, Thic ca, Thiccả : Thích ca
Sai : Sãi
sai ca : Sãi cả
lautu : Lão tử
Giô : giỗ
Cu hồn : Cô hồn
ba hon : ba hồn
Chin via : Chín vía
dum : Ðồng (tên)
Các chữ phiên âm trong quyển hai
Cửa bang : Cửa Bạng (Thanh Hóa)
Phạt : Phật
bụt : Bụt
dang : Ðàng
ciiia oũ : chúa ông
ciiia ban uuan : chúa Bằng vương
ciii sai : chúa Sãi
ciii canh : chúa canh
thinh hoa : Thanh Hóa
thai : thầy
sai vai : Sãi Vãi
Che vich : kẻ vích (cửa Vích, cửa sông ở phía Bắc Thanh Hóa)
Che no : Kẻ Nộ
Gne an : Nghệ An
bochin : bố chính
Rum : Rum
kiemthuong : Kiêm Thượng
Phuchen : Phục chân
cà : Cà
cã : cả
cá : cá
tlẽ : trẻ
tle : tre
Tài liệu năm 1644, Ðắc Lộ viết bằng Bồ văn tại Thanh Chiêm, nhan đề: Relacão do glorioso Martirio de Andre Cathequista Protomartir de Cochinchiana alanceado, e degolado em Cachão no 26 de Julho de 1644 Tendo de Idade dezanove annos ( Tường thuật cuộc tử đạo vinh hiển của Thầy giảng An-Rê, vị tử đạo tiên khởi ở Ðàng Trong, đã bị đâm chém tại kẻ Chàm ngày 26-7-1644, tử đạo lúc 19 tuổi), tài liệu nầy có những chữ phiên âm và câu phiên âm :
Ounghebo, Oũnghebo : Ông Nghè Bộ
Giũ nghĩa cũ d chúa Jesu cho den het hoy, cho den blon doy : Giữ nghĩ cùng đức chúa Jesu cho đến hết hơi, cho đến trọn đời.
Tài liệu năm 1647, Ðắc Lộ viết bằng La văn tại Macassar ngày 4-6-1647 có nhan đề : Alexandre Rhodes è Societate jesu terra marique decẽ annorũ Itinerarium ( Cuộc hành trình mười năm trên bộ, dưới biển của Ðắc Lộ thuộc Dòng Tên), tài liệu nầy có các phiên âm như sau :
Ciam : Chàm
Ranran : Ran ran
Ké han : Kẻ Hàn
On ghe bo : Ông nghè Bộ
ke cham : kẻ Chàm
halam : Hà Lan
Cai tlam, Caitlam : Cát Lâm
ben da : Bến đá
Qui nhin : Qui Nhơn
Nam binh : Nam Bình
Bao bom : Bầu vom
Quan Ghia : Quảng Nghĩa
Nuoc man : Nước Mặn
bau beo : Bầu Bèo (?)
liem cum ; Liêm công
Quanghia : Quảng Nghĩa
Baubom : Bầu Vom
bochinh : Bố chính
Oũ ghe bo : Ông nghè Bộ
Sau khi đối chiếu tiểu sử của Gasparo d Amiral và Ðắc Lộ cùng các tài liệu phiên âm như trên, chúng ta có nhận định sau :
1) Linh mục Gasparo d Amiral phiên âm có tự dạng gần với chữ Việt chúng ta viết ngày nay, hơn là các phiên âm của Ðắc Lộ, thử so sánh :
Tài liệu Gasparo d Amiral 1632 : Tài liệu Ðắc Lộ 1636
----------------- Thanh đô vương -------- thanh đô
----------------- Nhà ti --------------------- gna ti
----------------- Nhà hién ----------------- gna hien
----------------- Nghệ ăn, nghệ an ------ Gne an
----------------- Bố chính ----------------- bochin
2) Gasparo d Amiral phân biệt được một số dấu giọng như đã vạch ra ở phần trước, trong khi Ðắc Lộ lại ít dùng dấu giọng.
3) Ngay trong cách phiên âm của Ðắc Lộ, tài liệu sau phiên âm kém hơn tài liệu trước. Trái lại, Gasparo d Amiral phiên âm tài liệu năm 1637 khá hơn tài liệu năm 1632.
Năm 1632, bảng tường trình của Gasparo d Amiral gửi cho Linh mục André Palmeiro, giám sát các tỉnh Nhật, trung Hoa lúc đó Ðắc Lộ cũng ở tại Áo Môn (1630-1640), là người tha thiết với các giáo đoàn truyền giáo tại Việt Nam, chắc chắn Ðắc Lộ có xem qua bảng tường trình nầy.
Từ năm 1638-1645 Gasparo d Amiral ở tại Áo Môn, như vậy họ đã có thời gian ở bên nhau 2 năm 1638-1640, rồi tháng 7 năm 1645 đến 20-12-1645 Ðắc Lộ từ Việt Nam trở lại Viện Thần Học Áo Môn, phụ trách dạy tiếng Việt, còn Gasparo d Amiral đã soạn quyển Tự vựng Việt La, như vậy cả hai có thêm thời gian ở bên cạnh nhau, lại cùng hoạt động chung bộ môn tiếng Việt, điều đó cho ta thấy chắc chắn Ðắc Lộ có chịu ảnh hưởng của Gasparo d Amiral về lãnh vực tiếng Việt.
Tài liệu Ðắc Lộ viết năm 1647 tại Macassar, chứng tỏ rằng sau khi ông rời Việt Nam ngày 20-12-1645, ông vẫn chưa có được một hệ thống phiên âm vững chắc và gần gủi với chữ Quốc ngữ ngày nay.
c.- Sự đóng góp của Linh mục Antonio Barbosa
Antonio sanh năm 1594 tại ville de Arrifana de Sonza, Bồ Ðào Nha, gia nhập Dòng Tên vào ngày 13-3-1624. Năm 1629, ông được cử đến truyền giáo ở Ðàng Trong và đến tháng 4 năm 1636, ông có đến Ðàng Ngoài truyền giáo. Cho đến tháng 5 năm 1642, vì lý do sức khỏe, ông phải trở về Áo Môn tịnh dưỡng. Cũng do tình trạng sức khỏe không tốt nên sau một thời gian tịnh dưỡng, ông rời Áo Môn đi Goa và ông đã từ trần trên đường đến Goa năm 1647.
Mặc dù ngày nay Antonio không có để lại tài liệu Quốc ngữ nào, nhưng Ðắc Lộ đã cho biết : Tôi lợi dụng công việc của các giáo sĩ khác cũng thuộc Dòng Tên, nhất là của Gasparo d Amiral và Antonio Barbosa. Cả hai ông nầy, mỗi ông đều làm một cuốn tự điển. Ông Gasparo d Amiral làm cuốn Annamiticum - Lusitanium; ông Antonia Barbosa làm cuốn Lusitanum - Annamiticum. Nhưng tiếc rằng cả hai ông đều chết sớm. Tôi lợi dụng công việc của cả hai ông viết ra cuốn tự điển mới, có chua thêm tiếng La tinh, mục đích để giúp người bản xứ học tiếng La tinh theo lệnh của các đức hồng y. ( 4 )
d.- Sự đóng góp của người Việt
Dù sao, khởi thủy chữ Quốc ngữ hình thành cũng nằm trong mục đích chánh là phương tiện truyền giáo cho các giáo sĩ thuộc Dòng Tên ở Việt Nam. Bên cạnh các giáo sĩ, giáo dân Việt Nam thời đó không nhiều thì ít cũng có đóng góp trong lúc hai linh mục Gasparo và Antonio soạn hai quyển tự điển của họ, điều đó tuy không có chứng cứ, nhưng theo suy luận hợp lý, cho phép chúng ta tin như vậy.
Ngoài ra trong thời kỳ nầy còn có tài liệu của 14 giáo dân Việt Nam ghi bằng chữ Quốc ngữ, về việc họ xác nhận tán đồng ý nghĩa mô thức rửa tội, do 31 linh mục Dòng Tên thảo luận ở Viện Thần Học tại Áo Môn năm 1645
Tài liệu nầy là một bản La văn do các linh mục Dòng Tên soạn, để trả lời cho Linh mục Sebastião de Jonaya, nhan đề: Cirra formam Baptismi Annamico Idiomate prolatam ( Chung quanh mô thức rửa tội bằng thổ ngữ An Nam). Phần chữ Quốc ngữ của 14 giáo dân Việt Nam ghi như sau:
Nhin danh Cha uà con uà Su-phi-ri-to-sang-to í nài An-nam các bỏn đạo thì tin ràng ra ba danh ví bàng muốn í làm một thì phải nói nhin nhít danh cha etc.- tôy là Giu ão câi trâm cũ nghi bậi - tôy là An re Sen cũ nghi bậi - tôy là Ben tò vẫn triền cũ nghi bậi - tôy là Phe ro uẫn nhit cũ nghi bậi - tôy là An jo uẫn tãu cũ nghi bậi - tôy là Gi-ro-ni-mo cũ nghi bậi - tôy là I-na sô cũ nghi bậi - tôy là tho-me cũ nghi bậi - tôy là Gi-le cũ nghi bậi - tôy là lu-i-si cũ nghi bậi - tôy là Phi-lip cũ nghi bậi - tôy là Do-minh cũ nghi bậi - tôy là An-ton cũ nghi bậi - tôy là Giu ão cũ nghi bậi ( nhân danh Cha và con và Su-phi-ri-to Sang-to Spirito Santo ý nầy An nam các bổn đạo thì tin rằng ra ba danh. Ví rằng muốn ý làm mộy thì phải nói : nhân danh Cha vân vân. Tôi là Giu an Cai (?) Trâm cũng nghĩ vậy - Tôi là An rê Sen cũng nghĩ vậy - Tôi là Ben tô Văn Triều cũng nghĩ vậy - Tôi là Phê rô Văn Nhất cũng nghĩ vậy - Tôi là An gio Văn Tang cũng nghĩ vậy - Tôi là Gi-rô-i-mô cũng nghĩ vậy - Tôi là Gi le cũng nghĩ vậy - Tôi là lu-i-si cũng nghĩ vậy - Tôi là Phi líp cũng nghĩ vậy - Tôi là Ðô Minh cũng nghĩ vậy - Tôi là An ton cũng nghĩ vậy - Tôi là Giu an cũng nghĩ vậy).
Như thế, chúng ta thấy rõ đây là một bản văn Quốc ngữ của 14 người Việt Nam xác nhận mô thức rửa tội năm 1645 của các linh mục Dòng Tên và đây là tài liệu cho chúng ta thấy sự đóng góp của người Việt Nam trong tiến trình hình thành chữ Quốc ngữ.
Qua so sánh, chúng ta có thể thấy rằng chữ Quốc ngữ năm 1645 chỉ giống chữ viết ngày nay khoảng 45%, và thời kỳ sáng tạo chữ Quốc ngữ khởi đầu từ năm 1621 đến đây đã chấm dứt, để chuyển sang thời kỳ kế tiếp.
Tưởng cũng nên nhắc lại, từ khi khởi đầu phiên âm cho đến khi hình thành chữ Quốc ngữ, không phải là sự ngẫu nhiên, bởi vì giáo đoàn truyền giáo Dòng Tên trước đó đã hoàn tất việc việc La tinh hóa chữ Nhật, để truyền giáo tại Nhật Bản. Nhật Bản cũng như Việt Nam ta, thuở đó mỗi nước đều có chữ Quốc ngữ biến chế từ chữ Hán, nước ta gọi là chữ NÔM, muốn biết chữ Nôm, đòi hỏi người ta phải am tường chữ Hán, chữ Hán vốn đã khó học rồi thì chữ Nôm lại càng khó hơn, chính vì thế mà các linh mục đã La tinh hóa chữ viết của Nhật cũng như Việt Nam, để cho công việc truyền giáo của họ được dễ dàng hơn.

*
II. Thời Kỳ Xây Dựng
  1. Khái Quát.
    Theo tiến trình hình thành chữ Quốc ngữ, cho đến khi quyển Dictionarium Annamaticum Lusitinum et Latinum của Alexandre de Rhodes được in tại La Mã năm 1651, chữ Quốc ngữ đã bước sang giai đoạn mới. Giai đoạn nầy bắt đầu từ công trình của hai Linh mục Antonio Barbosa và Gasparo d Amiral khi hai ông biên soạn Dictionarium Lusitanum - Annamaticum và Annamiticum - Lusitanum nhưng cả hai quyển nầy ngày nay chưa được khám phá.
    Các nhà nghiên cứu cho rằng hai quyển tự điển vừa kể, có thể đã bị thất lạc do các cuộc di chuyển văn khố Dòng Tên từ Áo Môn qua Manila khoảng năm 1759-1760, và sau đó nhà cầm quyền Tây Ban Nha tịch thu các tài liệu ở văn khố Dòng Tên tại Manila vào khoảng năm 1770 đem về Madrid, nên ngày nay không tìm thấy vết tích 2 quyển tự điển nầy ở Áo Môn, Manila và ở Madrid cũng không tìm thấy chúng.
    Linh mục Thanh Lãng có cho biết tại Tòa Thánh La Mã hiện có 2 cuốn tự điển do Linh mục Philipphé Bỉnh sao lục, không đề tên tác giả, đó là quyển : Dictionarium Annamiticum - Lusitanum ký hiệu Borg Touch 23 dầy 288 trang và Dictionarium Lusitanum - Annamiticum ký hiệu Touch 23 dầy 324 trang.
    Philipphé Rosario Bỉnh sanh tại Hải Dương năm 1759, vào chủng viện năm 1775. Ðược phong Thầy Cả sau khi mãn khóa học.
    Ngày 20-6-1796, ông đến Lisbonne thủ đô Bồ Ðào Nha, tại đây ông theo dõi tình hình giáo hội và sáng tác gồm 23 tác phẩm gồm Bồ văn, La Tinh, Nôm và Quốc ngữ, trong số ấy có tác phẩm Truyện An-nam Ðàng ngoài chí Ðàng trão . Ông mất tại Lisbonne năm 1832.
    Căn cứ vào công trình của Philipphé Bỉnh, vào những điều của Linh mục Thanh Lãng cho biết, chúng ta có thể đi đến kết luận là quyển Dictionarium Annamiticum - Lusitanum của Gasparo d Amiral và Dictionarium Lusitanium - Annamiticum của Antonio Barbosa đều có ở tại Lisbonne nơi mà Philipphé Bỉnh đã ở và làm việc, nên ông đã sao chép lại quyển tự điển, nó cũng chứng tỏ rằng Linh mục Ðắc Lộ đã mang 2 quyển sách trên từ Áo Môn về Âu châu, có lẽ trước tiên ông định in 2 quyển tự điển nầy, về sau ông đã dựa vào đó soạn và in ra quyển Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum, nên 2 quyển tự điển kia không cần thiết phải in nữa.
    Chọn năm 1651 là năm đánh dấu sự hoàn tất công trình điển chế chữ Quốc ngữ, nhằm mục đích làm phương tiện truyền giáo của các giáo sĩ Tây Phương, bởi vì chẳng những quyển tự điển Dictionarium Annamiticum Lusitinum et Latinum được in mà còn có quyển Cathéchismus (Phép giảng tám ngày), cũng được in trong năm nầy.
  2. Thời kỳ soạn thảo quyển tự điển An Nam - Bồ Ðào Nha - LaTinh
    Cho đến nay, chưa có tài liệu nào công bố thời gian và địa điểm Ðắc Lộ đã soạn quyển Dictionarium Annamiticum Lusitinum et Latinum. Theo đoạn văn trích dịch ở trên, chúng ta biết rằng Ðắc Lộ soạn quyển tự điển nầy dựa vào công trình hai quyển tự điển của Gasparo d Amiral và Antonio Barbosa.
    Nhưng công trình của 2 linh mục nầy không được in ra, chưa tìm thấy bản gốc, cũng chưa tìm thấy tài liệu nào cho biết thời gian biên soạn hay hoàn tất của chúng, để từ đó có thể giúp chúng ta xác định thời gian Linh mục Ðắc Lộ soạn quyển tự điển của ông. Ðặt ra vấn đề nầy để xác nhận thời điểm, trong những giai đoạn của tiến trình hình thành chữ Quốc ngữ.
    Theo vết chân của Ðắc Lộ, chúng ta biết ông có thể soạn quyển tự điển, trong khoảng năm 1630-1640 là thời gian ông dạy thần học ở Học viện thần học tại Áo Môn. Nhưng mà thời gian nầy không chắc Linh mục Antonio Barbosa đã soạn xong quyển Tự điển Bồ Ðào Nha - An Nam, vì thời gian 1620-1642 ông đang truyền giáo Ðàng Trong rồi Ðàng Ngoài, thời gian nầy Linh mục Antonio học hỏi tiếng Việt, và từ năm 1642 đến năm 1647 ông có ở Áo Môn để dưỡng bệnh, có lẽ thời gian nầy Linh mục Antonio đã biên soạn và hoàn tất quyển tự điển của mình trước tháng 12 năm 1645.
    Còn Linh mục Gasparo dAmiral sau thời gian ở Ðàng Ngoài 7 năm, từ năm 1638-1645 ông ở tại Áo Môn giữ chức Viện trưởng Viện thần học kiêm Phó Giám Tỉnh Nhật và Trung Hoa, chắc chắn thời gian nầy ông đã phối hợp với Linh mục Antonio Barbosa để biên soạn và hoàn tất quyển tự điển An Nam - Bồ Ðào Nha.
    Tóm lại các quyển tự điển An Nam Bồ Ðào Nha và Bồ Ðào Nha An Nam được soạn trong khoảng 1638-1645. Vì năm 1645, Linh mục Gasparo bị đắm tàu chết đuối và trước đó ít hôm, Linh mục Ðắc Lộ đã rời Áo Môn trở về Âu Châu, chúng ta lại biết thêm rằng, thời gian từ 3-7-1645 đến 20-12-1645 là thời gian cả 3 linh mục Ðắc Lộ, Gasparo d Amiral và Antonio Barbosa đều có mặt tại Thần Học Viện ở Áo Môn, chắc chắn họ đã có quyết định giao cho Ðắc Lộ mang 2 quyển tự điển của họ về nhà in của Bộ Truyền giáo ở La Mã để in, cho nên ngày nay bản gốc 2 quyển tự điển trên không tìm thấy ở Áo Môn, Manilia hay Tây Ban Nha.
    Linh mục Ðắc Lộ rời Áo Môn ngày 20-12-1645, và đến La Mã ngày 27-6-1649, có lẽ thời gian nầy ông bắt đầu soạn quyển Tự điển An Nam - Bồ Ðào Nha - La Tinh, nhằm mục đích để cho các Linh mục truyền giáo ở Việt Nam được dễ dàng hơn. Ý ấy đã được các Hồng y chấp thuận như ông đã ghi ở bài tựa quyển Tự điển.
    Vậy thời điểm Ðắc Lộ soạn quyển Dictionarium Annamaticum Lusitinum et Latinum là khoảng năm 1645- 1649, và ngày 5-2-1651 quyển nầy được Linh mục F. Piccolomineus Bề Trên Cả Dòng Tên cho phép xuất bản. Và sau đó quyển Cathéchismus được soạn trong khoảng năm 1649 - 1651, cuốn nầy được Linh mục L. M. Gosswinus Nickel quyền Bề Trên Cả cho phép xuất bản ngày 8-7-1651, nó đóng vai trò quan trọng trong công cuộc truyền giáo, nên trong phiên họp các Hồng Y và giáo chủ ngày 2-10-1651 đã quyết định ra lệnh cho nhà in của Bộ Truyền giáo ngưng in các ấn phẩm khác, để nhanh chóng in cho xong quyển Cathéchismus.
  3. Nội Dung Quyển Dictionarium Annamaticum et Latinum
Quyển sách nầy trừ lời tựa, nó được chia thành ba phần chính:
  1. Phần I. Linguae Annamaticae seu Tunchinensis brevis declaratio ( tức là phần Ngữ Pháp Việt Nam được soạn bằng La văn gồm 31 trang, chia thành 8 chương:
    Chương I .- De literis et syllabis quibus hase lingue constat (chữ và vần trong tiếng Việt)
    Chương II.- De Accentibus et aliis signis in vocalibus dấu nhấn và các dấu)
    Chương III.- De Nominibus (Danh từ)
    Chương IV.- De Pronominibus (Ðại danh từ)
    Chương V.- De Aliis Pronominibus (các Ðại danh từ khác)
    Chương VI.- De Verbis (Dộng từ)
    Chương VII.- De Reliquis oratiomis indeclinabilibus (những phần bất biến)
    Chương Chót.- Pracepta quacdam ad syntaxim pertinentia (cú pháp)
  2. Phần II. Dictionarium Annamiticum seu Tunchinense cum lusiatna, et latina declaratione.
Phần nầy không đánh số trang, chỉ đánh số cột, mỗi trang chia làm 2 cột, có tất cả 900 cột, nhưng từ mẫu tự nọ sang mẫu tự kia thường để một vài trang giấy trắng. Chúng ta cũng nên chú ý, mẫu tự b (phụ âm v ngày nay, vì có tự dạng gần giống như mẫu tự b, nên được xếp tiếp sau mẫu tự b)
Mỗi chữ Việt được giải nghĩa theo thứ tự chữ Bồ rồi mới đến chữ La tinh.
c) Phần III. Index Latini sermonis. Phần nầy mỗi trang chia làm 2 cột, không có ghi số trang và số cột, nhưng có tất cả 350 cột, tức là 175 trang. Trong mỗi cột, tác giả liệt kê các chữ La tinh, bên cạnh mỗi chữ có ghi số cột của chữ La tinh ấy ở Phần II. Như vậy người biết chữ La tinh sẽ tra cứu được chữ Việt tương ứng.
Sau khi biết khái quát về quyển tự điển nầy, chúng ta có những nhận định sau đây :
* Công trình điển chế Việt ngữ của Ðắc Lộ chẳng những đã hệ thống hóa phương pháp ghi âm ngôn ngữ Việt Nam mà còn là một tác phẩm căn bản, để từ đó Việt ngữ được hợp lý hóa các âm thể như ngày nay.
* Dù sao thì công trình của Ðắc Lộ cũng chỉ nhằm giúp những người biết chữ La tinh hay Bồ Ðào Nha học Việt ngữ, Ðắc Lộ không có công trình nào nhằm vào sự phổ biến chữ Quốc ngữ nầy cho người Việt, cũng vì thế mà từ 1651 đến 1866, hơn 2 thế kỷ chữ Quốc ngữ chỉ được phổ biến giữa các giáo sĩ và một ít giáo dân mà thôi.
* Cho đến khi quyển Chuyện Ðời Xưa của Trương Vĩnh Ký ra đời năm 1866, vẫn còn ghi ở lời Tựa ... cùng là có ý cho người ngoại quốc muốn học tiếng An Nam, coi mà tập hiểu cho quen. Ðiều nầy đủ chứng tỏ chữ Quốc ngữ trước đó, có mục đích giúp cho người ngoại quốc học tiếng Việt.
* Ngày nay một số tự điển nhằm mục đích giảng giải, phần đầu của tự điển có phần tóm lược ngữ pháp, chẳng hạn như quyển Anh Việt, Việt Anh Tiêu Chuẩn Tự Ðiển của Lê Bá Kông, sự trình bày cũng giống như hình thức trình bày ở phần đầu quyển Tự điển Việt - Bồ - La của Ðắc Lộ.
  1. Các Tác Phẩm Tiêu Biểu Khác.
  1. Quyển Cathéchismus
Ngay trong năm 1651, Quyển Cathéchismus ( Phép Giảng Tám Ngày) là một bản văn chữ Quốc ngữ xưa nhất còn lại ngày nay, nó cũng là bản văn được nhiều người biết đến, đấy là công trình của Ðắc Lộ, tuy chỉ nhằm mục đích truyền giáo, nhưng ngày nay nó đã trở thành một chứng liệu quý giá để xác định một bản văn hoàn toàn dùng Quốc ngữ.
Cathéchismus là một quyển sách giáo lý, viết cho người giảng dạy giáo lý dùng để truyền giáo. Mỗi trang sách chia làm 2 cột, cột bên trái là chữ la tinh và cột bên phải là chữ Quốc ngữ. Sách có 319 trang, không có lời tựa.
Sách không chia từng chương, mà chia thành ngày học, gồm có 8 ngày, cho nên còn được gọi tên là Phép giảng tám ngày , phân chia như sau :
- Ngày thứ nhất : Ðạo thánh đức Chúa Trời.
- Ngày thứ hai : Ðức Chúa Trời.
- Ngày thứ ba : Ðức thợ cả
- Ngày thứ tư : Những đạo vạy
- Ngày thứ năm : Một đức chúa Trời ba ngôi - Ðức chúa Trời ra đời cứu thế.
- Ngày thứ sáu : Thầy thuốc cả.
- Ngày thứ bảy : Con chiên lành.
- Ngày thứ tám : Một bậc thang lên Thiên đàng.
Sách không chia ra các tiểu mục, trong khi sao lục để tái bản, André Marillier dựa vào nguyên tắc để chia ra các tiểu mục. Chẳng hạn như Ngày thứ tư : Những đạo vạy :
  • Con cháu ông Adam.
  • Ông Noe và lụt cả
  • Tháp Babel
  • Nước đại minh phân ra nhiều đạo vạy
  • Ðạo bụt : giáo ngoài và giáo trong
  • Ðạo lão
  • Ðạo Nho : Việc thờ ông Khổng.
  • Những điều lầm lỗi trong việc thờ cúng cha mẹ
  • Linh hồn ta chẳng hay chết.
Quyển Cathéchismus là một quyển sách Quốc ngữ được in đầu tiên vào năm 1651, nó mở đầu cho công cuộc truyền bá giáo lý Thiên chúa giáo bằng sách Quốc ngữ tại Việt Nam.
  1. Các Tài Liệu Viết Tay
Ngày nay tại văn khố Dòng Tên ở La Mã còn có 2 tài liệu viết tay của 2 người Việt, đó là Igesico Văn Tín và Bento Thiện.
Tài liệu của Igesico Văn Tín là một lá thư viết ngày 12-9-1659, không đề nơi chốn gửi, mà cũng không ghi tên người nhận, nhưng do những chi tiết trong thư, người ta hiểu được là Văn Tín viết tại kẻ Vó, gửi cho Linh mục Marini lúc đó dang ở La mã. Nội dung thư, đại ý nói về các hoạt động truyền giáo tại kẻ Vó ( Ðàng Ngoài), sau khi các giáo sĩ Tây phương bị chúa Trịnh trục xuất khỏi Ðàng Ngoài, và bày tỏ lòng thành kính đối với Linh mục Marini ( 5 )
Còn tài liệu của Bento Thiện gồm có một bức thư viết tay, viết năm 1659 và một tập tài liệu. Cả hai đều lưu trử tại Văn khố Dòng Tên ở La Mã. Về bức thư, tuy không có ghi ngày, nhưng mở đầu bức thư, ông có ghi ngày viết là ngày lễ Daria tức là 25 tháng 10.
Ở hàng trên cùng hay dòng thứ nhất của bức thư nầy, có ghi dòng chữ Bồ Ao Pe Philipe Marino ( Gửi cho cha Philipe Marino - Marini), dòng thứ hai ghi bằng chữ La Tinh Pax Christi ( Bằng an chúa Ky-tô), từ dòng thứ ba trở đi là chữ Quốc ngữ.( 6)
Nội dung bức thư nầy, ông nói về tình hình truyền giáo tại Ðàng Ngoài, cùng những lời ca ngợi của chính Bento Thiện cũng như của những giáo dân đã nhờ ông chuyển lời thăm hỏi đến Linh mục Marini.
Ngoài ra Bento Thiện cũng có đề cập tới việc Marini nhờ ông viết một số tài liệu về Việt Nam, ông cho biết đã làm xong hai vở ( 7 ), và gửi nơi Linh mục Onofre để nhờ chuyển tới cho Marini.
Còn về tập tài liệu (hai vở) ( 8 ), nó gồm có 2 phần, phần trước gồm có : Lịch sử Việt Nam từ khởi thủy cho đến Trịnh Nguyễn phân tranh, tuy tóm lược nhưng cũng khá đầy đủ, phần nầy gồm có 6 trang khổ 20 x 29 cm. Phần sau cũng gồm có 6 trang cùng khổ giấy, nội dung gồm có : Ghi chép phong tục, tổ chức quan lại, thi cử, tổ chức hành chánh, kể ra các xứ, phủ, huyện, châu, động, xã, thôn ở Ðàng Ngoài và phần cuối cùng là tín ngưỡng.
Những tài liệu nầy có chụp hình và in lại trong quyển Lịch sử chữ Quốc ngữ 1620-1659 của Linh mục Ðỗ Quang Chính, nói chung thì chữ Quốc ngữ viết vào thời kỳ nầy rất khó đọc, chỉ có chừng 50% là có tự dạng giống như ngày nay.
Qua những lời lẽ viết trong thư của Văn Tín và Bento Thiện cho chúng ta thấy rằng, sự diễn đạt bằng Quốc ngữ thời ấy không được suông sẻ, dữ kiện nầy không thể kết luận rằng trình độ văn hóa của người viết kém, vì Bento Thiện đã viết được lịch sử Việt Nam ... chẳng qua chữ Quốc ngữ chưa được phổ biến, chưa có quy củ để có thể diễn đạt tư tưởng dễ dàng, trong sáng, cho nên câu văn kém văn hoa.
5) Thời kỳ của Pièrre Joseph Georges Pigneau de Béhaine và J. L. Tabert.
a- Pierre Joseph Georges Pigneau de Béhaine (1741-1799)
Ông là Giám mục d Adran, người Pháp thuộc dòng Thừa sai, trong thời gian ở chủng viện Virampatman gần Pondichéry (Ấn Ðộ), ông có nghiên cứu về Khổng Mạnh và có soạn bộ tự vị Việt - La tinh (Dictionarium Annamatica - Latinum). Bản sao ghi năm 1772, còn lưu trử tại văn khố của hội Thừa sai Paris. Sách chưa kịp in ra thì ông mất.
b-  J. L. Tabert (1794-1840). Giám mục Tabert cũng thuộc dòng Thừa sai, ông có ở Sàigòn và soạn hai quyển tự vị : Dictionarium Annamatico - Latinum và Dictionarium Latino - Annamaticum, theo các nhà nghiên cứu như Adrien Launay, Linh mục Lepold Cadière đều cho rằng Tabert đã dựa vào công trình của d Adran để soạn thảo. Quyển Dictionarium Annamatico - Latinum (Nam Việt Dương Hiệp Tự Vựng) được ấn hành do nhà Serampore, Extypis J. C. Marshman năm 1838.
Ðến thời kỳ nầy các phụ âm đầu bl (blõ : trở), ml (mlòy: lời), tl (tlẽi : trẩy) vận cản /~/ (oũ : ông) đều được cải tiến như tự dạng ngày nay.
Nói chung đến thời kỳ nầy, chữ Quốc ngữ đã hoàn bị, hay nói khác hơn là chữ Quốc ngữ trong quyển Nam Việt Dương Hiệp Tự Vựng của Linh mục Tabert và chữ Quốc ngữ ngày nay không mấy khác biệt, và chữ Quốc ngữ cũng chỉ là phương tiện truyền giáo, cũng giống như tình trạng trước kia, nó chỉ được phổ biến giữa các giáo sĩ truyền giáo ở Việt Nam và một số rất ít giáo dân người Việt.
Phải đợi đến năm 1866, năm quyển Chuyện Ðời Xưa của Trương Vĩnh Ký ra đời, chữ Quốc ngữ mới được phổ biến với mục đích truyền bá cho người Việt, và phải đợi đến năm 1882, nhà cầm quyền Pháp ban hành Nghị định, bó buộc các viên chức hành chánh xã thôn trong khắp cõi Nam Kỳ, phải thông hiểu chữ Quốc ngữ, nó đánh dấu thời điểm chữ Quốc ngữ được sử dụng chính thức tại miền Nam. Như vậy, từ khi manh nha cho đến khi được dùng làm văn tự chính thức trên vùng đất thuộc địa của Pháp, chữ Quốc Ngữ phải trải qua một thời gian trên hai thế kỷ rưỡi để hoàn thiện cấu trúc tự dạng.

3. Kết Luận
Do các Linh mục dùng chữ Quốc ngữ, để truyền bá đạo Thiên chúa, thực dân Pháp sử dụng chữ Quốc ngữ thành công cụ cai trị. Người miền Nam sống trên dãi đất Nam Kỳ tuy mới thành lập, nhưng họ cũng đã chịu nhiều ảnh hưởng của đạo Phật, Khổng hay Lão, lại có cá tính hào hùng, cho nên những người yêu nước, người bình dân chống lại việc học chữ Quốc ngữ nầy, tinh thần ấy được ghi lại trong Ca dao:
Khuyên anh về học lấy chữ Nhu, ( 9 )
Chín trăng em đợi, mười thu em chờ.
 

Biết được tiến trình hình thành của chữ Quốc ngữ, chúng ta mới hiểu rằng không phải chỉ có Linh mục Ðắc Lộ, là người có công sáng chế ra chữ Quốc ngữ, mà trước đó còn có nhiều người khác, gồm các giáo sĩ Tây phương và người Việt Nam.
Phải đợi đến những nhà văn tiền phong như Trương Vĩnh Ký, Trương Minh Ký, Hình Tịnh Của, sáng tác văn chương, đẩy mạnh việc truyền bá chữ Quốc ngữ, trong đó Huình Tịnh Của soạn quyển Ðại Nam Quốc Âm Tự Vị, in năm 1896. Họ đã là những nhà văn lớn, gây thành những phong trào tiên phong sau nầy về các địa hạt: báo chí, dịch truyện tàu, viết tiểu thuyết và ngay cả phong trào thơ mới cũng bắt đầu từ miền đất Nam Kỳ nầy.
Huỳnh Ái Tông
Memoiry Day 2000

*
  1. Chữ Nôm là mượn âm Hán Việt để ghi âm tiếng Việt.
  2. Christofora Borri đến Ðàng Trong năm 1618, ông theo Linh mục Buzomi và Pina đến lập cơ sở ở Nước Mặn, ông rời Ðàng Trong năm 1621 về Áo Môn, rồi sau đó về Âu Châu.
  3. Borri, Relation della nuova missione delli PP. della Compania di Giesu, al regno della Cocincina, scritta dal Padre Christoforo Borri, Milanese della medesima Compania, Roma, 1631 ( Sự liên hệ về giáo đoàn mới của các linh mục Dòng Tên, ghi bởi linh mục Christoforo Borri người Milan thuộc giáo đoàn nầy).
  4. Võ Long Tê, Lịch sử Văn học công giáo Việt Nam, Tư Duy, Sàigòn 1965 trang 192-193.
  5. Ðỗ Quang Chính Lịch Sử Chữ Quốc Ngữ 1620-1659, Ra Khơi, Sàigòn 1972, trang 92-98.
  6. Sách Lịch Sử Chữ Quốc Ngữ 1620-1659 đã dẫn trên, trang 100-107
  7. Bento Thiện gọi là 2 vở, đó là 2 tập vở. Xưa kia chuyển vận Âu- Á bằng đường thủy, có lẻ sợ bị nạn đắm tàu, nên sao thêm 1 tập, để gửi 2 chuyến tàu khác nhau, cho nên tuy 2 nhưng chúng chỉ là một, ngày nay cả 2 tập vở ấy, tồn trử tại Văn Khố Dòng Tên ở La Mã.
  8. Sách Lịch Sử Chữ Quốc Ngữ 1620-1659 đã dẫn trên, trang 108-109 và phụ lục.
  9. Chữ Nhu là âm Hán Việt, âm Nôm đọc là Nho, chỉ cho chữ Hán
http://www.advite.com/nguongocchuquocngu.htm

Nhân kỷ niệm 85 năm bãi bỏ chữ Nho (1919) và 80 năm (1924) quyết định đưa chữ Quốc ngữ vào dạy tại cấp tiểu học Việt Nam
___

Sự ra đời của chữ quốcngữ -
Cái chết siêu việt của ông Nguyễn Văn Vĩnh
 


Alexandre de Rhodes
(1591 - 1660)


Nguyễn Văn Vĩnh
(1882 - 1936)
 
 
            Chữ Hán từng được dùng ở Việt Nam trong vòng một ngàn năm mãi đến tận đầu thế kỷ thứ 20. Alexandre de Rhodes (sinh năm 1591 tại Avignon, Pháp; mất năm 1660 tại Ispahan, Ba Tư) đã sang Việt Nam truyền đạo trong vòng sáu năm (1624 -1630). Ông là người có công rất lớn trong việc La-mã hoá tiếng Việt (nhiều tác giả gọi là La-tinh hóa. Thực ra mẫu tựchữ cái tiếng Việt hiện nay là mẫu tự chữ Roman chứ không phải là chữ La-tinh). Kế tục công trình của những người đi trước là các tu sĩ Jesuit (dòng Tên) người Bồ Đào Nha như Francisco de Pina, Gaspar dAmaral, Antonio Barbosa, v.v. trong việc La-mã hóa tiếng Việt, Alexandre de Rhodes đã xuất bản “Bài giảng giáo lý Tám ngày đầu tiên bằng tiếng Việt và cuốn từ điển Việt - La - Bồ đầu tiên vào năm 1651 tại Rome. Hệ thống chữ viết tiếng Việt dùng chữ cái La-mã này được chúng ta ngày nay gọi là chữ quốc ngữ (chữ viết của quốc gia).
            Nguyễn Văn Vĩnh sinh năm 1882 tại Hà Nội – cái năm thành Hà Nội thất thủ vào tay quân Pháp do đại tá Henri Rivière chỉ huy. Tổng đốc Hà Nội Hoàng Diệu thắt cổ tự vẫn. Gia đình Nguyễn Văn Vĩnh nghèo nên không có tiền cho con cái đi học. Lên tám tuổi, cậu Vĩnh đã phải đi làm để kiếm sống. Công việc của cậu lúc đó là làm thằng nhỏ kéo quạt để làm mát cho một lớp đào tạo thông ngôn do người Pháp mở ở đình Yên phụ - Hà Nội. Vừa kéo quạt, cậu vừa nghe lỏm bài giảng. Cậu ghi nhớ mọi thứ rất nhanh và còn trả lời được các câu hỏi của thày giáo trong khi các cậu con nhà giàu trong lớp còn đương lúng túng. Thầy giáo người Pháp thấy vậy bèn nói với ông hiệu trưởng giúp tiền cho cậu vào học chính thức. Năm 14 tuổi Nguyễn Văn Vĩnh đỗ đầu khóa học và trở thành một thông dịch viên xuất sắc. Sau đó ông được bổ làm trợ lý cho công sứ Pháp tỉnh Bắc Ninh.
            Năm 1906, lúc ông 24 tuổi, Nguyễn Văn Vĩnh được Pháp gửi sang dự triển lãm tại Marseilles. Tại đây, ông được tiếp cận với kỹ nghệ in ấn và báo chí. Ông còn là người Việt Nam đầu tiên gia nhập hội Nhân quyền Pháp.
            Trở về Việt Nam, Nguyễn Văn Vĩnh từ bỏ nghiệp quan chức và bắt đầu làm báo tự do. Năm 1907 ông mở nhà in đầu tiên ở Hà Nội và xuất bản tờ Đăng Cổ Tùng Báo - tờ báo đầu tiên bằng chữ quốc ngữ ở Bắc Kỳ. Năm 1913 ông xuất bản tờ Đông dương Tạp chí để dạy dân Việt viết văn bằng quốc ngữ. Ông là người đầu tiên dịch ra chữ quốc ngữ các tác phẩmcủa các đại văn hào Pháp như Balzac, Victor Hugo, Alexandre Dumas, La Fontaine, Molière, v.v. và cũng là ngườiđầu tiên dịch “Truyện Kiều sang tiếng Pháp. Bản dịch Kiều của ông Vĩnh rất đặc sắc vì ông không chỉ dịch cả câu mà còn dịch nghĩa từng chữ và kể rõ các tích cổ gắn với nghĩa đó - một điều chỉ có những ai am hiểu sâu sắc văn chương Việt Nam (bằng chữ Nôm), Trung Hoa (bằng chữ Nho), và Pháp mới có thể làm được. Sự cố gắng và sức làm việc phi thường của ông Vĩnh đã góp phần rất quan trọng trong việc truyền bá kiến thức và văn hoá phương Tây trong dân Việt, và đẩy xã hội Việt Nam đi đến chỗ dần dần chấp nhận chữ quốc ngữ. Năm 1915 vua Duy Tân ra chỉ dụ bãi bỏ các khoa thi (Hương - Hội  - Đình) ở Bắc Kỳ. Năm 1918 vua Khải Định ra chỉ dụ bãi bỏ các khoa thi này ở Trung Kỳ và đến năm 1919 bãi bỏ hoàn toàn các trường dạy chữ Nho, thay thế bằng hệ thống trường Pháp - Việt. Ngày 18 tháng 9 năm 1924, toàn quyền Đông Dương Merlin ký quyết định đưa chữ quốc ngữ vào dạy ở ba năm đầu cấp tiểu học. Như vậy là, sau gần ba thế kỷ kể từ khi cuốn từ điển Việt - La - Bồ của Alexandre de Rhodes ra đời, người Việt Nam mới thật sự đoạn tuyệt với chữ viết của Trung Hoa, chính thức chuyển sang dùng chữ quốc ngữ. Đây quả thực là một cuộc chuyển hóa vô cùng lớn lao, trong đó ông Nguyễn Văn Vĩnh đã vô hình chung đóng vai trò một nhà văn hóa lớn của dân tộc Việt Nam.
            Ông Nguyễn Văn Vĩnh, tuy nhiên, đã không thể kiếm sống bằng nghề báo của mình. Ông là người luôn lên tiếng phản đối chính sách hà khắc của Pháp đối với thuộc địa, là người Việt Nam đầu tiên và duy nhất đã hai lần từ chối huân chương Bắc đẩu bội tinh của chính phủ Pháp ban tặng, và cũng là người đã cùng với bốn người Pháp viết đơn gửi chính quyền Đông Dương phản đối việc bắt giữ cụ Phan Chu Trinh. Vì thế chính quyền thuộc địa của Pháp ở Đông Dương chẳng ưa gì ông.Tòa báo của ông vỡ nợ. Gia sản của ông bị tịch biên. Ông bỏ đi đào vàng ở Lào và mất ở đó năm 1936 vì sốt rét. Người ta tìm thấy xác ông nằm trong một chiếc thuyền độc mộc trên một dòng sông ở Sepole. Trong tay ông lúc đó vẫn còn nắm chặt một cây bút và một quyển sổ ghi chép: Ông đang viết dở thiên ký sự bằng tiếng Pháp “Một tháng với những người tìm vàng”. Khi đoàn tàu chở chiếc quan tài mang thi hài ông Vĩnh về đến ga Hàng Cỏ, hàng ngàn người dân Hà Nội đứng chờ trong một sự yên lặng vô cùng trang nghiêm trước quảng trường nhà ga để đưa tiễn ông - con người bằng tài năng và sức lao động không biết mệt mỏi của mình đã góp phần làm cho chữ quốc ngữ trở thành chữ viết của toàn dân Việt.  Tháng 9 năm 1945, trong lời kêu gọi toàn dân chống thất học chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Là một người Việt Nam, phải đọc thông, viết thạo chữ Quốc ngữ".
            Tôi đã vẽ bức tranh “Sự ra đời của chữ quốc ngữ- Cái chết siêu việt của ông Nguyễn Văn Vĩnh” với lòng ngưỡng mộ sâu sắc đối với hai vĩ nhân nói trên của dân tộc Việt Nam - Alexandre de Rhodes và Nguyễn Văn Vĩnh.
 
            Lời cảm ơn:
            Tác giả bài viết này biết ơn thân sinh của mình - nhà giáo Nguyễn Đình Nam, người đầu tiên kể cho tác giả về cuộc đời và sự nghiệp của cụ Nguyễn Văn Vĩnh từ khi tác giả còn là học sinh tiểu học, khi sách giáo khoa chính thống còn gọi Alexandre Rhodes là gián điệp còn Nguyễn Văn Vĩnh là bồi bút của Pháp. Tác giả xin chân thành cảm ơn ông Nguyễn Kỳ - con trai cụ Nguyễn Văn Vĩnh, và ông Nguyên Lân Bình - cháu nội cụ Nguyễn Văn Vĩnh vì những câu chuyện xúc động về cuộc sống và sự nghiệp của cụ Nguyễn Văn Vĩnh cũng như của gia tộc cụ. Tác giả xin cảm ơn thày Trí - cháu ngoại cụ Nguyễn Văn Vĩnh đồng thời từng là thày dạy toán của tác giả khi tác giả là học sinh trung học.
 
Tokyo, 10/11/2004
 
 

Một số bài báo về Alexandre de Rodes and Nguyễn Văn Vĩnh:
Hoàng Tiến, “Dịch giả Nguyễn Văn Vĩnh - chiếc cầu nối văn hóa Đông Tây”
Jacques Roland, “Phải chăng cần viết lại lịch sử”
Nguyễn Đình Đăng, "Tôi đã vẽ bức tranh 'Sự ra đời của chữ Quốc ngữ (Cái chết siêu việt của ông Nguyễn Văn Vĩnh)' như thế nào?"

http://ribf.riken.go.jp/~dang/NVanVinh/quocngu.html
 

Vấn đề chữ viết nhìn từ góc độ lịch sử tiếng Việt

• Trần Trí Dõi

2. Chữ Quốc ngữ trong lịch sử tiếng Việt

Trong lịch sử tiếng Việt, cách gọi "Quốc ngữ" được dùng để chỉ hai loại văn tự khác nhau của người Việt. Ban đầu khi chữ Nôm xuất hiện, tên gọi "Quốc ngữ" cũng được người ta dùng để chỉ chữ Nôm. Cách gọi này cùng song hành với một tên gọi khác là "Quốc âm" (như Quốc âm thi tập ("Tập thơ bằng quốc âm") của Nguyễn Trãi chẳng hạn), dùng để phân biệt với loại văn tự khác không phải là "Quốc ngữ" hay "Quốc âm" thời bấy giờ. Cách gọi có ý nghĩa như vừa nói ở trên còn có ý phân biệt chữ Nôm là thứ chữ của "tiếng nói nước mình", khác với một loại chữ "không phải của nước mình" và về sau không còn được tiếp tục duy trì nữa. Hiện nay, cách gọi "Quốc ngữ" được sử dụng để chỉ loại văn tự dùng con chữ Latin để ghi âm tiếng Việt. Hiện giờ chúng tôi chưa gặp một tài liệu nào cho biết cách gọi "Quốc ngữ" để chỉ loại văn tự dùng con chữ Latin có từ bao giờ và khi nào thì người ta không còn dùng tên gọi "Quốc ngữ" để chỉ chữ Nôm nữa. Như vậy, chữ Quốc ngữ trong lịch sử tiếng Việt mà chúng tôi trình bày ở đây chỉ có nghĩa là loại văn tự dùng con chữ Latin để ghi âm tiếng Việt như chúng ta đang dùng.
Như mọi người đều biết, hiện nay có khá nhiều công trình khảo cứu chi tiết về chữ Quốc ngữ ở nhiều khía cạnh, cả của nhà ngôn ngữ học lẫn nhà văn hoá học[1]. Những khảo cứu của họ đã giúp bạn đọc có thể tìm hiểu sâu vào lĩnh vực này. Vì thế ở góc độ lịch sử tiếng Việt, để tránh những sự dài dòng không cần thiết, chúng tôi chỉ xin đề cập đến tính lịch sử của chữ Quốc ngữ, tức là trình bày những suy nghĩ của mình về sự xuất hiện và quá trình hoàn thiện của loại văn tự này và giá trị sử dụng nó sau khi ngôn ngữ đã có một quá trình biến đổi lâu dài. Nói một cách khác, chúng tôi chỉ xin bước đầu đề cập đến vấn đề đang quan tâm trên cơ sở những chú ý ở khía cạnh lịch sử tiếng Việt mà không đặt nhiệm vụ trình bày toàn cảnh vấn đề về chữ quốc ngữ.

2.1. Những điểm mốc đáng chú ý của chữ quốc ngữ trong lịch sử tiếng Việt

Đã từng có rất nhiều ý kiến cho biết rằng một trong những người đầu tiên có công xây dựng chữ viết Latin cho tiếng Việt là A. de Rhodes. Nhưng điều này không đơn thuần có nghĩa ông mới là người đầu tiên duy nhất sáng tạo ra loại chữ viết ấy. Chúng tôi nghĩ rằng cách nói sau đây của giáo sư Dương Quảng Hàm và nhiều nhà nghiên cứu khác sau này là một sự xác nhận có lí hơn cả: “Việc sáng tác ra chữ quốc ngữ chắc là một công cuộc chung của nhiều người, trong đó có cả giáo sĩ Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Pháp Lan Tây. Nhưng người có công nhất trong việc ấy là cố Alexandre de Rhodes vì chính ông là người đầu tiên đem in những sách bằng chữ quốc ngữ, thứ nhất là một cuốn tự điển khiến cho người sau có tài liệu mà học và nghiên cứu”[3]. Như vậy, có thể nói rằng sự sáng tạo ra chữ quốc ngữ chắc chắn phải là một quá trình và cùng với quá trình ấy là sự tham gia của nhiều người. Nhưng chính nhờ sự in ấn các công trình của mình mà cha cố Alexandre de Rhodes đã đánh dấu lần đầu tiên chữ quốc ngữ xuất hiện như một loại văn tự đích thực của tiếng Việt. Nói một cách khoa học, người ta chỉ có quyền lấy thời gian xuất hiện công trình của ông làm điểm mốc để ghi nhận sự xuất hiên một kiểu văn tự mới của tiếng Việt – đó là chữ quốc ngữ. Bởi vì chỉ làm như vậy chúng ta mới có đủ bằng chứng để khẳng định điều đó. Ở đây, rõ ràng công lao cho ra đời các công trình của mình đã làm cho cố Alexandre de Rhodes có vai trò quan trọng nhất của hiện tượng văn tự này.
Tuy nhiên, dạng chữ quốc ngữ mà ngày nay chúng ta sử dụng so với dạng chữ quốc ngữ có từ thời A. de Rhodes đã có nhiều thay đổi. Mặc dù đều dùng con chữ la tinh để ghi âm nhưng trong nội bộ chúng đã có sự sắp xếp lại theo hướng hoàn chỉnh. Chẳng hạn, chúng tôi xin nêu một ví dụ để chúng ta ghi nhận điều dó: vào giữa thế kỉ XVII đã có những con chữ phụ âm mà ngày nay ghi bằng chữ cái "tr"; những con chữ này vốn được ghi bằng chữ cái "tl" hay "bl thời A. de Rhodes. Ví dụ:
con tlâu (con trâu), cá tlích (cá trích), tlêu ngươi (trêu ngươi)...
blái núi (trái núi), blát nhà (trát nhà), blan blở (trăn trở)...
Nhìn nhận vấn đề này, các nhà nghiên cứu lịch sử chữ quốc ngữ đã chỉ ra rằng người có công lập nên hệ thống dạng kí tự như ngày nay nó được sử dụng là Pierre Pigneaux de Béhaine (Bá Đa Lộc Bỉ Nhu). Đây là tác giả đã soạn thảo bộ từ điển "Tự vị Annam–Latin" từ tháng 09 năm 1772 đến tháng 06 năm 1773, làm cơ sở cho những cuốn từ điển tiếng Việt như "Nam Việt dương hiệp tự vị" (1838) của Taberd hay từ điển "Quấc âm tự vị" của Huình Tịnh Của (1895) và "Tự vị Việt Pháp" của Génibrel (1898) sau này. Nhận định về chữ quốc ngữ trong từ điển của Pigneaux de Béhaine, Nguyễn Khắc Xuyên viết rằng: “Từ điển Việt La hay Từ điển Annam–Latin (1772–1773) đánh dấu một giai đoạn chính yếu trong việc hình thành chữ quốc ngữ, kể từ những năm đầu thế kỉ 17 (1615–1621) cho tới 1651 với tác phẩm quan trọng của A. de Rhodes. Với Bỉ Nhu, đã hoàn chỉnh lối viết chữ quốc ngữ như chúng ta có ngày nay, trừ một vài chi tiết không đáng kể”[3]. Nhận định của Nguyễn Khắc Xuyên cho thấy, theo cách nhìn nhận của ông, A. de Rhodes chính là dấu ấn đầu tiên ghi nhận sự xuất hiện chữ quốc ngữ, còn P. de Béhaine là điểm mốc ghi nhận sự hoàn thiện của loại văn tự này như ngày nay chúng ta sử dụng. Về cơ bản, chúng tôi nghĩ rằng nhận định nói trên là một nhận định có nhiều điều hợp lí và về sau có nhiều người cùng chia sẻ, phù hợp với bản chất của hiện tượng văn tự này.
Nói về sự xuất hiện và hoàn thiện chữ quốc ngữ, rõ ràng, chúng ta đều nhất trí ghi nhận vai trò quan trọng của những người như A. de Rhodes, P. de Béhaine v.v... Nhưng chúng tôi muốn xin nhấn mạnh rằng, trong số những người quan trọng ấy, cộng đồng giáo dân người Việt Nam thời bấy giờ sẽ có một vai trò đặc biệt quan trọng. Người ta có rất nhiều lí do để có thể giành cho họ một nhận xét như vậy. Thứ nhất, ở bình diện lí thuyết chúng ta đều nhận biết rằng một sự kiện ngôn ngữ bao giờ cũng là kết quả của một hoạt động có tính xã hội, do đó sự xuất hiện của chữ quốc ngữ chắc chắn sẽ là thành quả của cộng đồng sử dụng ngôn ngữ, mà ở đây là cộng đồng người sử dụng tiếng Việt. Thứ hai, đi vào chi tiết cộng đồng giáo dân người Việt Nam thời bấy giờ sẽ là những người chủ yếu "cung cấp tư liệu tiếng Việt" để cho những người như A. de Rhodes, P. de Béhaine,... xử lí khi xây dựng và hoàn thiện chữ quốc ngữ. Thêm vào đó, cũng chính cộng đồng này là lực lượng duy nhất trong một thời gian khá dài sử dụng thành quả của các nhà xây dựng và hoàn thiện chữ quốc ngữ, do đó chính họ là những người "thẩm định" và bổ túc cho sự hoàn thiện như chúng ta có ngày nay. Mặc dù tên tuổi cụ thể của những giáo dân Việt Nam không được ghi chép một cách rõ ràng, nhưng với những lí do như vừa phân tích ở trên, chúng ta có quyền nói rằng họ đã có vai trò quan trọng trong sự kiện ngôn ngữ quan trọng này của dân tộc Việt Nam.
Chữ quốc ngữ ra đời, ngoài những lí do xã hội như vừa sơ bộ phân tích ở trên, còn có một lí do nội tại trong bản thân ngôn ngữ. Đó là tiếng Việt của người Việt lúc bấy giờ đã phải có tính thống nhất khá cao, đặc biệt ở bình diện ngữ âm. Chính tính thống nhất này cho phép cư dân của những vùng khác nhau sử dụng cùng một dạng văn tự ghi âm mà không gặp phải một khó khăn nào trong giao tiếp. Chúng ta có thể hình dung rằng chữ viết ghi âm bao giờ cũng phản ánh âm thanh lời nói của một vùng cụ thể xác định. Khi mà những vùng khác nhau không khó khăn trong việc sử dụng văn tự có dạng ngữ âm của một vùng cụ thể xác định ấy thì điều đó có nghĩa là tính thống nhất giữa các phương ngữ hay thổ ngữ là đặc trưng nổi trội của nó. Đối với trừng hợp chữ quốc ngữ, con chữ được dùng trong từ điển của P. de Béhaine xuất phát từ dạng ngữ âm tiếng Việt miền nam (như ông nói) nhưng giá trị của chúng, về cơ bản, là chung cho cả tiếng Việt trong Nam ngoài Bắc. Và tính thống nhất ấy dường như còn giữ nguyên cho đến ngày nay. Như vậy, sự ra đời và hoàn thiện chữ quốc ngữ bên cạnh những nỗ lực của những người thực hiện như A. de Rhodes, P. de Béhaine,... bên cạnh vai trò cực kì quan trọng của cộng đồng cư dân công giáo là những người sử dụng ngôn ngữ còn phải tính đến ưu thế phát triển thống nhất trong nội tại tiếng Việt. Có thể thấy, sự ra đời và hoàn thiện chữ quốc ngữ như dạng thức ngày hôm nay là sự tác động tổng hoà của những yếu tố khác nhau mà không thể thiếu đi một yếu tố nào trong những yếu tố đó.

Theo Trần Trí Dõi (2005). Giáo trình lịch sử tiếng Việt (sơ thảo). Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005.
[1] Xin xem các tài liệu Hoàng Tiến (1994); Hoàng Tuệ (1994); Jacques, R. (1996); Lí Toàn Thắng (1996) trong trang Một số tài liệu tham khảo về lịch sử tiếng Việt.
[2] Dương Quảng Hàm (1943). Việt Nam văn học sử yếu. Nxb Hội Nhà văn, 1996, trang 178.
[3] Béhaine, P. de (1773). Từ vị Annam Latinh. Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên dịch và giới thiệu, thành phố Hồ Chí Minh, 1999, trang 75.

http://ngonngu.net/index.php?m=print&p=99

CHỮ QUỐC NGỮ QUA NHỮNG BIỂN DÂU
 
Đoàn Xuân Kiên
(Chủ nhiệm trang mạng thongluan.org)
 
 
 
1.    Chữ viết ra đời rất muộn màng so với tiếng nói của một dân tộc.  Con người đã truyền thông với nhau bằng tiếng nói từ khi họ kết tập với nhau thành những tập đoàn chung sống.  Nhưng chỉ là từ khi một thứ tiếng nói đã được sử dụng thật thuần thục, sản sinh ra nhu cầu ghi lại những ý tưởng lời nói của mình, khi ấy chữ viết mới thật sự ra đời.  Thật ra, khó có thể nói là chữ viết đã ra đời “nhất thành bất biến“ như chúng ta thấy ngày nay.  Lịch sử chữ viết đã trải qua bao phen biến đổi, từ hình thức thắt nút dây như đã đượcghi nhận trong một câu ở Kinh Dịch: “Thượng cổ kết thằng nhi trị…” đến sâu chuỗi vỏ sò có màu sắc khác nhau như người da đỏ Iroquois, đều là những hình thức kí hiệu để ghi lại ý tưởng người xưa muốn truyền đạt cho nhau, hoặc đơn giản là để ghi dấu lại cho nhớ.  Những hình thức đó đều là những dạng mở đầu do con người mò mẫm mà có được.  Những hình thức chữ viết bằng đồ vật như vừa nói ở trên là những gì sơ khai nhất của chữ viết (hình 1).  Tiến lên một bước nữa là hình thức chữ viết bằng hình vẽ mà ta còn có thể thấy trong các văn bản cổ trên đá của người cổ Ai cập từ hơn 4000 năm trước, hoặc là những vẽ trên đồ vật bằng đất nung của người Sumer cũng khoảng thời kì hơn 3000 năm trước (hình 2).
 
 
Hình 1: chữ viết kết bằng dây thừng của người Chăm (trong khu vực văn hoá Đông sơn) [1]
 
Hình 2: Chữ viết bằng hình vẽ của người Ai Cập cổ
Hình thức chữ viết biểu ý như còn thấy ở một số chữ Hán đơn giản ban đầu vạch trên các mai rùa đã có thể gọi là một bước tiến của lịch sử chữ viết (hình 3). 
  tượng           sơn             kì             bì             nữ
Hình 3: chữ hán sơ khai tìm thấy trên mai rùa
 
Hình thức phát triển cao nhất của chữ viết là hình thức ghi âm  mà dấu vết buổi ban đầu bộ chữ viết của người Phoenician (hình 4).
Hình 4: một vài chữ cái của người Phoenician (thế kỉ 11 tcn)
 
Chữ viết ra đời đã góp phần rất lớn vào việc phát triển ngôn ngữ con người, tạo ra một bước nhảy vọt quan trọng: ghi lại tiếng nói để lưu giữ hoặc truyền đạt trong không gian rộng hơn tầm hạn của tiếng nói.  Nhưng giữa tiếng nói chữ viết,không bao giờ có thể tách lìa hoặc thủ tiêu một yếu tố nào: không thể có chữ viết nếu không tồn tại một tiếng nói trước đó.  Tương quan giữa tiếng nói và chữ viết như vậy là tương quan trước-sau.  Và chữ viết chỉ có thể xem là những kí hiệu như bao nhiêu hệ thống kí hiệu khác do con người chế tác để biểu đạt như mộtthứ nội dung nào đó.
 
CHỮ VIẾT CỦA NGƯỜI VIỆT
 
2.      Chữ viết của người Việt ra đời từ bao giờ là một câu hỏi chưa dễ dàng có được câu trả lời rõ ràng.  Chỉ biết rằng, trên các đồ vật bằng đá và bằng đồng của thời kì văn minh Đông Sơn của dân tộc Lạc Việt, có những dấu hiệu cho phép ta đặt giả thuyết về dạng chữ viết cổ xưa của dân tộc trước khi bị bọn xâm lược nhà Hán thủ tiêu trong mưu đồ đồng hoá dân tộc Lạc Việt.  Hệ thống chữ viết của người Việt nay đã qua nhiều phen thay đổi do những đẩy đưa của lịch sử.  Khi bị Hán tộc thống trị hơn nghìn năm, người Việt đã trải qua một cuộc giao lưu văn hoá lớn, mà một trong số những thành tựu văn hoá mới chính là bộ chữ viết mới được hình thành: chữ nôm.  Chữ nôm là một thể hiện ý chí sống còn của tinh thần dân tộc về mặt ngôn ngữ văn tự; dùng chính những nét viết của chữ Hán để ghi lại tiếng nói của dân tộc, nhà nho Đại Việt đã dõng dạc nói lên ý chí  của giống nòi, quyết đạp bằng những nghiệt ngã của số phận nô lệ để vươn lên độc lập.  Những tấm bia cổ xưa từ đời các vua nhà Lí còn cho thấy những tên gọi các làng xóm hoặc tên người rất “nôm na”, không thể không có nhu cầu ghi lại bằng một kiểu chữ viết riêng trong khi mà chữ viết xưa cũ đã tiêu trầm sau hơn nghìn năm ngoại thuộc. 
Đến khi người Pháp sang xâm chiếm nước ta, việc làm đầu tiên của nhà nước thuộc địa là huỷ bỏ vị thế của hệ thống giáo dục bằng chữ hán, để thay thế bằng "chữ quốc ngữ", một hệ thống chữ viết mượn của bộ chữ cái tiếng Latin.  "Chữ quốc ngữ" cũng như "chữ nôm" trước đó, chỉ là những hệ thống chữ viết vay mượn của kẻ mạnh để làm thành công cụ văn hoá dân tộc của một thời kì mà ý thức độc lập tự chủ đã bị trói chặt.  Dù là mượn nét viết của chữ Hán hay của bộ chữ cái Latin, các hệ thống chữ viết của ta đều có một điểm giống nhau là: Chữ Nôm hay Chữ Quốc Ngữ đều là hệ thống chữ viết ghi âm, tức là dạng chữ viết ở mức phát triển cao nhất trong lịch sử chữ viết loài người.  Nguyên tắc của loại chữ viết kí âm là “mỗi âm một kí hiệu”, “nói sao viết vậy”.  Tiếng Việt thời Nguyễn Trãi có những phụ âm đôi mà hiện nay một số dân tộc thuộc chủng Nam Á cư ngụ trên tây nguyên hãy còn nói, như bl, tl, kl, thì chữ nôm cũng đã ghi lại trung thực những âm đó:
 
Cũng thế, khi Chữ Quốc Ngữ được các nhà truyền đạo soạn ra vào đầu thế kỉ XVII, tiếng Việt còn một số cách phát âm mà nay không còn nữa, như trường hợp chữ " ß " trong từ điển Việt-Bồ-La của A. de Rhodes (1651), đọc nửa như [b] nửa như [v].  Một trường hợp khác:  sự khác biệt giữa hai âm [gi] và [d] đã được xác định rõ ràng và khi viết một từ như giản dị chẳng hạn, không thể tuỳ tiện như một số người bây giờ, dù rằng ngày nay người Bắc nói hai tiếng cũng có âm / z /, khi viết ra chữ thì đều là [d] thật đấy.
 
CHỮ QUỐC NGỮ
 
Tên gọi hệ thống chữ viết tiếng Việt hiện nay là do các nhà truyền giáo phương tây đặt ra từ thế kỉ XVII. "Chữ quốc ngữ" nghĩa đen là "chữ viết của tiếng nói nước ta". Cách gọi này không chính xác, vì như đã nói, chữ nôm cũng là thứ chữ để ghi tiếng nói nước ta, có đâu chỉ riêng hệ thống chữ viết Latin?  Chẳng qua đó chỉ là thủ thuật vận động quần chúng của các vị thừa sai nhằm triệt hạ uy tín cũng như địa vị của chữ hán, chữ nôm lúc bấy giờ (thế kỉ XVII).
Chữ Quốc Ngữ được chế tác từ năm nào, đến nay vẫn chưa rõ.  Chỉ biết rằng, năm 1593 đã có một giáo sĩ Portugal là Diego Aduarte đến đất Quảng nam và ở đây ba năm.  Năm 1615, một giáo sĩ người Ý là Busomi đến cửa Hàn (Quảng nam) giảng đạo mãi đến năm 1639. Rất nhiều tài liệu viết tay hiện còn lưu trữ trong các thư viện giáo hội Thiên Chúa ở Portugal, Pháp, và Vatican. Những mảng tài liệu tìm được cho đến nay đã bước đầu cho thấy là Chữ Quốc Ngữ đã manh nha từ những năm đầu thế kỉ XVII, qua một vài tiếng Việt xuất hiện rải rác trong các bản tường trình hàng năm của của Tỉnh Dòng Tên Nhật Bản do một linh mục Portugal tên là João Rioz soạn vào khoảng năm 1621. Tiếng Việt được ghi trong những văn kiện tiếng Bồ này đều không có dấu giọng và cách ghi âm chỉ tương đối: Annam (An nam), Sinoa  (Xứ Hoá/Huế), Unsai (Ông sãi), Cacham (Cả chăm), Ungue (Ông nghè), Ontrũ (Ông trùm)… [2]
Cũng khoảng thời gian này, một vị thừa sai trẻ tuổi người Portugal là Francsisco de Pina đến giảng đạo ở Hội An năm 1623. Tại đây, vị giáo sĩ này đã học tiếng Việt, và chẳng bao lâu là có thể giảng đạo bằng tiếng Việt. Vị thừa sai dòng Tên này đã mở đầu cho thời kì kiện toàn lối viết tiếng Việt bằng chữ cái Latin.
Vào đầu năm 1625 thì giáo sĩ Alexandre de Rhodes đến Hội An giảng đạo. Vị thừa sai dòng Tên người Pháp này cùng vị giáo sĩ Ý khác là Christoforo Borri đến đất Việt năm 1618 trước đó đều là những học giả, nhất là A. de Rhodes, chăm chỉ học tiếng Việt trong vòng mấy tháng là đã “giảng đạo cho người trong xứ bằng tiếng của họ được” [3] Đấy là những yếu tố con người và hoàn cảnh cần cho sự ra đời một hệ thống chữ viết tiện lợi cho việc soạn sách truyền đạo.
Ròng rã hơn 30 năm liền, chữ Quốc ngữ đã được hoàn chỉnh dần, qua những công phu của những nhà truyền giáo Portugal như cố Pina. Đến khi A. de Rhodes xuất bản cuốn từ điển Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum (Rome, 1651) thì chữ quốc ngữ đã có dạng hoàn chỉnh, nhờ nó tập đại thành những thành công trước của những giáo sĩ thuộc nhiều giáo đoàn, nhiều gốc gác khác nhau: có người Ý, có người Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, có người Pháp.  Mỗi người sẽ dựa theo bản sắc tiếng nói của họ mà ghi âm tiếng Việt.  Những ưu điểm và khuyết điểm của chữ quốc ngữ là tuỳ ở điểm này.  Đây là điều cần xét đến mỗi khi chúng ta muốn có ý kiến, hoặc là phê bình một kiểu ghi âm nào mà ta cho là “khác thường”. Chữ viết là những bình đựng tiếng nói, vậy thì giá trị của những cái bình là ở chỗ nó có chuyên trở được tiếng nói một cách rõ ràng chính xác hay không.
Hình 5: một trang từ điển Việt-Bồ-La của A. de  Rhodes (1651)
 
Một quyển lịch sử Việt nam do thầy giảng Bento Thiện soạn bằng chữ quốc ngữ năm 1659 đã chứng tỏ sự trưởng thành vượt bực của hệ thống chữ viết Latin trong việc ghi âm tiếng Việt.  Chữ viết đã triệt để theo qui tắc ghi âm, nghĩa là nói sao viết vậy, mỗi kí hiệu chỉ một âm thanh.  Cách viết chữ quốc ngữ của Bento Thiện cũng theo phương pháp trong từ điển A.de Rhodes, nghĩa là theo phương pháp ghi âm của Portugal khi viết "ng" thành / ũ/; phiên âm kiểu Ý khi viết  "gi", "qu"; phiên âm kiểu Pháp khi viết "k" trước nguyên âm "e,ê,i", và "c" trước các nguyên âm khác… Đó là một ưu điểm nếu nhìn về vẻ đa diện của chữ quốc ngữ về mặt cấu tạo.
            Ngày nay, đọc lại sách của A.de Rhodes để đối chiếu với những sách ra đời sau này,sẽ nhận thấy những thay đổi về cách viết của chữ quốc ngữ. Một thí dụ: từ điển A. de Rhodes (1651) có hai từ ghi như sau: blời (trời), tloũ (trông); đến từ điển Dictionarium Anamitico Latinum do Pigneau de Béhaine soạn (1773) đã không thấy những âm đôi "bl" "tl" nữa, cũng không còn phụ âm cuối "ũ". Hai từ này đã viết như chúng ta ngày nay, nghĩa là trời trông.  Các từ điển về sau này, tính từ  Dictionarium Anamitico Latinum của Taberd (Serampore, 1838) đã kiện toàn thêm những hình thức viết cho chữ quốc ngữ.  Mặc dù chữ quốc ngữ đã dần dần ổn định về cách viết, vẫn có
 
Hình 6: một trang tự vị Dictionarium Abamitico Latinum  của Pigneau de Béhaine (1773)
 
những thay đổi nhỏ nhặt, có khi ý thức, có khi vô tình.  Chữ quốc ngữ đã không bao giờ “nhất thành bất biến” cả.
 
TRÊN ĐƯỜNG TRƯỞNG THÀNH
 
Đến đầu thế kỉ XX, một học giả Pháp khi nhắc lại công trình của A. de. Rhodes, không tiếc lời ca tụng: “Quyển từ vị ấy vẫn là nền tảng cho các công trình sau này mà chỉ thường là bổ túc cho nó, cũng có khi làm hỏng nó.  Những người biết đi tìm những hiểu biết tinh tường về ngữ âm học ở sách, cùng là sự tài tình của cách phân chuyển tiếng Việt mà đến nay đã có thể thách đố mọi sự công kích.” [4].
Lời tán tụng quả là đã đến mức tột đỉnh.  Nhưng rồi cũng chính một học giả của Viện Bác cổ ấy, trong một bài khảo cứu về tiếng Mường ở Sơn tây, nhân tiện đã nhận định về từ điển A.de. Rhodes như sau: “Phương pháp ấy (de Rhodes) thực thế chứa nhiều cái bất thường mà trong một cuộc nghiên cứu ngôn ngữ như thế này sẽ có nguy hại là làm sai lạc kết quả nghiên cứu mà thôi.  Vì vậy chúng tôi … phải loại bớt những cái bất thường và kì quái làm cho nó hợp lí.” [5]
Quả là thế, từ khi ra đời đến nay, chữ Quốc ngữ đã luôn luôn được tu chỉnh.  Bộ mặt của chữ viết từ từ điển de Rhodes (thế kỉ XVII) đến từ điển của Pigneau de Behaine (thế kỉ XVIII) đã khác biết là chừng nào.  Những khác biệt này có thể bắt nguồn từ chính tiếng nói thay đổi (như là hiện tượng đồng hoá / ß / vào / b / / v / sau thế kỉ XVII; vì vậy không thấy có các từ điển sau De Rhodes); nhưng cũng có những trường hợp do sự sửa đổi, khiến cho chữ viết mỗi ngày thêm thay đổi.  Vả chăng, chứng cứ hiển nhiên là cho đến nay, có ít ra là năm bảy lượt hô hào cải cách chữ quốc ngữ. 
 
Đề nghị sửa đổi chữ quốc ngữ năm 1902
 
Hội nghị Nghiên Cứu Viễn Đông 1902 tại Hà nội có một Uỷ ban Cải Cách Chữ Quốc Ngữ do ông Chéon đứng đầu.  Phúc trình của Uỷ ban đúc kết những ý kiến thảo luận trong ba ngày 6/12 -8/12 cho ta biết đại cương những đề nghị sửa đổi như sau:
(1)      Phải triệt để tôn trọng nguyên tắc:  mỗi chữ một giá trị kí âm thôi.  Vì vậy, hoặc phải bỏ chữ g trong gang hay trong gi bởi lẽ rằng hai chữ cái ở đầu phát âm khác nhau; cũng thế, kẻ phải cùng một cách viết chữ cái mở đầu;
(2)      Về các âm chính (nguyên âm), hệ thống hiện nay là thỏa đáng, trừ dấu mũ ở trên â có giá tri khác hẳn trong ôê, nên đề nghị thay chữ â bằng a’ (có râu bên cạnh) thì hơn. “Uỷ ban cũng nghĩ rằng phải bỏ hẳn thói quen mà vài tác giả vẫn có, trái với phương pháp của de Rhodes, là thay y vào i trong vài trường hợp (kỹ, lý, mỹ) mà không có một lí do nào chứng minh cho được…” 
(3)      Về các âm phụ, Uỷ ban đề nghị thay một số chữ cái sau đây: c thay cho ch.  (Chữ h dùng cho những trường hợp các âm thở, như th, kh).  Nhất loạt thay k vào chỗ của c.  Chữ d (bỏ gạch ngang) thay cho chữ đ. Âm /d/  hiện nay sẽ thay bằng chữ "z".  Chữ "g" không mất tính cách âm họng dù là trước nguyên âm e, ê, i, vậy thì không thể thêm "h" trong những trường hợp này.  Thay chữ "gi" bằng "j".  Chữ "q" không khác gì "k", vậy phải bỏ và thay bằng "k"…. [6]
Mặc dù được chuẩn y sau nhiều tranh luận gay gắt giữa hai phe chống đối nhau, bản đề nghị sửa đổi của Uỷ ban đã giao cho Viện Viễn Đông Bác Cổ tiếp tục nghiên cứu và thực hiện trên các trang in của viện.  Trong khi đó thì công chúng và nhà trường vẫn không hề biết gì về những đề nghị thay đổi kia.
 
Dự án cải tổ năm 1906
 
Đến năm 1906, vấn đề cải cách lại được đặt ra ở hội nghị của Hội Đồng Cải Lương Học Chánh do ông Nordemann làm chủ tịch.  Bản đề nghị của Hội Đồng lần này bị công luận đả kích kịch liệt vì nhiều lí do bên ngoài học thuật. Thế là dự án cải tổ 1906 vĩnh viễn bị chôn vùi. Linh mục Cadière có nhắc lại chuyện này như sau: “ Xét về mặt khoa học cũng như về mặt thực hành và sư phạm, dự án này thật là một cuộc thoái bộ.” [7]
 
"Quốc ngữ mới" của nguyễn Văn Vĩnh (1928)
 
Trên báo Trung Bắc Tân Văn, khoảng cuối năm 1928 nhà văn và cũng là nhà báo nổi tiếng thời bấy giờ, ông Nguyễn Văn Vĩnh, tung ra lối in chữ quốc ngữ mới, gọi là Quôcj Ngưw Moeij.  Việc đề xướng kiểu chữ mới này không nhằm mục đích ngôn ngữ như những lần trước, mà chỉ có tính vụ thực tế làm ăn của một ông nhà báo.  Chẳng là: ông chủ báo muốn cải cách công việc in báo của mình bằng một dàn máy in kiểu tân kì nhưng lại không có những con chữ Việt.  Thế là đổi sáu dấu gịong bằng con chữ cái, thay những chữ cái riêng của hệ thống chữ viết đang dùng nhưng không có trong bộ chữ của tây ( như là ă, đ, ư…) bằng một con chữ nào đó tuỳ tiện chứ không dựa trên sự chính xác về ngữ âm.
Dự định của Nguyễn Văn Vĩnh không thành, chỉ vì ông chỉ nghĩ đến ý đồ riêng tư chứ không dựa vào chính hệ thống chữ quốc ngữ nhìn từ khía cạnh học thuật. Theo chân ông, sau này còn có một số người khác, lại muốn sửa đổi chữ Quốc Ngữ theo ý đồ riêng và ý thích riêng của họ.  Đó là trường hợp Vi Huyền Đắc ( với công trình Việt tự), Phạm Xuân Thái (qua công trình Việt Ngữ Cải Cách).  Những “công trình” nói trên đều mua vui chốc lát cho giới học thuật, rồi tan vào lãng quên một cách không thương tiếc.
 
"Chữ và vần Việt khoa học" của Nguyễn Bạt Tuỵ (1949)
 
Là một người nghiên cứu ngữ âm học tiếng Việt, Nguyễn Bạt Tuy là một tác giả đã có nhiều cống hiến về mặt này.  Năm 1949, ông viết sách Chữ và Vần Việt Khoa Học, nội dung là trình bày những gì ông tìm tòi được về mặt âm vị học tiếng Việt, rồi qua đó đưa ra một bản đề nghị sửa đổi cách viết chữ quốc ngữ mà ông cho rằng hợp lí và khoa học.
Nguyên tắc chung của quan điểm Nguyễn Bạt Tuỵ là dựa trên nguyên tắc âm vị học để ghi âm tiếng Việt.  Ông phân tích hệ thống đơn vị âm thanh tiếng Việt và các lối tổ hợp âm thanh của nó.  Kết quả là tác giả phát hiện hệ thống các âm vị có nhiều nét khác với những gì xưa nay cứ yên trí là đúng đắn, nay cần phải sửa lại.  Từ đó sẽ phải dẫn đến một một việc chính yếu của sách là đưa ra một bản đề nghị thay đổi cách viết chữ quốc ngữ theo ông là chính xác theo nguyên tắc ngữ âm học (hình 5). Nhưng vì thế mà những đề nghị của ông Nguyễn chính xác quá, hoàn hảo quá nên không có thể thực hiện được trên thực tế được, vì chữ viết không phải là những kí hiệu ngữ âm theo kiểu một bản phiên âm quốc tế.
Hình 7: một đoạn viết chữ quốc ngữ theo Nguyễn Bạt Tuỵ (1949)
Đoạn thơ trên chính là:
"Chí làm trai dặm nghìn da ngựa,
Gieo Thái sơn nhẹ tựa hồng mao.
Giã nhà đeo bức chiến bào,
Thét roi cầu Vị ào ào gió thu."
 
Bản đề nghị của Nguyễn Bạt Tuỵ rất triệt để, vì hoàn toàn dựa trên nguyên tắc ghi âm, lại dựa ở trên một số phát kiến quan trọng và mới mẻ. Đó là nguyên nhân tại sao cho đến nay công chúng và các chính quyền tiếp nhau ở Việt Nam không thừa nhận nó. Lại nữa tác giả là người nhiệt tình đối với tiếng mẹ đẻ, nhiệt tình đến mức độ quá khích, thể hiện ở lối chế tác những thuật ngữ mới.  Nhưng vượt lên trên những quan điểm này, quan điểm của Nguyễn Bạt Tuỵ có rất nhiều giá trị tham khảo cho một công trình nghiên cứu ngữ âm tiếng Việt.
 
Hội nghị thống nhất ngôn ngữ (1956)
 
Đại Hội Văn Hoá Toàn Quốc tại Sài Gòn năm 1956 có một Uỷ Ban Ngôn Ngữ, cũng kiến nghị một chương trình sửa đổi một số cách viết về chữ Quốc ngữ.  Có nhiều nhà chuyên môn về ngôn ngữ tham gia soạn thảo dự án.  Nhưng rồi cũng không có gì thay đổi suốt bao nhiêu năm trời.  Chương trình giáo dục tiếng Việt ở miền Nam vẫn chỉ nhắc nhở suông vài câu rằng chính tả cần dựa theo Việt Nam Tự Điển do Hội Khai Trí Tiến Đức soạn (1931).
Nội dung của đề án cải tổ chữ quốc ngữ cũng chỉ xoay quanh những nét căn bản đã được khởi xướng từ bản đề nghị của Uỷ Ban Cải Cách năm 1902. Nhưng sở dĩ đề án của Uỷ Ban Ngôn Ngữ lần này vẫn rơi vào lãng quên là vì thiếu kế hoạch phối hợp giữa giới văn hoá và nhà trường.  Tất cả mọi sửa đổi chỉ có thể thực hiện được là qua báo chí và trường học.  Nhưng các nhà văn hóa lúc bấy giờ không tự tin lắm vào chương trình cải tổ của họ, cho nên vẽ ra trên giấy tờ để tự an ủi lương tâm. 
 
Hội nghị cải tiến chữ quốc ngữ (1959)
 
Tại Hà Nội, một hội nghị cải tiến chữ Quốc ngữ được tổ chức năm 1959 với dự định là đẩy mạnh việc cải tiến chữ quốc ngữ cho thêm phù hợp với thực trạng tiếng nói của chúng ta hiện nay, đồng thời sửa lại những chỗ không chính xác trong lối ghi âm hiện hành.  Thật ra, trong Đề Cương Văn Hoá (1943), Đảng Cộng Sản Đông Dương cũng đã đề ra mục tiêu cải cách chữ quốc ngữ và xem đó là “một việc phải làm”, “Một nhiệm vụ cần kíp”.  Các nhà khoa học ngôn ngữ miền Bắc lúc bấy giờ cũng chia sẻ với Ủy Ban 1902 về những cải tổ có ý nghĩa.  Nhưng rồi, cũng như Hội nghị 1956 ở Sài Gòn, mọi bàn cãi sôi nổi cũng lại ngủ yên trên giấy tờ, vì cho rằng “tình hình chưa thuận tiện”, nên nhiệm vụ cải tiến chữ quốc ngữ phải gác lại.
Như đã nói trên, nội dung của những kết luận Hội nghị 1959 cũng không đi xa hơn những đề nghị của Uûy Ban 1902, nghĩa là cũng dựa trên cơ sở ngữ âm học để thể hiện nguyên tắc “nói sao viết vậy” hay là "mỗi âm được ghi bằng một kí hiệu".
 
Uỷ ban điển chế văn tự (1973)
 
Bước vào những năm 1970, tại Sài Gòn có một cơ quan tên làHội Đồng Văn Hoá Giáo Dục được tổ chức ra làm công việc vạch hướng và cố vấn cho hoạt động khoa học của Bộ Văn Hoá Giáo Dục lúc bấy giờ.  Mục tiêu nhằm đến xem ra khá to tát. Về địa hạt ngôn ngữ, một Uỷ Ban Điển Chế Văn Tự được ra đời để làm công việc bị bỏ dở từ bao nhiêu năm: cải tiến chữ quốc ngữ.  Thật ra, uỷ ban có nhiệm vụ cụ thể lúc bấy giờ là điển chế danh từ khoa học mà thành tích nổi bật là sự ra đời một Nội San Danh Từ Chuyên Môn nhằm phổ biến những công trình soạn thảo danh từ các khoa học chuyên ngành.  Tiểu ban Chính Tả cũng đã bàn cãi về những nguyên tắc chính tả và sửa đổi cách viết. Ảnh hưởng của Uỷ ban này chưa có gì đáng kể trong công chúng, vì thời gian làm việc quá ngắn ngủi, lại chỉ quanh quẩn giữa một nhóm nhỏ các vị chuyên môn.
 
Sau 1975
 
Những dự toán cải tổ trước kia ở hai miền Nam, Bắc đều không có yếu tố thuận lợi về mặt công chúng.  Sau 1975, vai trò chuẩn hoá tiếng Việt, giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt được đặt ra toàn diện. Một hội nghị lớn bàn về vấn đề "chuẩn hoá" tiếng Việt liên tiếp được triệu tập trong những năm 1979. Theo đà làm việc đó, một số từ điển, chủ yếu là song ngữ, đã ra đời. Đã có cả một công trình Từ điển tiếng Việt do Viện Ngôn ngữ chủ biên.  Tiếng Việt trong hoàn cảnh thuận lợi nhiều mặt như thế tất yếu là phải phát triển, vì hội đủ những yếu tố cần thiết cho một cuộc vận động xã hội: tổ chức chỉ đạo, công chúng, các cơ quan chức năng trong xã hội. Thành hay bại giờ đây là tuỳ thuộc ở đảm lược của chính những con người.
Ở hải ngoại, chưa thể có những điều kiện thuận lợi như thế. Nhưng những nhu cầu của tập thể người Việt ở hải ngoại về mặt ngôn ngữ lại đòi hỏi sự quan tâm đúng mức của mọi người để công việc duy trì ngôn ngữ và văn hoá dân tộc có những nền móng ổn định và vững chắc.  Thế mà, không có được những tổ chức chuyên môn có thể góp phần vào công việc lớn lao này.  Đây là một thử thách lớn cho mọi người.
 
CHỮ QUỐC NGỮ NGÀY NAY
 
Nhìn lại chặng đường dài từ Hội nghị Nghiên cứu Viễn đông (1902) trở đi có thể thấy những dự án cải cách chữ quốc ngữ đã là một mối quan tâm của giới học thuật đối với những ưu khuyết điểm của hệ thống "chữ quốc ngữ". Trừ một vài nhà trí thức tây ở đầu thế kỉ, không ai nghi ngờ  gì về những ưu điểm của hệ thống chữ viết kí âm dựa theo bảng chữ cái Latin này. Nhưng nói thế không phải là hệ thống chữ viết này đã hoàn hảo, mà vì nó được tạo ra từ nhiều nguồn tri thức bản ngữ khác nhau nên chữ quốc ngữ đã có một số khuyết điểm tự thân cần phải khác phục để được nhất quán. Những cuộc vận động gọi là "cải cách" chữ quốc ngữ từ 1902 thật ra là chỉ giúp nó nhất quán với nó, chứ không phải là  để tìm một điều gì mới lạ đối với chính nó.
Tiếc thay, cho đến nay việc bàn cãi chỉ là giữa các nhà trí thức chuyên môn mà thôi. Không thấy một cố gắng nào từ phía nhà nước và công chúng, nhất là giữa nhà trường và hệ thống truyền thông. Một thí dụ điển hình: các tập Chương Trình Giáo Dục  (một văn kiện hướng dẫn việc dạy và học tại nhà trường phổ thông) hằng năm đều nhấn mạnh là chính tả cần dựa theo Việt Nam Tự Điển của Khai Trí Tiến Đức và Việt Ngữ Chánh Tả Tự Vị của Lê Ngọc Trụ. Nhưng trên thực tế chẳng có thầy giáo nào áp dụng nguyên tắc chính tả theo hai từ điển nói trên, vì thực tình là hai bộ từ điển trên không cùng theo một nguyên tắc chính tả, nên dù có muốn theo thì cũng chẳng biết theo ai. Nhà nước thì tắc trách như thế, bảo sao nhà trường và xã hội cứ làm ngơ!
Ngày nay, nhu cầu về lâu về dài của cộng đồng người Việt là làm sao duy trì ngôn ngữ và văn hóa dân tộc.  Từ đó đặt ra công việc dạy và học tiếng mẹ đẻ bên cạnh những công việc khác.  Dạy những gì và dạy ra sao, là những câu hỏi mà mỗi thầy giáo và mỗi bậc cha mẹ thường vẫn phải đặt ra để tự soi đường cho việc mình làm; vì đến nay hầu như chưa có nhiều công trình đầu tư suy nghĩ cho cái công việc nặng nhọc này.
Chỉ giới hạn trong phạm vi rất nhỏ hẹp thôi, là vấn đề dạy chữ quốc ngữ, cũng đã có nhiều việc phải bàn.  Chẳng hạn, khi cô giáo dạy trẻ rằng ă đọc là / á/.  Nhưng khi cô ghép vần với n /n/, cô đọc là /á – n à ăn/, cháu bé sẽ ngẩn ngơ, vì không hiểu sao không thấy dấu sắc / ’/ nữa.  Nó cứ đinh ninh là / á – n à án / chứ.  Trực giác của cô giáo và của cháu bé đều không sai, chỉ có quy ước của kí hiệu ở đây không chính xác.  Ví dụ khác nữa: các cháu được dạy ng đọc là /ngờ/ nên cứ yên trí là ngề ngiệp đúng chính tả, như ngọc ngà vậy thôi, vì cũng có âm  /ng/ ở đầu tiếng…
Những cái “yên trí” như vậy đều có trong mỗi đứa trẻ con trong mỗi người Việt ở mọi thế hệ.  Chúng ta đâu có lỗi! Chúng ta chỉ bị hệ thống chữ viết  và phương pháp dạy học không chuẩn xác “lỡm” chúng ta mà thôi, mà nguyên do chỉ là vì sự bất nhất trong nguyên tắc mà chính những người sáng chế ra chữ quốc ngữ đặt định từ mấy trăm năm trước: dùng chữ cái Latin để ghi các âm theo nguyên tắc mỗi âm một kí hiệu.  
Những vướng víu như thế sẽ dễ thông qua nếu ta vẫn còn hằng ngày hít thở ngôn ngữ của mình ở quê nhà.  Nhưng đối với trẻ con đang từng ngày bị lôi kéo xa khỏi cộng đồng ngôn ngữ dân tộc, những vướng víu như vậy sẽ nổi lên rất rõ, có thể đến mức gây thành ấn tượng không hay ho gì cho tiếng nói và ngôn ngữ dân tộc.  Trong trí trẻ luôn luôn có khuynh hướng đối chiếu ngôn ngữ khi nói và viết tiếng mẹ đẻ, vì chúng đã có một khuôn mẫu ngôn ngữ khác, khuôn mẫu ngôn ngữ ấn-âu cũng dùng hệ thống chữ cái Latin.
Tất cả những yếu tố tâm lí và xã hội ngôn ngữ học nói đến ở trên đều tác động vào việc học tiếng mẹ đẻ của trẻ Việt song ngữ trong cộng đồng hải ngoại hiện nay và mai sau. Nhiệm vụ của chúng ta là làm giảm nhẹ những thứ hành lí nặng nề không cần thiết cho việc dạy và học tiếng Việt ở ngoài nước.  Từ đó, đặt ra việc nhìn trở lại những gì chúng ta đang có: hiện tình chữ quốc ngữ.
Chữ quốc ngữ hiện nay gồm có 29 chữ cái mượn từ hệ thống chữ cái Latin có thay đổi chút ít để phù hợp với nét vẻ riêng của tiếng Việt; trong đó 17 chữ cái dùng để ghi phụ âm, 12 chữ cái để ghi nguyên âm.  Ngoài ra còn có 5 dấu để ghi sáu giọng cao thấp của mỗi tiếng.  So với hệ thống chữ nôm vốn cũng theo nguyên tắc kí âm mà ta mượn nét viết của chữ hán, phải nhận rằng chữ quốc ngữ đơn giản và tiện lợi hơn nhiều lắm, và cũng là một hệ thống được tạo lập rất có khoa học so với tình trạng khoa ngữ học ở thế kỉ XVII – XIX.  Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là chữ quốc ngữ đã rất hoàn hảo, bất khả xâm phạm.  Sự thay đổi của bộ mặt chữ quốc ngữ trong vòng một thế kỉ từ khi từ điển De Rhodes ra đời cho đến khi Pigneau de Béhaine soạn từ điển của ông đã chứng tỏ rằng các nhà hoạt động ngôn ngữ đã không quá bảo thủ hoặc hãnh tiến đến mức liều lĩnh cố chấp.  Huống chi, ba trăm năm qua, nhiều tiến bộ về mặt học hỏi song song với sự đổi thay tự nhiên của tiếng Việt, đã khiến cho những niềm tin cũ nay trở nên đáng nghi ngờ, cần phải dành nhiều công sức của nhiều giới có thiện chí.
Trong tình trạng hiện nay của chữ quốc ngữ, hay nói đúng hơn, hiện trạng của chữ quốc ngữ trong vòng một trăm năm trở lại đây – tính từ thời điểm những bộ từ điển Taberd (1838), Legrand de la Liraye (1877), Hùinh Tịnh Của (1895-6), Génibrel (1898), Bonet (1899) xuất bản, có thể thấy nhiều vấn đề cần đặt ra thảo luận.  Chúng tôi tạm quy về hai nhóm vấn đề:
1.      Những sự thay đổi tự nhiên qua thời gian khiến cho chữ viết không còn ghi đúng nội dung âm thanh tiếng nói;
2.      Những hiện tượng đi lạc ra ngoài nguyên tắc “mỗi kí hiệu chuyên chở một đơn vị âm thanh của ngôn ngữ”.
 
Chữ quốc ngữ qua dòng thời gian
 
Cuốn từ điển của de Rhodes có một phần biên soạn về ngữ pháp tiếng Việt, có tựa là Linguae Annamiticae seu Tunchinensis Brevis Declaratio (Báo cáo vắn tắt về tiếng An nam hay tiếng Đàng ngoài), chính là một tập ngữ pháp Việt nam vào thời kì này.  Chương I: “Chữ và vần gồm trong tiếng này” có đoạn nói về chữ D như sau: “D phát âm và có giá trị y như  D Latin, nhưng với một vài khác biệt, nhất là trong những từ mà D có E đi theo gần như dính liền, lại không phát âm rõ, thí dụ deă, pellis (da); còn khi không có E  dính ở giữa, thì nó hoàn toàn đọc như D của chúng ta, thí dụ (nhà) …” [8]
So sánh với đoạn nói về chữ GI, ta thấy ông chỉ dẫn cách đọc GI tương tự như lối đọc gi ở tiếng Ý. Kiểu nói phân biệt /d/ và /gi/ này đã dần dần biến mất, mà có khuynh hướng đồng hoá cả hai thành / z / ở tiếng bắc, và / j / ở tiếng trung, nam.  Nhưng chữ viết vẫn không thay đổi theo. Hình thức viết gi d hiện nay vẫn là theo mẫu mực của thế kỉ XVII. Nếu không dựa vào lịch sử phát âm như thế, khó có thể hiểu tại sao lại viết giản dị mà không thể viết dản dị được. 
Hiện tượng chữ PH cũng đáng chú ý.  Từ điển A. de Rhodes cho rằng: “Thực ra tiếng xứ này không bao giờ có P đứng đầu các chữ như đã nói ở phần nghiên cứu chữ F.  Chỉ có PH, đọc giống như phi của Hi lạp.” [9] Ngược lên đoạn nói về chữ F, ta thấy chỉ dẫn như sau : “F- hay đúng hơn, PH – vì khi đọc nó, không tách hai môi như khi đọc F của ta.  Khi phát âm chữ này, môi cử động rất nhẹ và hơi rít cũng chỉ qua loa.” [10]
Maspéro cắt nghĩa rõ thêm rằng ph là một âm môi hơn là âm môi răng như ngày nay.  Âm này đã thay đổi từ bao giờ không rõ, nhưng âm /h/ trong tổ hợp /ph/ ngày nay không còn bật hơi như ngày xưa; thảng hoặc chỉ còn một vài nơi hoặc một vài cá nhân nói giọng cổ đó mà thôi. [11] Nói cách khác,ngày nay, âm PH phát âm như âm F của người phương tây, chứ không bật hơi khi mở hai môi như ngày xưa A. de Rhodes đã ghi nhận.
Tưởng cũng cần nói thêm là de Rhodes và các vị chế tác chữ quốc ngữ đã có dụng ý thêm chữ h trong các trường hợp th, kh, ph là để chỉ tính cách bật hơi thở của những âm này; cho đến nay, tính cách này đã mất đi ở ph, và giảm nhẹ ở kh.
Trên đây là những sự kiện nhặt ra được từ chính nội thân tiếng Việt để so sánh với chữ viết theo hệ thống chữ cái Latin.  Những đổi thay này là tự nhiên thôi.  Cũng chẳng phải vì tiếng nói đổi thay là chữ viết cũng phải sửa đổi theo ngay.  Dù sao, thói quen của tập thể người sử dụng ngôn ngữ vẫn mạnh hơn ý muốn của thiểu số nhà khoa học.  Quy luật của ngôn ngữ là:  tập quán của đám đông quyết định sự tồn tại của một hiện tượng ngôn ngữ.  Cho nên, các hiện tượng đổi thay qua thời gian được đề cập ở đây chỉ có ý nghĩa nói lên tính cách động của tiếng nói qua thời gian, chứ ngôn ngữ luôn luôn không hề “nhất thành bất biến”. 
 
Những hiện tượng lạc ra ngoài nguyên tắc âm vị học
 
Bộ chữ cái Latin dùng để ghi âm tiếng Việt tất nhiên là cũng theo nguyên tắc chung của một hệ thống chữ viết ghi âm:  mỗi chữ cái là một kí hiệu ghi lại một âm thanh.  Thế nhưng trong chữ quốc ngữ của chúng ta, không phải lúc nào cũng có sự trùng khít giữa chữ cái và nội dung các âm thanh.  Và đây chính là nguyên do làm nảy ra các sáng kiến cải tổ chữ quốc ngữ một cách có ý thức do các nhà ngôn ngữ đề xướng.
Trước hết là hiện tượng c, k, qu. Từ điển de Rhodes có ghi chú rằng:  “Chữ C chỉ ở vị trí đầu các tiếng có nguyên âm A, Ô, Ơ, U, Ư; còn trước các nguyên âm Ê và I chúng ta dùng K hoặc S. (sic)”.  Ở đoạn nói về âm K, tác giả viết:  “K chỉ đứng với nguyên âm Ê và I, chẳng hạn:  kẻ, kĩ…” [12]
Tại sao lại có hiện tượng đó?  Không phải tiếng Việt đọc âm /k/ khác nhau trước hai loại nguyên âm này, mà chính là các nhà chế tác chữ quốc ngữ đã đem á dụng thông lệ chính tả của Pháp đặt vào tiếng Việt.  Nhưng âm / k/ trong tiếng Pháp lại không có chúm môi trước nguyên âm, cho nên phải mượn QU trong tiếng Latin và đọc y như ở trong tiếng Latin vậy.  Đây là một thói quen của một số giáo sĩ phương tây đặt để lên tiếng Việt mà không có lí do thoả đáng nào cả.
Mặc dù vậy, thầy cô giáo tiếng Việt vẫn cứ phải gọi đó là “quy tắc”  để nhắc nhở cho học sinh viết đúng “nguyên tắc”.
Trường hợp g (h),  ng (h), cũng là một lệ ngoại.  Hiện tượng thêm h trước các nguyên âm E, Ê, I, là ảnh hưởng của lối chính tả Latin chứ không có lí do tự nội thân tiếng Việt.  Âm /h/ trong trường hợp này không có cơ sở vững chắc như kh, ph, th.
Hiện tượng GI được nhắc nhở trên đây cũng là một trường hợp đi lạc ra ngoài nguyên tắc âm vị học nữa.  GI là cách chính tả của tiếng Ý, mượn để chỉ một âm tắc xát ở vào thời de Rhodes.  GI, như vậy, chỉ là một kí hiệu chỉ một âm đầu, kết hợp với một nguyên âm nào đó mới thành một tiếng: gi-à, gi-ỏ, gi-ẻ, gi-ết.  Thế nhưng khi ghép với nguyên âm i, GI lại mất I:  g (i) –I  > gi.  Đây là sự vi phạm nguyên tắc âm vị học, vì g(i) giờ đây đồng hoá với một âm khác là g/ g(h) nhưng lại đọc khác hoàn toàn. 
Cũng theo qui ước âm vị học, tất cả các nguyên âm đều được phát âm ở bậc thang âm ngang: a, i, o, u… đều đọc là /a/, /i/, /o/, /u/.  Nhưng khi đọc đến những nguyên âm ngắn của aơ, người ta phát âm thành một âm có bậc thang âm rất cao, ở bậc dấu sắc / ’/.  Sự lẫn lộn nhỏ này đã dẫn đến một nhầm lẫn lớn khác:  làm mờ sự đối xứng giữa nguyên âm dài và nguyên âm ngắn ở tiếng Việt.  Nói cách khác, ă a không phải là hai âm khác nhau mà chỉ là một âm dài và một âm ngắn mà thôi, tương tự như cặp ơ â vậy.  Có nhận ra sự đối lập này mới cắt nghĩa thấu đáo tại sao có một  sự phân bố đồng đều giữa chúng khi kết hợp với các âm cuối y,u,ch, nh.  Theo cách viết hiện nay thì ta nghĩ những nguyên âm trong ay, au, ach, anh là những nguyên âm dài, nhưng thực ra đó chính là những âm a ngắn, còn những âm a dài thường phân bố kết hợp với những âm cuối trên dưới dạng viết sau:  ai, ao, ac, ang.
Trong cách viết chữ quốc ngữ hiện nay, có hiện tượng bất nhất khi viết i y.  De Rhodes ghi chú như sau về cách viết hai chữ này ở thời ông:  “Tiếng xứ này chỉ dùng chữ I làm nguyên âm, vì chữ I phụ âm được thay bằng chữ G (sic). Muốn tránh lẫn lộn, ta dùng I ở giữa hay ở cuối tiếng:  biết, bĩ.  Cũng cần chú ý là ta dùng âm Y ở cuối tiếng khi nào có nguyên âm kép (sic) cần phải đọc tách biệt:  Eùy (ấy), nhưng phải dùng I khi nào nguyên âm kép không đọc tách rời, ví dụ chữ Ai.  Để tránh dùng nhiều dấu hiệu trên một chữ, ta không đánh hai dấu chấm trên chữ I.  Chỉ cần nhớ với nhau một lần rằng viết Y ở sau một nguyên âm không phải để đọc thêm một vần tách biệt mà chỉ có ý phân biệt vần như trong cây cai.  Ta cũng dùng Y trước một số nguyên âm nhưng cũng không xem là phụ âm bao giờ, chẳng hạn ýeo (tức là yếu), ỷa, (tức là ỉa).” [13]
Nguyên tắc này được áp dụng chặt chẽ trong bản thảo của Bento Thiện (1659) cho đến từ điển của Hội Khai Trí Tiến Đức (1931).
Nhưng đến ngày nay thì sách báo tiếng Việt có nhiều kiểu viết bất nhất về chữ I và Y.  Dường như người viết chỉ theo trực cảm hoặc theo thói quen (có thể đúng mà cũng có thể sai), nên chỉ có hiện tượng tên người là được viết thành Sỹ hoặc ngược lại, tị (nạn) lại cũng có thể viết thành tỵ (nạn)… Dựa theo Hán Việt Từ Điển của Đào Duy Anh, chúng tôi nhận thấy có thể ta có những trường hợp sau đây viết lẫn lộn I thành Y  sau h, k, l, m, qu, t.  Nếu bảo rằng phải viết tiếng hán việt theo cách khác, e là không chính đáng, vì chữ viết kí âm không bao giờ “chia hán/nôm” mà chỉ quan tâm đến việc ghi âm sao cho đúng như khi người nói phát âm ra.  Vì thế, không có lí do gì để phân biệt mỹ (thuật) với (bánh) , hoặc là phân biệt (biệt) ly với li ti, lấy lí do là một bên viết với y vì là từ hán việt, bên kia viết với i vì là một từ nôm na.  Vả lại, thật là khó chấp nhận sự kiện cho rằng có thể cả hai cách viết i y đi kèm với những âm khởi đầu m, t, l, k, qu, h, đều được coi là đúng, là hợp cách như một tác giả đã ghi nhận. [14] Thật ra, khi chúng ta viết Lý, Kỹ, Mỹ với y, ta đã chọn thói quen và trực cảm chủ quan hơn là dựa trên chính dữ kiện ngôn ngữ để viết chữ quốc ngữ.  Có lẽ vì thế mà Việt Nam Tự Điển (1931) của Hội Khai Trí Tiến Đức (một công trình đồ sộ của các học giả có trình độ làm việc cao, ra đời cùng một thời với Hán Việt Từ Điển của Đào Duy Anh) đã không theo thói quen này.
Hiện tượng bất nhất nói trên đã diễn ra từ thời kì nào?  De Rhodes và những nhà sáng chế chữ quốc ngữ xem ra rất tách bạch về cách dùng chữ này – như lời dẫn trong sách của ông đã cho thấy. Sang thế kỉ XVIII, quyển tự vị An Nam-La Tinh (Dictionarium Abamitico Latinum) soạn xong năm 1773, cũng không thấy có tình trạng nước đôi trong một số cách viết chữ i y. Hiện tượng viết thông nhau giữa i và y chỉ thấy xuất hiện vào thế kỉ XIX, khi có hàng loạt những quyển tự vị soan và in tại nhiều địa phương khác nhau, do những nhà biên soạn không chuyên về ngôn ngữ. [15] Đến những từ điển Huiønh Tịnh Của (1895-6) hay là của Génibrel (1898) thì đã có dấu hiệu của sự phân hóa giữa hai qui tắc: các ông vẫn viết I ở phần chính:  hùinh, quình, hụich, huiên, nhưng cũng có những chỗ viết huyền, truyền, khuyên, ly
Đến những năm đầu thế kỉ thứ XX thì sự lẫn lộn đã trở nên phổ biến: hai quyển từ điển cùng in năm 1931 mà lại theo hai nguyên tắc chính tả khác nhau: Đào Duy Anh soạn Hán Vịêt Từ Điển thì chuộng Y khi viết với  h, k, l, m, qu, t.  Trong khi đó thì Việt Nam Tự Điển của Khai Trí Tiến Đức thì nhất loạt viết i trong các từ đi đầu với h, k, l, m, qu, t.  Uy tín của hai bộ từ điển đã kéo theo sự phân hóa về chính tả sau đó.  Trong nhà trường miền Nam trước 1975, quy định chính tả đã được minh thị trong các ấn bản Chương Trình Trung Học do Bộ Quốc Gia Giáo Dục ấn hành hằng năm, rằng phải theo quy tắc chính tả của Việt Nam Tự Điển.  Tuy thế, dường như nhà trường phổ thông không thiết tha gì với chính tả, và dường như không mấy ai để ý quyển từ điển này đã viết chữ quốc ngữ ra sao!  Có người còn nói liều rằng quyển từ điển này đã lạc hậu rồi.  Phải, sẽ phải quên nó đi thôi nếu quả thật là nó đã bị vượt bỏ.  Nhưng mà cho đến nay vẫn chưa có bộ từ điển nào thật có phương pháp nghiêm túc trong lối chọn mục từ, giải nghĩa, và dẫn chứng văn liệu chính xác như nó.  Đó là điều đáng buồn chung cho những ai thích sự tiến bộ.  (Chúng tôi không nghĩ là chiều dày của bộ từ điển Lê Văn Đức đã đủ để được tôn là bộ từ điển có giá trị về mặt phương pháp cùng nội dung biên soạn.)
Trở lại hiện tượng I và Y, có thể nói là hiện tượng lẫn lộn này tương đối mới mẻ so với lịch sử 300 năm của chữ quốc ngữ.  Có thể tạm xác định mốc những năm cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX.  Vả chăng, bản đề nghị của Uỷ Ban Cải Cách Chữ Quốc Ngữ (1902) đã xác nhận giả thuyết này.
Một hiện tượng khác cũng cần để ý là tiếng Việt có đến 4 con chữ dùng để viết hai âm: đó là âm /w/ được ghi bằng ou, hoà/hào, mùa/màu; âm /y/ được ghi bằng i ymai/may, mới/mấy… Lại một lần nữa nguyên tắc âm vị học bị vi phạm. Hãy lấy cặp mai/may làm tỉ dụ:  sự khác biệt giữa hai tiếng này không nằm ở i/y mà chính là ở hai âm a.  Một đàng, a được đọc dài, một đàng âm a đọc ngắn;  vậy để cho chính xác, phải ghi hai âm a đó thế nào cho khác nhau.  Nhưng thói quen đã ghi như vậy.
Tưởng cũng cần nhắc lại hiện tượng h ghi trong nhch.  Hai phụ âm nhch chỉ là mượn kiểu ghi âm của tiếng Bồ; hoàn toàn không có hiện tượng bật hơi thở như trong bộ ba ph, kh, th.  Mặc dù ngày nay h đã mất tính cách bật hơi trong ph và giảm nhẹ trong kh, nhưng chữ quốc ngữ vẫn không vì thế mà đổi theo.
Trở lên là những vấn đề đặt ra cho người Việt khi suy nghĩ về việc giảng dạy tiếng Việt cho con em ở một thời kì mà những hiểu biết về ngôn ngữ cho phép chúng ta rút ngắn những kiểu làm việc, giảm thiểu những thừa thãi vô ích.  Trong ý nghĩa đó, bao nhiêu cố gắng của các thế hệ nghiên cứu tiếng Việt không có nghĩa là làm phiền toái sự việc, mà ngược lại là những nỗ lực để nhìn nhận sự vật một cách chính xác hơn.  Thế tại sao, từ 1902 đến nay, những gắng công của những thế hệ nghiên cứu đều chưa thành công trong việc làm cho chữ quốc ngữ thêm chính xác?  Chúng tôi không nghĩ là trách nhiệm đơn thuần thuộc về họ, những nhà chuyên mônvề ngữ học. Một cuộc vận động xã hội nào cũng cần sự tham gia của ba yếu tố: chỉ đạo, công chúng và những cơ quan chức năng. Để vận động cho một cuộc cải cách ngôn ngữ thì cần có những nhà chuyên môn ngữ học đề đạt dự án, và nhà nước huy động các cơ quan chức năng (nhà trường và hệ thống truyên thông) để thâm nhập quần chúng.  Nhà trường Việt nam trước đây đã không làm đúng phần việc của nó trong sự gìn giữ chữ quốc ngữ được ngày một tinh giản. Sách báo trong xã hội cũng không thật sự quan tâm và hiểu thấu vấn đề, mà chỉ nối nhau theo thói quen.
 
3.       Bài viết này không đặt vấn đề sửa đổi chữ quốc ngữ. Việc đó để dành cho những cơ quan có thẩm quyền về sau này.  Dụng ý duy nhất của người viết là phân tích một vài khía cạnh của chữ quốc ngữ để mong nhận ra dáng vẻ sống động của hệ thống chữ viết latin này trong dọc dài lịch sử chữ viết dân tộc. Chữ quốc ngữ đã trải qua nhiều thay đổi từ nhiều thế hệ, do công phu của những người sử dụng ban đầu – mà không nghi ngờ gì nữa – đều là những người có trình độ hiểu biết rành rẽ về nó.
Trong tình trạng hiện nay, thiếu một tổ chức thẩm quyền, việc sử dụng chữ viết đang chịu một thách đố của qui luật phát triển tự nhiên.  Dạy tiếng mẹ đẻ trong hoàn cảnh đó thật là phức tạp.  Những ghi chú trên đây chỉ nhằm tìm một chỗ dựa cho việc soạn thảo bài giảng tiếng Việt cho thế hệ trẻ mà không vương vấn giữa những phiền toái không cần thiết – trong nhiều trường hợp chỉ là làm mất vẻ trong sáng của tiếng nói và chữ viết. Có thể những phân tích này đi ngược chiều với cái thói quen của chính người viết và những người ở cùng thế hệ với hắn.  Nhưng mà, đối với người tìm học, không thể không nói ra những gì mình hiểu và tin là đúng.
                                                                                                                            
_______________________________
 
[1] Theo Lê Trọng Khánh (1986) Sự hình thành và phát triển chữ Việt cổ. Hà Nội: nxb. Viện Văn Hoá, tr. 21
[2] Đỗ Quang Chính (1972) Lịch sử chữ quốc ngữ. 1620-1659). Ra Khơi, tr. 24-25
[3] Charles Maybon (1920)  Histoire moderne du paye d’Annam (1592-1820) Paris, p. 30  
[4] L. Finot (1908). Trích theo Nguyễn Bạt Tuỵ (1949), Chữ và vần Việt khoa học. Saigon: Ngôn ngữ, tr. 7.
[5] A. Chéon (1905) "Notes sur les Muong de la province de Son tay". BEFFEO. t. V, p.328
[6] Compte-rendu du premier Congrès international des Etudes d'Etrême-Orient. BEFEO, t.III, (1903) tr. 126-127. Cũng có thể xem tóm tắt bản đề nghị này trong: Nguyễn Bạt Tuỵ (1949), sđd,  tr 10-12.
[7] L. Cadière (1906) "Le question du quốc ngữ", báo L'Avenir du Tonkin. từ 24 Septembre đến 10 Octobre 1906.
[8] Alexandre de Rhodes (1651) Dictionatium Annamiticum Lusitanum, et Latinum. (Bản in lại của Nxb. KHXH, Tp.HCM, 1991. tr. 6
[9] A. De  Rhodes, sđd, tr. 8-9.
[10] A. De Rhodea, sđd, tr. 6.
[11] H. Maspéro(1912) "Etudes sur la phonétiquehistorique de la langue Annamite : les initiales". BEFFEO, t.XII, n.1, p. 46. 
[12] A. De Rhodes, sđd, tr. 6.
[13] A. De Rhodes, sđd, tr. 7.
[14] L. Thompson (1965) A Vietnamese Grammar. Seattle: Washington Uni Press, tr. 65
[15] Một vài thí dụ: Legrand  De La Liraye (1874) Dictionnaire élémentaire annamite Francaise. Paris: Challamel Ainé Libraire Editeur; Neccon Ab Ill & Rev. J.S. Theurel (1877) Dictionarium Annamitico Latinum. Ninh Phú: Missionis Tunquini Occidentalis; Jean Bonet (1899) Dictionnaire Annamite Francaise. 2 tomes. Paris: Imprimerie Nationale.
 
 
Nguồn:  Mạng Trung Tâm Văn Hóa Nguyễn Trường Tộ  http://ttntt.free.fr
 
                ( http://ttntt.free.fr/archive/dxkienchuquocngu.html )
 

 

Chữ Quốc ngữ

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bước tới: menu, tìm kiếm
Bài này nói về hệ thống chữ viết trong tiếng Việt. Quốc ngữ còn có nghĩa là ngôn ngữ chính thức
Trang đầu Phép giảng tám ngày (Catechismus) in năm 1651 của Giám mục Đắc Lộ. Bên trái là chữ Latinh, bên phải là chữ Quốc ngữ
Chữ Quốc ngữ, còn được gọi tắt là Quốc ngữ, là hệ thống chữ viết chính thức hiện nay của tiếng Việt. Hệ thống này được xây dựng dựa trên chữ cái Latinh (cụ thể là trực tiếp từ chữ cái Bồ Đào Nha) thêm các chữ ghép và 9 dấu phụ — 4 dấu tạo ra các âm mới, và năm dấu còn lại dành cho thể hiện thanh điệu của từ. Hai loại dấu phụ có thể được viết cùng trên một chữ cái nguyên âm.

Bảng chữ cái[sửa]

Bảng chữ cái tiếng Việt có 29 chữ cái, theo thứ tự:
AĂÂBCDĐEÊGHIKLMNOÔƠPQRSTUƯVXY
aăâbcdđeêghiklmnoôơpqrstuưvxy
Ngoài ra, có 10 chữ ghép đôi và 1 chữ ghép ba.
CH GH GI KH NG NGH NH PH TH TR QU
Trước đây, các chữ ghép này được coi như một chữ cái độc lập và có thể được tìm thấy trong từ điển cũ. Ngày nay chúng không được coi là chữ cái độc lập mà là chữ ghép; ví dụ trong việc xếp thứ tự, "CH" nằm giữa "CA" và "CO" trong các từ điển hiện đại.
Các chữ cái "F", "J", "W" và "Z" không có trong bảng chữ cái tiếng Việt, nhưng có thể bắt gặp trong các từ vay mượn từ tiếng nước ngoài. "W" thỉnh thoảng được dùng trong cách viết tắt thay "Ư". Hiện đang có ý kiến cho rằng, cần bổ sung thêm bốn chữ cái kể trên vào bảng chữ cái tiếng Việt để hợp thức hóa cách sử dụng để đáp ứng sự phát triển của tiếng Việt hiện đại.[1]

Nguyên âm[sửa]

Ngoài các nguyên âm đơn, trong tiếng Việt còn có nguyên âm đôi, còn gọi là trùng nhị âm và nguyên âm ba hay trùng tam âm.
Có mối liên hệ phức tạp giữa nguyên âm và cách phát âm của chúng. Một nguyên âm có thể biểu thị cho vài cách phát âm khác nhau, tùy theo nó nằm trong nguyên âm đơn, đôi hay ba; và nhiều khi các cách viết nguyên âm khác nhau tượng trưng cho cùng một cách phát âm.
Ví dụ yi có thể dùng thay cho nhau trong nhiều trường hợp. Đã có quyết định của Bộ Giáo dục Việt Nam vào năm 1984, quy định dùng i thay cho y. Quy chuẩn này không áp dụng cho các nguyên âm đôi và nguyên âm ba, cũng như ngoại trừ tên riêng; nhưng vẫn có hạn chế trong việc thực thi trong cuộc sống. Trường hợp các từ có phụ âm đầu là qu, sử dụng vần y thì sẽ đúng hơn.
Bảng sau cho biết các cách phát âm (theo Bảng mẫu tự phiên âm quốc tế) có thể tương ứng với từng cách viết nguyên âm:
Cách viếtPhát âmCách viếtPhát âm
a /ɐː/, /ɐ/, /ɜ/o /ɔ/, /ɐw/, /w/
ă /ɐ/ô /o/, /ɜw/, /ɜ/
â /ɜ/ơ /əː/, /ɜ/
e /ɛ/u /u/, /w/
ê /e/, /ɜ/ư /ɨ/
i /i/, /j/y /i/, /j/
Hiện nay các nhà ngôn ngữ học chưa có sự thống nhất hoàn toàn về số lượng nguyên âm trong tiếng Việt. Tuy nhiên, quan điểm phổ biến[cần dẫn nguồn] cho rằng tiếng Việt có 13 nguyên âm đơn, 3 nguyên âm đôi và không có nguyên âm ba[2], gồm: /i, e, ε, ɤ, ɤˇ, a, ɯ, ă, u, o, ɔ, ɔˇ, εˇ, ie, ɯɤ, uo/.
Bảng sau cho biết các cách viết có thể tương ứng với từng cách phát âm nguyên âm đơn:
Nguyên âm đơn
/i/
  • thông thường i: /si/ = .
  • thỉnh thoảng y: /mi/ = Mỹ.
  • luôn là y nếu
    1. bắt đầu một chữ Hán Việt: /iɜw/ = yêu .
  • (Chú ý là cả iy đều cũng có thể dùng biểu thị cho /j/.)
/e/
  • ê
/ɛ/
  • e
/ɨ/
  • ư
/əː/
  • ơ
/ɜ/
  • /ɜ/
/ɐː/
  • a
/ɐ/
/u/
  • u
/o/
  • ô
/ɔ/
  • o
 
Bảng sau cho biết các cách viết có thể tương ứng với từng cách phát âm nguyên âm đôi và ba:
Nguyên âm đôi & ba
Phát âmCách viếtPhát âmCách viết
Nguyên âm đôi
/uj/ui */iw/iu **
/oj/ôi */ew/êu **
/ɔj/oi */ɛw/eo ***
/əːj/ơi */əːw/ơu **
/ɜj/ây, ê */ɜw/âu, ô **
/ɐːj/ai */ɐːw/ao ***
/ɐj/ay, a */ɐw/au, o **
/ɨj/ưi */ɨw/ưu **
/iɜ/ia, ya, iê, yê/uɜ/ua, uô
/ɨɜ/ưa, ươ  
Nguyên âm ba
/iɜw/iêu, yêu **/uɜj/uôi *
/ɨɜj/ươi */ɨɜw/ươu **
* Nhiều khi không được công nhận là nguyên âm mà là vần, gồm nguyên âm chính và âm cuối (bán nguyên âm) i.
** Nhiều khi không được công nhận là nguyên âm mà là vần, gồm nguyên âm chính và âm cuối (bán nguyên âm) u.
*** Nhiều khi không được công nhận là nguyên âm mà là vần, gồm nguyên âm chính và âm cuối (bán nguyên âm) o.
/iɜ/
  • ia nếu không có phụ âm nằm sau /miɜ/ = mía
  • nếu có phụ âm nằm sau /miɜŋ/ = miếng
  • thay i bằng y tại đầu từ hoặc sau một chữ cái nguyên âm:
    • ya: /xwiɜ/ = khuya
    • : /xwiɜn/ = khuyên; /iɜn/ = yên
/uɜ/
  • ua nếu không có phụ âm nằm sau /muɜ/ = mua
  • nếu có phụ âm nằm sau /muɜn/ = muôn
/ɨɜ/
  • ưa nếu không có phụ âm nằm sau /mɨɜ/ = mưa
  • ươ nếu có phụ âm nằm sau /mɨɜŋ/ = mương
 

Phụ âm[sửa]

Chữ ghép "GH" và "NGH" được dùng thay "G" và "NG" ngay trước "I", để tránh nhầm lẫn với chữ ghép "GI". Vì lý do lịch sử, chúng cũng được dùng trước "E" và "Ê".
Đa số các phụ âm được dùng giống như trong nhiều ngôn ngữ dùng chữ cái latinh khác, với các ngoại lệ:
  • "CH" là âm vòm tắc vô thanh [c] hay âm tắc sát [tɕ].
  • "Đ" đọc giống "D" như trong nhiều ngôn ngữ, nhưng có thể có thêm âm tắc cổ họng vô thanh ngay trước hoặc cùng lúc phát âm phụ âm này.
  • "D" đọc giống [z] (tuy nhiên phương ngữ Nam đọc giống [j]).
  • "QU" đọc giống [k] (tuy nhiên phương ngữ Nam đọc giống [w]).
  • "GI" đọc giống [j] (tuy nhiên phương ngữ Hà Nội đọc giống [z]).
  • "V" đọc giống [v] (tuy nhiên phương ngữ Nam đọc giống [j]).
  • "KH" là âm vòm mềm sát vô thanh [x] (tuy nhiên phương ngữ Hà Nội đọc giống {{IPA[kʰ]}}).
  • "NG" là âm vòm mềm mũi [ŋ].
  • "NH" khi đứng đầu chữ là âm vòm mũi [ɲ], khi đứng cuối chữ là [ŋ] (tuy nhiên phương ngữ Nam là [n]).
  • "R" đọc giống [ʐ] hay [ɹ] (tuy nhiên phương ngữ Hà Nội đọc giống [z]).
  • "S" đọc giống [ʂ] (tuy nhiên phương ngữ Hà Nội đọc giống [s]).
  • "PH" đọc giống [f].
  • "TH" là âm hơi [tʰ].
  • "TR" đọc giống [tʂ] (tuy nhiên phương ngữ Hà Nội đọc giống {{IPA[c]}}).

Cấu trúc[sửa]

Một đơn vị từ tiếng Việt chỉ chứa một âm tiết. Mỗi đơn vị từ chứa nhiều nhất là bốn phần:
  1. Phụ âm đầu (có thể không có)
  2. Âm đệm (o hoặc u) (có thể không có, có thể cùng thanh điệu trong một số trường hợp)
  3. Âm chính (nguyên âm) cùng thanh điệu (luôn có)
  4. Âm cuối (có thể không có; là phụ âm như c, ch, m, n, ng, nh, p, t hoặc bán nguyên âm như i/y, o, u).

Thanh điệu[sửa]

Tiếng Việtngôn ngữ thanh điệu, nghĩa là nghĩa của một từ phụ thuộc vào thanh điệu của từ đó. Có sáu thanh điệu; trong đó thanh ngang không ghi dấu phụ, còn các thanh khác có dấu phụ ghi tại nguyên âm.
Thanh điệuDấu phụNguyên âm mang dấu phụ
NgangKhông cóA/aĂ/ăÂ/âE/eÊ/êI/iO/oÔ/ôƠ/ơU/uƯ/ưY/y
HuyềnDấu huyềnÀ/àẰ/ằẦ/ầÈ/èỀ/ềÌ/ìÒ/òỒ/ồỜ/ờÙ/ùỪ/ừỲ/ỳ
SắcDấu sắcÁ/áẮ/ắẤ/ấÉ/éẾ/ếÍ/íÓ/óỐ/ốỚ/ớÚ/úỨ/ứÝ/ý
HỏiDấu hỏiẢ/ảẲ/ẳẨ/ẩẺ/ẻỂ/ểỈ/ỉỎ/ỏỔ/ổỞ/ởỦ/ủỬ/ửỶ/ỷ
NgãDấu ngãÃ/ãẴ/ẵẪ/ẫẼ/ẽỄ/ễĨ/ĩÕ/õỖ/ỗỠ/ỡŨ/ũỮ/ữỸ/ỹ
NặngDấu nặngẠ/ạẶ/ặẬ/ậẸ/ẹỆ/ệỊ/ịỌ/ọỘ/ộỢ/ợỤ/ụỰ/ựỴ/ỵ
Trong các nguyên âm đôi và ba có ít nhất hai cách đặt dấu phụ lên chúng, trong đó một cách ("cách mới") dựa trên lý thuyết ngôn ngữ học.
Trong xếp thứ tự chữ cái, các chữ cái được ưu tiên, tiếp sau là thanh điệu, và sau cùng là chữ hoa/chữ thường. Quá trình ưu tiên này được thực hiện lần lượt trên các âm tiết. Ví dụ một từ điển sẽ xếp "tuân thủ" trước "tuần chay".

Phát âm[sửa]

Cách phát âm theo tên gọi có từ lúc Alexandre de Rhodes truyền bá chữ quốc ngữ, còn cách phát âm theo phiên âm có từ sau năm 1945.
STTChữ cáiTên gọiÂm
1A/aaa
2Ă/ăáá
3Â/â
4B/bbê, bê bò[3]bờ
5C/ccờ
6D/ddờ
7Đ/đđêđờ
8E/ee, ơ[4]e
9Ê/êêê
10G/ggiêgờ
11H/hháthờ
12I/ii, i ngắn[5]i
13K/kcacờ
14L/le-lờ, lờ cao[6]lờ
15M/mem, em-mờmờ
16N/nen, en-nờ, nờ thấp[7]nờ
17O/ooo
18Ô/ôôô
19Ơ/ơơơ
20P/ppê, bê phở[8]pờ
21Q/qquy, cu, quờcờ
22R/re-rờrờ
23S/sét, ét-xì, sờ nặng[9]sờ
24T/ttờ
25U/uuu
26Ư/ưưư
27V/vvờ
28X/xích-xì, xờ nhẹ[10]xờ
29Y/yi dài[11], i greci

Lịch sử[sửa]

Tự điển in năm 1651 bằng ba thứ tiếng Việt-Bồ-La của giáo sĩ Đắc Lộ

Thời kỳ đầu[sửa]

Chữ Quốc ngữ được phổ biến sâu rộng và định chế vào khoảng thế kỷ 1920 nhưng đã xuất hiện phôi thai từ lâu vào khoảng thế kỷ 16 khi các giáo sĩ Tây phương đầu tiên đến Việt Nam và giao tiếp với người Việt rồi vì nhu cầu học hỏi ngôn ngữ Việt (lúc đó còn dùng chữ Hán và chữ Nôm) để giao tiếp với người bản xứ mà bắt đầu ghi lại bằng cách phiên âm tiếng Việt dưới dạng chữ La tinh. Trước tiên là giáo sĩ Bồ Đào Nha dòng Phanxicô; kế đến là giáo sĩ Tây Ban Nha dòng Đa Minh[12] rồi dòng Tên. Sang thế kỷ 17 thì số văn tịch ghi lại dấu vết loại chữ này càng nhiều, kèm theo những biến đổi hoàn chỉnh với ký hiệu thanh giọng thêm chính xác. Tên tuổi những giáo sĩ đã tiên phong góp công trong việc hoàn chỉnh lối chữ này gồm có Gaspar do Amaral, Antonio BarbosaFrancisco de Pina.[13]
Giáo sĩ Đắc Lộ (tức Alexandre de Rhodes) người Pháp được coi là người có công nhiều trong việc định chế chữ quốc ngữ qua cuốn tự điển phiên âm Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum mà ông soạn và in ra năm 1651. Tuy là người Pháp nhưng ông lại dùng tiếng Bồ Đào Nha trong cuốn tự điển cùng những đóng góp của tiếng Ýtiếng Pháp. Soạn giả còn ghi rõ ông mượn dấu sắc, huyền, ngã từ tiếng Cổ Hy Lạp mà vẫn không đủ nên phải thêm iota subscriptum (dấu nặng) và dấu hỏi để biểu lộ thanh giọng của tiếng Việt.[14].
So sánh ký hiệu thì âm nh theo tiếng Bồ; gi theo tiếng Ý; còn ph theo tiếng Cổ Hy Lạp.
Các văn bản Công giáo thời kỳ này là tài liệu ghi chép quan trọng về cách phát âm của tiếng Việt cổ. Trong những tài liệu còn lưu trữ được là bản thảo "Manescrito, em que se Prou a, que a forma do Bauptisma Pronunciada em Lingoa Annamica he Verdadeira" do giáo sĩ Giovanni Filippo de Marini (1608-1682)[15] người Ý thuộc dòng Tên, sang đến Đàng Ngoài giảng đạo năm khoảng thập niên 1650, thì lối viết chữ Quốc ngữ ở giai đoạn đó như sau:[16]
Tau rửa mầi nhân danh Cha, ủa Con, ủa Spirite Santo. Tau lấy tên Chúa, tốt tên, tốt danh, tốt tiếng, vô danh, cắt ma, cắt xác, Blai có ba hồn bảy uía, Chúa Bloy Ba Ngôy nhẩn danh...

Thế kỷ 19[sửa]

Gia Định báo, tờ báo tiếng Việt đầu tiên dùng chữ Quốc ngữ, ra mắt năm 1865
Một mốc quan trọng của chữ Quốc ngữ là cuốn tự điển của giáo sĩ Jean-Louis Taberd, in năm 1838, căn cứ vào những sửa chữa của Giám mục Bá Đa Lộc.[17]
Cuốn tự điển của Bá Đa Lộc được soạn từ năm 1773 đến 1815 thì hoàn thành, mang tên Dictionarium Annamatico-latinum nhưng chưa được in ra (bản viết tay nay còn giữ ở Văn khố Hội Truyền giáo Paris). Trong khi đó tự điển của Taberd mang tên Nam Việt Dương hiệp Tự vị (tựa tiếng Latinh cũng giống như cuốn của Bá Đa Lộc là Dictionarium Annamatico-latinum) được in ở Serampore, Ấn Độ. Nó phản ảnh một biến chuyển quan trọng của tiếng Việt trong khoảng thời gian giữa thế kỷ 17 và thế kỷ 19. So sánh tự điển của Taberd và De Rhodes thì âm "ȸ" biến mất, thay thế bằng âm "v" hoặc "b". Những âm "bl", "ml", "pl", "sl", và "tl" cũng biến mất, thay thế bằng "tr", "nh", "l", "s". Dạng chính tả của chữ Quốc ngữ ở thời điểm này không khác mấy cách viết ngày nay.
Cuốn tự điển có phần phụ lục tựa là "Lời Chúa Tàu và Người Annam vấn đáp cùng nhau" (Dialogus Inter Unum Navis Praevectum et Unum Cocincinensem), trong đó có đoạn như sau:[18]
- Ông đi viếng Quan lớn thì được song thói nước nầy chẳng cho phép thăm đờn bà.
- Tôi cam lòng chìu theo quốc pháp, tôi chẳng có ý làm đều gì nghịch cùng thói phép đất nầy, có tục ngữ rằng: nhập giang tùy khúc nhập gia tùy tục.
Đọc qua, ngoài một số chữ khác biệt cách viết nhưng ý đã rõ, không là trở ngại cho độc giả thế kỷ 21. Tuy nhiên vào thời điểm này phạm vi dùng chữ Quốc ngữ vẫn hạn chế trong việc ghi chép của cộng đồng Công giáo. Ngoài ra đại chúng người Việt không dùng lối chữ này.

Địa vị chính thức[sửa]

Đơn khai sinh năm 1938Bắc Kỳ có bốn dạng chữ: chữ Quốc ngữ lẫn chữ Nôm cùng dấu triện bằng tiếng Pháp và vài chữ Nho
Chữ Quốc ngữ trên chặng đường hơn 300 năm vẫn không được công nhận là văn tự chính thức cho tới khi người Pháp xâm lăng, chiếm lấy Nam Kỳ vào cuối thế kỷ 19. Ngày 22 tháng 2 năm 1869 Phó Đề đốc Marie Gustave Hector Ohier ký nghị định bắt buộc dùng chữ Quốc ngữ thay thế chữ Nho trong các công văn.[19]
Ngày 1 Tháng Giêng năm 1879 thì lại có lệnh đòi các văn kiện chính thức phải dùng chữ Quốc ngữ. Cũng năm đó chính quyền Pháp đưa chữ Quốc ngữ vào ngành giáo dục, bắt đầu ở các thôn xã Nam Kỳ phải dạy lối chữ này.[19]
Khi Gia Định Báo phát hành, tờ báo đầu tiên bằng tiếng Việt, thì câu văn đã thêm phần mạch lạc, chính tả không mấy khác ngữ văn ngày nay ví dụ như bản thông báo ngày 22 tháng 12 năm 1888 sau đây:[20]
Sở Thuế Chánh Ngạch. Các người thiếu thuế... đặng hay: các sổ phụ trong tháng Octobre 1888 thuế đất, thuế sanh ý, thuế ghe biển, thuế ghe sông, cùng thuế thân đã lập theo phép để trong tay quan Kho Bạc Sài Gòn và Chợ Lớn hay về việc thâu thuế. Bởi đó sức cho các người ấy phải y theo hạn trong luật dạy mà đóng các món thuế biên trong sổ ấy, bằng không thì phải cứ phép mà bắt buộc...

Thế kỷ 20[sửa]

Khái Hưng một thành phần cột trụ trong nhóm Tự Lực Văn đoàn, giúp phát triển văn chương chữ Quốc ngữ vào đầu thế kỷ 20
Sang thế kỷ 20 thì chính phủ Đông Pháp mở rộng chính sách dùng chữ Quốc ngữ, giao cho Nha Học chính giảng dạy ở Bắc Kỳ từ năm 1910.[21] Năm 1915 thì kỳ thi Hương cuối cùng diễn ra ở Bắc Kỳ mặc cho sự chống đối của giới sĩ phu. Ở Trung Kỳ thì đạo dụ của vua Khải Định ngày 26 tháng 11 âm lịch năm Mậu Ngọ (tức ngày 28 tháng 12, 1918) chính thức bãi bỏ khoa cử và năm 1919 là năm cuối mở khoa thi ở Huế.[22] Chữ Quốc ngữ từ đó trở thành phương tiện diễn đạt duy nhất của người Việt trong khi địa vị Chữ Nhochữ Nôm càng mờ nhạt tuy chưa mất hẳn nhưng lui dần vào quá khứ.
Trong khi đó cũng có thành phần theo Nho học nhưng hiểu được giá trị của chữ Quốc ngữ và cổ động việc thâu nhận chữ Quốc ngữ như là một cách nâng cao trình độ kiến thức đại chúng, canh tân xã hội, thức tỉnh tinh thần yêu nước và huy động động lực phản kháng của người Việt trước quyền lực của thực dân Pháp. Trong đó có nhóm Đông Kinh nghĩa thục.[23] Việc theo học chữ Quốc ngữ theo đó thì không chỉ là phương tiện đọc và viết mà còn hàm ý vận động chính trị và vận mệnh dân tộc.[24]
Chữ Quốc ngữ qua những tác phẩm biên khảo, phóng sự, bình luận, du ký của những Nam Phong Tạp chí, Đông Dương Tạp chí, cùng một loạt tiểu thuyếtthơ mới của nhóm Tự lực Văn đoàn với tư tưởng mới, phong cách mới cũng và nhiều tác giả khác đã chứng minh chức năng toàn diện của chữ Quốc ngữ làm văn tự của người Việt để rồi sau năm 1945 các chính quyền kế thừa đều công nhận lối chữ này.

Chính tả[sửa]

Bài chi tiết: Chính tả tiếng Việt
Những quy tắc chính tả dưới đây đã được tham khảo rất nhiều qua những thảo luận về chính tả tiếng Việt, thậm chí đã quay ngược lại lịch sử từ năm 1902 khi Hội nghị Khảo cứu Viễn Đông được tổ chức tại đây, vấn đề về chữ Quốc ngữ đã được Ủy ban Cải cách chữ Quốc ngữ đề nghị lên chính phủ Toàn quyền lúc bấy giờ. Từ đó tới nay, đã có rất nhiều thảo luận được tổ chức nên đã giúp quy tắc chính tả tiếng Việt dần được điển chế hoá tới một mức độ khả quan hơn. Song song đó, sự phát triển của khoa học công nghệ, đặc biệt là sự chuẩn hoá của mã chữ Unicode đã mang tính quyết định trong việc hệ thống hoá những quy tắc về chính tả tiếng Việt.

Đặt dấu thanh[sửa]

Có nhiều quan điểm khác nhau về việc vị trí đặt dấu thanh, một trong các quan điểm đó như sau:
  1. Với các âm tiết [-tròn môi] (âm đệm /Ø/) có âm chính là nguyên âm đơn: Đặt dấu thanh điệu vào vị trí của chữ cái biểu diễn cho âm chính đó. Ví dụ: á, tã, nhà, nhãn, gánh, ngáng...
  2. Với các âm tiết [+tròn môi] (âm đệm /w/, được biểu diễn bằng "o, u") có âm chính là nguyên âm đơn thì cũng bỏ dấu thanh điệu vào vị trí chữ cái biểu diễn cho âm chính. Ví dụ: hoà, hoè, quỳ, quà, quờ, thuỷ, nguỵ, hoàn, quét, quát, quỵt, suýt...
  3. Với các âm tiết có âm chính là nguyên âm đôi:
    • Nếu là âm tiết [-khép] (nguyên âm được viết là: "iê, yê, uô, ươ"; âm cuối được viết bằng: "p, t, c, ch, m, n, ng, nh, o, u, i") thì bỏ dấu lên chữ cái thứ hai trong tổ hợp hai chữ cái biểu diễn cho âm chính. Ví dụ: yếu, uốn, ườn, tiến, chuyến, muốn, mượn, thiện, thuộm, người, viếng, muống, cường...
    • Nếu là âm tiết [+khép] (nguyên âm được viết là: "ia, ya, ua, ưa") thì nhất loạt bỏ dấu vào vị trí chữ cái thứ nhất trong tổ hợp hai chữ cái biểu diễn cho âm chính. Ví dụ: ỉa, tủa, cứa, thùa, khứa...
  4. Phân biệt vị trí đặt dấu thanh điệu ở tổ hợp "ua" và "ia":
    • Với "ia" thì thì phân biệt bằng sự xuất hiện hay vắng mặt của chữ cái "g" ở đầu âm tiết. Có "g" thì đặt vào "a" (già, giá, giả...), không có "g" thì đặt vào "i" (bịa, chìa, tía...). Trường hợp đặc biệt: "gịa" (có trong từ "giặt giạ" và đọc là "dịa" /ziə/.
    • Với "ua" thì phân biệt bằng sự xuất hiện hay vắng mặt của chữ cái "q". Có "q" thì đặt vào "a" (quán, quà, quạ...), không có "q" thì đặt vào "u" (túa, múa, chùa...). Hoặc để giản tiện cho việc làm bộ gõ, có thể coi "qu" như là một tổ hợp phụ âm đầu tương tự như "gi, nh, ng, ph, th"... Khi đó, sẽ coi "quán, quà, quạ"... như là những âm tiết có âm đệm /Ø/.
Trong đời sống, hiện vẫn tồn tại hai cách đặt dấu thanh trong tiếng Việt. Ví dụ "hòa" là một cách đặt dấu thanh khác cho "hoà", trong đó "hòa" còn gọi là cách đặt dấu thanh "cũ". Bảng sau liệt kê các trường hợp mà hai cách đặt dấu thanh khác nhau:
Mới
òa, óa, ỏa, õa, ọaoà, oá, oả, oã, oạ
òe, óe, ỏe, õe, ọeoè, oé, oẻ, oẽ, oẹ
ùy, úy, ủy, ũy, ụyuỳ, uý, uỷ, uỹ, uỵ

Quy tắc sử dụng chữ I và Y[sửa]

Quy tắc sử dụng iy trong sách giáo khoa[sửa]

- Nguyên âm trong các âm tiết mở, viết i ngắn: kĩ (thuật), lí (thuyết), mĩ (thuật), hi (vọng), (nghệ) sĩ,...
- Nguyên âm đứng một mình (âm tiết độc lập) thì sẽ viết i ngắn nếu là từ thuần Việt : ỉ (eo), ì (à) ì (ạch), (béo) ị, (ầm) ĩ,... và y dài, nếu là từ Hán Việt: ý (kiến), (lưu) ý, y (sĩ), (chuẩn) y...
- Nguyên âm đứng đầu âm tiết, có tổ hợp nguyên âm hoặc nguyên âm đôi, viết y dài: yêu (quý), yểu (điệu), yến (tiệc), yêng (hùng), huỳnh huỵch...
- Trong các âm tiết nửa mở, nếu là tổ hợp nguyên âm [wi], như trong các từ quy (tắc), (thâm) thúy, (ma) túy, (xương) tủy, quỵ lụy... thì viết y dài. Nếu là tổ hợp nguyên âm [uj], như trong các từ cúi (đầu), túi (quần), tủi (hổ), xúi (bẩy), (tàn) lụi... thì viết i ngắn.

Kiểu mới[sửa]

Trừ tên riêng, đề xuất tương đối hợp lí[25] cách dùng hai chữ i-ngắny-dài hiện nay như sau:
  • Đối với các âm tiết có phụ âm đầu /ʔ/, âm đệm /Ø/, âm chính /i/ và âm cuối /Ø/, thì có hai cách viết:
    1. 1. Dùng "i" trong các trường hợp từ thuần Việt, cụ thể là: i - i tờ; ì - ì, ì ạch, ì à ì ạch, ì ầm, ì oạp; ỉ - lợn ỉ, ỉ eo, ỉ ôi; í - í a í ới, í oắng, í ới; ị - ị, béo ị
    2. 2. Dùng "y" trong các trường hợp còn lại (thường là từ Hán-Việt), ví dụ: y - y tế, y nguyên, y phục; ỷ - ỷ lại; ý - ý nghĩa, ý kiến...
  • Đối với các âm tiết có âm đệm /Ø/ và âm chính /iə/ thì dùng "i". Ví dụ: chịa, đĩa, tía... kiến, miền, thiến... Trừ trường hợp có âm đầu /ʔ/ và âm cuối không /Ø/ thì dùng "y": yếm, yến, yêng, yêu...
  • Đối với các âm tiết có âm đệm /w/, âm chính là /i/ hoặc /iə/ thì dùng "y". Ví dụ: huy, quý, quýt... khuya, tuya, xuya... quyến, chuyền, tuyết, thuyết...
  • Việc biểu diễn nguyên âm /i/ trong các trường hợp còn lại (âm đệm /Ø/) thì dùng "i". Ví dụ: inh, ích, ít... bi, chi, hi, kì, khi, lí, mì, phi, ti, si, vi... bình, chính, hít, kim, lịm, mỉm, nín, phình, tính, sinh, vinh...
  • Việc biểu diễn âm cuối /-j/ không có gì thay đổi, vẫn dùng "y" trong các trường hợp có nguyên âm chính ngắn: (bàn) tay, (thợ) may, tây, sấy... và dùng "i" trong các trường hợp còn lại: (lỗ) tai, (ngày) mai, cơi, coi, côi...
    1. 3. Dùng "i" trong trường hợp các tiếng có phụ âm đầu + vần "i" ( ví dụ: lí, mĩ, kĩ, thi, sĩ...) đều thống nhất viết bằng "i" (i ngắn). Ví dụ: lí luận, lí tưởng, thi sĩ, nước Mĩ, Hoa Kì, bánh mì, vua Lí Thái Tông, Lí Bí, kỉ niệm, v.v... (mà không viết "y" (y dài) như trước đây. Đây là quy định của Bộ Giáo duc Việt Nam từ năm 1963 [cần dẫn nguồn]. Hiện nay Nhà xuất bản Giáo dục vẫn thực hiện nghiêm chỉnh quy định này trong việc in Sách giáo khoa các loại.

Kiểu cũ[sửa]

Cách dùng "i" hoặc "y" kiểu cũ thì thường căn cứ vào Hán Việt Từ điển của Đào Duy Anh (1931).[26] Theo đó thì "y" được dùng thay "i" với những từ gốc Hán Việt nếu đứng sau các phụ âm h, k, l, m, t, và q (qu). Vì vậy nên có "ngựa ", " tay" (gốc Nôm) nhưng "song hỷ", "tỵ nạn" (gốc Hán Việt). Những phụ âm khác thì vẫn dùng "i" như "tăng ni" chứ không có ny. Người Việt ở hải ngoại dạy tiếng Việt cho trẻ em dùng mẹo để nhớ sáu phụ âm trên bằng câu "học mau lên kẻo ta quên".

Vấn đề phiên âm[sửa]

Phiên âm hay còn gọi là dịch âm tức là đọc và ghi lại các từ ngữ không phải là tiếng Việt bằng các âm tiết có sẵn trong tiếng Việt, có cách phát âm tương tự hoặc gần tương tự. Cho đến hiện nay vẫn tồn tại tranh cãi quanh vấn đề khi nào cần phiên âm từ ngữ không phải là tiếng Việt sang tiếng Việt, khi nào không cần, nếu phiên âm thì sẽ thực hiện như thế nào, viết bằng chữ quốc ngữ ra sao.
Hiện tại có các tranh cãi chủ yếu như sau về phương pháp phiên âm và cách ghi lại bằng chữ quốc ngữ các từ được phiên âm:
  • Có nhất thiết phải căn cứ theo cách đọc trong ngôn ngữ gốc của từ được phiên âm để phiên âm sang tiếng Việt không? Nếu không thể tìm ra được cách đọc trong ngôn ngữ gốc mà chỉ biết được một số cách đọc khác nhau trong một số ngôn ngữ thì nên dựa theo cách đọc của ngôn ngữ nào?
  • Nên viết liền hay viết tách rời có dấu cách hay viết tách rời không có dấu cách các âm tiết của một từ có nhiều âm tiết? Ví dụ như: nên viết là "phốt-pho", "phốtpho" hay "phốt pho"? Nếu viết liền thì làm thế nào để phân biệt các âm tiết, không bị đọc sai. Ví dụ như: "Xuphanuvông" đọc là "Xu-pha-nu-vông" hay "Xu-phan-u-vông"?
  • Với địa danh không phải ở Trung Quốc nhưng lâu nay được mọi người quen gọi bằng tên gọi Hán Việt có cần dịch lại cho sát hơn với tên gọi trong ngôn ngữ gốc không? Ví dụ như Thổ Nhĩ Kỳ, Pháp, Đức vân vân.
  • Với những từ gốc Hán thì trường hợp nào nên phiên âm theo âm Hán Việt, trường hợp nào nên phiên âm theo cách đọc trong tiếng Trung Quốc? Nếu phiên âm theo âm Hán Việt nhưng không thể biết được từ cần phiên âm có âm Hán Việt là gì thì sẽ phải dịch như thế nào?
  • Nếu từ cần phiên âm mang một thanh điệu mà tiếng Việt không có thì từ này khi phiên âm sang tiếng Việt nên cho nó mang thanh điệu gì?
  • Tiếng Việt là ngôn ngữ có thanh điệu. Một từ trong tiếng Việt luôn luôn phải mang một thanh điệu nào đó, không có từ không có thanh điệu. Nếu từ được phiên âm không mang thanh điệu thì khi phiên âm sang tiếng Việt có thể cấp phát thanh điệu tùy ý cho chúng được không? Nếu không thì nên mang thanh điệu gì?

Hỗ trợ trên máy tính[sửa]

Các phông chữ Unicode chứa các chữ cái tiếng Việt; nằm rải rác trong phần "Latin Cơ bản", "Latin-1 Thêm", "Latin Mở rộng-A", "Latin Mở rộng-B", và Latin Mở rộng Thêm.
Chữ quốc ngữ có thể được biểu thị trong ASCII dựa trên quy ước như VIQR. Trước khi Unicode được dùng rộng rãi, các phông chữ TCVN3, VNI, và VISCII cũng đã được dùng để biểu thị tiếng Việt. Ngày nay UTF-8 là mã hóa được dùng rộng rãi trên máy tính cho tiếng Việt.
Nhiều bàn phím máy tính không hỗ trợ việc nhập trực tiếp các ký tự tiếng Việt. Điều này dẫn đến sự ra đời của các phần mềm cho phép thực hiện các phương pháp nhập ký tự tiếng Việt theo quy ước như Telex, VIQR hay VNI.

Xem thêm[sửa]

Chú thích[sửa]

  1. ^ Bổ sung F, J, W, Z vào bảng chữ cái?.
  2. ^ Âm vị và các hệ thống âm vị tiếng Việt. Website ngonngu.net. Truy cập 7 tháng 11 năm 2011.
  3. ^ Chỉ sử dụng ở một số nơi để phân biệt với "p".
  4. ^ Trước 1945 do chịu ảnh hưởng của tiếng Pháp, hiện nay ít được sử dụng.
  5. ^ Để phân biệt với "y".
  6. ^ Chỉ dùng ở một số nơi để phân biệt với "n".
  7. ^ Chỉ dùng ở một số nơi để phân biệt với "l".
  8. ^ Chỉ dùng ở một số nơi để phân biệt với "b".
  9. ^ Chỉ dùng ở một số nơi để phân biệt với "x".
  10. ^ Chỉ dùng ở một số nơi để phân biệt với "s".
  11. ^ Để phân biệt với "i".
  12. ^ Vietnam's 400-year Catholic History
  13. ^ Portuguese Pioneers Of Vietnamese Linguistics
  14. ^ Hoàng Xuân Việt. Bạch thư chữ Quốc ngữ. San Jose, CA: Hội văn hóa Việt, 2006. tr 185-186
  15. ^ CSCA: SOAS Mission Collection on Malaysia, Singapore, Indonesia, Indochina and Myanmar
  16. ^ Hoàng Xuân Việt. Bạch thư chữ Quốc ngữ. San Jose, CA: Hội văn hóa Việt, 2006. tr 157
  17. ^ Hannas, W. C. Asia's orthographic dilemma. Honolulu, HI: University of Hawaii Press, 1997. tr 84-87
  18. ^ Taberd, Jean Louis. Dictionarium Latino-Anamiticum. Serampore, 1838. tr 78
  19. ^ a b Hoàng Xuân Việt. Bạch thư chữ Quốc ngữ. San Jose, CA: Hội văn hóa Việt, 2006. tr 374-375
  20. ^ Hoàng Xuân Việt. Bạch thư chữ Quốc ngữ. San Jose, CA: Hội văn hóa Việt, 2006. tr 333
  21. ^ Franco-Vietnamese schools
  22. ^ Chương trình giáo dục ở nước ta những thập niên đầu thế kỷ XX và những ông nghè cuối cùng của nền khoa cử phong kiến
  23. ^ Đông Kinh nghĩa thục...
  24. ^ Đông Kinh Nghĩa thục
  25. ^ Theo Quan điểm của ngonngu.net đối với một số vấn đề về chính tả: 2. Về sử dụng “y/i”
  26. ^ Chữ y và i

Liên kết ngoài[sửa]

(Tiếng Việt)
(Tiếng Anh)

Tham khảo[sửa]

  • Chiung, Wi-vun T. (2003). Learning Efficiencies for Different Orthographies: A Comparative Study of Han Characters and Vietnamese Romanization. PhD dissertation: University of Texas at Arlington.
  • Gregerson, Kenneth J. (1969). A study of Middle Vietnamese phonology. Bulletin de la Société des Etudes Indochinoises, 44, 135-193. (Published version of the author's MA thesis, University of Washington). (Reprinted 1981, Dallas: Summer Institute of Linguistics).
  • Haudricourt, André-Georges. (1949). Origine des particularités de l'alphabet vietnamien. Dân Việt-Nam, 3, 61-68.
  • Nguyen, Đang Liêm. (1970). Vietnamese pronunciation. PALI language texts: Southeast Asia. Honolulu: University of Hawaii Press. ISBN 0-87022-462-X
  • Nguyễn, Đình-Hoà. (1955). Quốc-ngữ: The modern writing system in Vietnam. Washington, D. C.: Author.
  • Nguyễn, Đình-Hoà. (1992). Vietnamese phonology and graphemic borrowings from Chinese: The Book of 3,000 Characters revisited. Mon-Khmer Studies, 20, 163-182.
  • Nguyễn, Đình-Hoà. (1996). Vietnamese. In P. T. Daniels, & W. Bright (Eds.), The world's writing systems, (pp. 691-699). New York: Oxford University Press. ISBN 0-19-507993-0.
  • Nguyễn, Đình-Hoà. (1997). Vietnamese: Tiếng Việt không son phấn. Amsterdam: John Benjamins Publishing Company. ISBN 1-55619-733-0.
  • Pham, Andrea Hoa. (2003). Vietnamese tone: A new analysis. Outstanding dissertations in linguistics. New York: Routledge. (Published version of author's 2001 PhD dissertation, University of Florida: Hoa, Pham. Vietnamese tone: Tone is not pitch). ISBN 0-415-96762-7.
  • Thompson, Laurence E. (1991). A Vietnamese reference grammar. Seattle: University of Washington Press. Honolulu: University of Hawaii Press. ISBN 0-8248-1117-8. (Original work published 1965).

Xem thêm[sửa]

http://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BB%AF_Qu%E1%BB%91c_ng%E1%BB%AF

 

Geen opmerkingen:

Een reactie posten