dinsdag 30 juli 2013

Chuyện thi hành án tử hình dưới triều Nguyễn

Thứ tư, 31/7/2013 00:00 GMT+7

Chuyện thi hành án tử hình dưới triều Nguyễn

Việc kết liễu sinh mạng của kẻ phạm trọng tội thời triều Nguyễn, triều đại phong kiến cuối cùng ở Việt Nam, không phải bằng súng đạn mà bằng các biện pháp hành hình thô sơ.

Để trừng trị tội ác, Bộ luật Hình sự Việt Nam quy định mức án cao nhất là tử hình. Nếu như trước đây, tử tội sẽ bị thi hành án tử bằng loạt đạn công lý thì nay quy định mới đã thay thế bằng biện pháp tiêm thuốc độc.
Chuyện thi hành án tử thời hiện đại là vậy, còn ở thời phong kiến mà cụ thể là triều Nguyễn, triều đại phong kiến cuối cùng ở Việt Nam, việc kết liễu sinh mạng của kẻ phạm trọng tội không phải bằng súng đạn mà bằng các biện pháp hành hình thô sơ.
Theo ghi chép của Nội các triều Nguyễn, để giữ vững kỷ cương phép nước, Bộ Hình thời bấy giờ "khai sinh" 5 hình thức trừng trị (5 tội hình) những kẻ phạm tội gồm tội đánh roi, tội đánh trượng, tội đồ, tội lưu và tội xử tử. Tội đánh roi được chia thành 5 bậc, đánh từ 10 đến 50 roi, roi đánh thì dùng roi mây nhỏ.
Tội trượng cũng chia làm 5 bậc, đánh 60-100 trượng và trượng dùng để đánh phạm nhân là sợi mây to vừa, dài 2 thước 8 tấc. Tội đồ là tội bắt làm nô lệ cho biết nhục, kéo dài từ 1 đến 3 năm, chia làm 5 bậc, bậc thấp nhất là bị bắt làm nô lệ một năm và bị đánh 60 trượng, bậc cao nhất phải chịu mức án "đồ 3 năm, phạt 100 trượng".
Về tội lưu, cuốn “Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ” (quyển 179) giải thích: "Tội này phải đem đi an trí nơi phương xa, suốt đời không được về. Chia làm 3 bậc: 2.000 dặm, 2.500 dặm, 3.000 dặm, đều phải phạt 100 trượng. Người phải tội nặng hơn tội lưu thì gọi là tội sung làm quân. Tội này chia làm 4 bậc, bậc được ở gần thì phát (đày đi nơi xa) đi 2.000 dặm, bậc ở gần biên giới thì phát đi 2.500 dặm, bậc ở biên giới xa phát đi 3.000 dặm, bậc ở biên giới rất xa phát đi 4.000 dặm. Các tội này đều phải phạt 100 trượng".
Trong 5 thứ tội hình thời bấy giờ, khủng khiếp nhất là tội thứ 5, tội xử tử. Chẳng như nhiều người lầm nghĩ, một khi bị triều đình khép án tử, tử tội sẽ bị "trảm" (chém đầu), triều Nguyễn phân chia án tử thành các tội như tội giảo (treo cổ), tội trảm (chém đầu), tội lăng trì (xẻo từng miếng thịt), tội cưu thủ (chém rồi lấy đầu đem bêu), lục thi (băm xác). Về những can phạm mắc trọng tội bị tuyên xử tử, Bộ Hình ghi rõ: "Nếu kẻ nào phạm tội ác quá nặng thì đem thi hành ngay, không phải đợi đến kỳ xét án. Còn các tội khác đều đợi đến hạn mùa thu mới đem thi hành án".
Trước khi bị đem đi thi hành án, theo lệnh vua, triều thần phải xét lại, phải phân biệt tử tội nào có tình thực, tử tội nào được hoãn xử tử và tử tội nào đáng thương, đáng ngờ để tâu lên xin vua định đoạt. Cũng theo lệnh thiên tử, hằng năm cứ đến tháng giêng, tháng 6 đều phải đình hoãn việc hành hình: "Ở trong Kinh và ngoài các tỉnh, những tù nặng phải đem xử ngay đều phải giam chặt lại đến đầu tháng 2 và tháng 7 sau ngày lập thu mới được hành hình. Nếu trong tháng 5 giao với tiết tháng 6 và ngày lập thu vào trong tháng 6 cũng đình hoãn việc hành hình".
Tìm hiểu về việc thi hành án tử của triều đại phong kiến cuối cùng ở Việt Nam, mới rõ từ thời điểm Chúa Nguyễn Ánh lập quốc kéo dài đến thời vua Khải Định, triều đình duy trì danh sách 10 tội ác (thập ác). Bất kỳ ai vi phạm một trong những trọng tội này sẽ bị xử tử ngay lập tức nếu họ không nằm trong danh sách 8 hạng người được đem ra bàn trước khi xử tội.  
xu1-1375182481_500x0.jpg
Một buổi xử án.
Đứng đầu trong danh sách 10 tội ác phải trảm quyết ngay là tội mưu phản (lập mưu lật đổ chính thể trong nước), tiếp đến là tội mưu đại nghịch (kẻ mưu phá hủy nhà tôn miếu, lăng tẩm và cung khuyết của nhà vua). Tội mưu bạn (mưu phản nước mình, ngầm theo nước khác) là tội thứ 3 trong danh sách 10 tội ác.
Thứ bậc kế tiếp trong nhóm 10 tội ác là tội ác nghịch (mưu đánh và mưu giết ông bà, cha mẹ của mình, ông bà cha mẹ chồng, giết chú, bác trai, thím, bác gái, cô, anh, chị, ông bà ngoại và chồng), tội bất đạo (giết 3 người trong một nhà người ta mà 3 người ấy không đáng phải tội chết), tội đại bất kính (kẻ ăn trộm đồ dùng của các nơi đại tự và đồ dùng của vua, làm giả dấu ấn của vua, thuyền của vua đi lầm lỡ do không phòng bị trước cho bền chặt).
Bất hiếu là tội thứ 7 trong 10 tội ác. Triều đình ghi chú rõ người mắc tội này là kẻ đi tố cáo, nguyền rủa, mắng chửi ông bà cha mẹ của mình hay ông bà, cha mẹ của chồng cùng ông bà, cha mẹ còn sống khi phân chia ở riêng, của riêng, hoặc thiếu sự nuôi nấng. Ngoài ra, những kẻ đang để tang cha mẹ mà lấy chồng, lấy vợ hay cứ hát xướng làm trò vui, hoặc kẻ mà cha mẹ chết nhưng giấu đi không phát tang cũng bị khép tội bất hiếu.
"Kẻ mưu giết và bán người thân phải để tang 3 tháng trở lên, đánh và tố cáo chồng và các tôn trưởng từ để tang từ đại công trở lên (để tang 9 tháng) hay các tôn thuộc phải để trở tiểu công (để tang 5 tháng trở xuống)". Đấy là diễn giải của Bộ Hình triều Nguyễn về tội ác thứ 8, tội bất mục.
"Kẻ là dân trong hạt mà giết viên tri phủ, tri huyện, tri châu coi hạt mình, quân lính giết các quan lại cai quản mình, lính hầu vua giết viên trưởng quan từ Ngũ phẩm trở lên, cùng giết người thầy hiện đương học và nghe tin chồng chết ẩn giấu đi không phát tang, bày chơi trò vui, bỏ áo tang mặc áo thường, hoặc đi lấy chồng khác trong khi có tang chồng", tội ác thứ 9, tội bất nghĩa.
>>> Xem tiếp

http://vnexpress.net/tin-tuc/phap-luat/chuyen-thi-hanh-an-tu-hinh-duoi-trieu-nguyen-2857740.html

Thứ tư, 31/7/2013 00:00 GMT+7

Chuyện thi hành án tử hình dưới triều Nguyễn

Tội cuối cùng trong thập ác là tội nổi loạn. Tội phạm liên quan đến trọng tội này là kẻ gian dâm với đàn bà con gái trong họ từ người phải để tang từ 5 tháng trở lên, hay thông dâm với nàng hầu của cha, ông, kể cả kẻ bằng lòng để cho thông gian.
Kẻ nào đó khi phạm một trong 10 tội ác này sẽ bị quan hình án ban lệnh trảm ngay lập tức, dẫu có gặp vào dịp đặc xá cũng không được tha. Tùy mức độ vi phạm mà tử tội có thể bị chém đầu, hay lóc từng miếng thịt cho đến chết, hoặc phải treo cổ… Nhưng nếu họ nằm trong nhóm 8 hạng người đem ra bàn trước khi xử tội, việc xử tử sẽ được đích thân thiên tử xem xét. Đó là người họ hàng về anh em 5 đời trở lên của nhà vua, người cố cựu của nhà vua thường được gọi vào hầu ra mắt và được đặc biệt gia ân hậu đãi lâu ngày, người từng ra trận chém được tướng hay cướp được cờ của giặc hoặc thắng trận ngoài xa muôn dặm, người hiền nhân quân tử có đức hạnh lớn với lời nói và việc làm có thể dùng khuôn phép cho đời, người là dòng dõi của triều đại trước làm khách của triều đại sau… 
Những năm đầu lập quốc, để giữ vững kỷ cương phép nước trong tình hình chính sự còn nhiều biến động nên vua Gia Long rất nghiêm khắc với những người phạm tội trong "thập ác". Và để an dân, trong lịch sử 13 đời vua Nguyễn, vua Gia Long cũng là ông vua có rất nhiều lần tha tội chết cho tử tội để tỏ rõ đức hiếu sinh.
Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ (quyển 200) có nhắc đến những lần tha tội chết cho tử tội của vị vua sáng lập triều Nguyễn này. Năm Gia Long thứ 5 (1806), vua ra chiếu chỉ cho tỉnh Gia Định với nội dung: "Ta mới lên nối ngôi, chăm lo mọi việc, trên thể theo lòng hiếu sinh của trời, lúc nào cũng chăm nghĩ đến việc hình là đáng thương xót. Mới rồi có chiếu xuống cho các doanh, trấn ở Bắc thành, phàm những người phạm vào tội quân, lưu trở xuống, đã hay chưa kết án đều cho tha về cả. Tội xử tử bao nhiêu án, chuẩn giao cho Bộ Hình tra xét rõ ràng tội danh nặng nhẹ xin chỉ khoan tha cho có thứ bậc".
Chỉ lệnh vua ban tha tội chết cho tử tội được gọi là xá thư. Năm Gia Long thứ 6 (1807), có một tử tội may mắn nhận được xá thư ấy. Trương Văn Giám nguyên trước đây can tội đánh chết vợ, phải tội giảo giam hậu (giam chờ ngày xử chém). Kỳ xét án mùa thu năm thứ 5, Trương Văn Giám được giảm tội xử tử phải lưu ở tỉnh Quảng Ngãi. Cha mẹ hắn đã được 70 tuổi, tình nguyện đi theo để trông nom nuôi nấng.
Khi ân xá tha tội chết cho tử tội, vua Gia Long tỏ ra rất đắn đo, cân nhắc: "Nhà nước đặt ra điển hình (hình phạt) rõ ràng cốt để răn đe kẻ ác, trị kẻ gian, trừ hại cho dân. Người xưa trong việc hình ngục lúc nào cũng để lòng kính cẩn thương xót, mà cũng răn người về lỗi tha vậy. Xưa có câu rằng: "Phải cẩn thận, chớ có xá bậy. Tha kẻ có tội, làm hại kẻ lương dân". Thế nên khi "xá" cho Trương Văn Giám, vua Gia Long, nói rõ: "Đó là một việc ban ơn ra ngoài pháp luật, từ nay về sau không được viện lệ này mà tâu xin".
Bộ Hình thời bấy giờ cũng đặt ra một số chính sách "tha tội" chết cho những tử tội có hoàn cảnh đặc biệt: "Những tù phạm về tội giết người có tâu xin cho ở lại hầu nuôi bề thân (cha mẹ) phải xét rõ người bị giết ấy còn cha mẹ hay không, có phải là con một hay không. Nếu người bị giết chết ấy cũng là con một, cha mẹ già không có ai hầu nuôi thì tên can phạm giết người ấy không cho được ở nhà hầu nuôi. Nếu người bị giết chết không có họ tên, quê quán để tra xét được sẽ chuẩn cho can phạm ấy được ở lại hầu nuôi bề thân".
Cũng theo Luật Hình triều Nguyễn, tội phạm nào mà anh em đều phải xử tử cả thì luật cho phép để lại một người sống để hầu nuôi bề thân, nhưng phải chiểu lệ tâu lên xin chỉ quyết định.
Theo An ninh thế giới
 
 
Thứ năm, 25/7/2013 01:19 GMT+7

Hai vụ án nổi tiếng của triều Nguyễn qua sách cổ

Trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam có nhiều vụ án liên quan đến bậc công thần. Riêng vương triều Nguyễn có hai vụ án nổi tiếng là vụ Nguyễn Văn Thành và Tả Quận công Lê Văn Duyệt.

Nguyễn Văn Thành (1758–1817) là một trong những vị khai quốc công thần của triều Nguyễn và là một trong những người có công lớn nhất đưa Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi, trở thành vị vua đầu tiên (vua Gia Long) của triều Nguyễn - triều đại phong kiến cuối cùng của Việt Nam (1802–1945). Ông bôn ba theo vua Gia Long từ lúc khó khăn nhất đến khi nhà Nguyễn thống nhất được giang sơn. Cùng với vua Gia Long, ông đã trải qua nhiều thử thách khi quân Tây Sơn truy đuổi. 
Dù là công thần của triều đình nhưng Nguyễn Văn Thành đã liên quan đến một vụ án thời vua Gia Long để rồi ông đã phải chọn cái chết tức tưởi. Điều đặc biệt ở chỗ Nguyễn Văn Thành là người soạn thảo Bộ luật Gia Long nhưng chính ông đã phải nhận cái án đầy khắc nghiệt mà mình đã soạn ra.
Vụ án của Nguyễn Văn Thành xuất phát từ một bài thơ và ông đã phải chịu trách nhiệm liên đới. Nguyễn Văn Thành có con trai Nguyễn Văn Thuyên. Vốn hâm mộ văn chương, Thuyên thường làm thơ, ngâm vịnh văn thơ với những kẻ sĩ. Bấy giờ nghe người ở Thanh Hóa là Nguyễn Văn Khuê và Nguyễn Đức Nhuận có tiếng hay chữ, ông Thuyên làm một bài thơ tặng.
Sách “Đại Nam thực lục chính biên đệ nhất kỷ” (ghi chép lịch sử thời vua Gia Long) chép bài thơ có nội dung sau: “Nghe nói Ái Châu nhiều tuấn kiệt/ Dành để chiếu bên ta muốn chờ/ Vô tâm ôm mãi ngọc Kim Sơn/ Tay sành mới biết ngựa Ký Bắc/ Thơm nghìn dặm lan trong hang tối/ Vang chín chằm phượng hót gò cao/ Phen này nếu gặp Tể (tướng) trong núi/ Giúp ta kinh luân chuyển hóa cơ”.
Bài thơ đến tai nhiều vị quan triều đình, trong đó có vua Gia Long. Do Nguyễn Văn Thành là công thần nên có một số người ghen tị với công trạng của ông. Những người có hiềm khích với Nguyễn Văn Thành đã dựa vào hai câu cuối của bài thơ mà lập luận, suy đoán, thêu dệt thành ý phản loạn, truất ngôi vua của cha con ông. Ông đã bị tước hết chức quan và tiếp tục chờ xử lý.
Sách “Đại Nam thực lục chính biên đệ nhất kỷ”, quyển 53, năm Gia Long thứ 15 (1816) có chép: Vua nói: “Văn Thành là kẻ có tội nhưng cũng nên có cách xử trí”. Bèn thu quan phục và kiếm, Văn Thành mất chức. Vua bảo bầy tôi rằng: “Văn Thành thân làm đại thần mà dung túng cho con kết nạp môn khách là hiếu danh ư? Hay ý muốn làm gì? Lật ngôi vua ư? Phản loạn ư?”.
Dù là bậc thiên tử nhưng trước sức ép các quan khác, Gia Long đã không bảo vệ được một trong những vị công thần có công lớn đưa mình lên ngôi hoàng đế là Nguyễn Văn Thành. Vụ án ngày càng trở nên căng thẳng trong triều đình, cuối cùng Nguyễn Văn Thành đã phải chịu cái án nặng nhất – cái chết.
Sách “Đại Nam thực lục chính biên đệ nhất kỷ”, quyển 55, năm Gia Long thứ 16 (1817) có chép: Vua nói: “Trẫm đãi Văn Thành không bạc, nay hắn tự mình làm nên tội thì phép công của triều đình trẫm không thể làm của riêng được”. Vua bèn sai bắt Văn Thành và con giam ở nhà quân Thị lang. Bầy tôi họp để xét hỏi Văn Thành. Hỏi: “Có làm phản không? Có muốn lật ngôi không?”. Thành nói: “Không”.
Vài ngày sau, thống chế Hoàng Công Lý nói với Văn Thành rằng: “Án đã xong rồi, vua bắt bầy tôi chết, bầy tôi không chết không phải là trung”. Thành lặng im uống thuốc độc chết. Vua triệu Hoàng Công Lý hỏi rằng: “Văn Thành khi chết có nói gì không?”, Công Lý nói: “Bẩm không”. Vua giận nói rằng: “Văn Thành không biện bạch mà chết, sự nhơ bẩn càng rõ rệt”. Đúng lúc đó, có quân lính lại nhặt được tờ di chiếu trần tình của Văn Thành trước lúc chết ở nhà quân đem dâng. Vua cầm tờ trình khóc to đưa lên cho bầy tôi xem mà dụ rằng: “Văn Thành từ lúc nhỏ theo trẫm có công lao to. Nay nhất đán đến nỗi chết, trẫm không bảo hộ được ấy là trẫm kém đức”.
Vụ án Nguyễn Văn Thành khép lại để lại những dấu hỏi lớn trong triều đình. Nguyễn Văn Thành phải uống thuốc độc tự tử, còn người con trai của ông là Nguyễn Văn Thuyên bị trảm quyết. Việc vì sao tờ di chiếu trần tình trước lúc chết của Nguyễn Văn Thành lại không đến được tay vua trước lúc ông chết vẫn là bí ẩn.
26-sach97-450-1374665478_500x0.jpg
Sách “Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập” nói về việc vua Gia Long phong cho Nguyễn Văn Thành làm Tổng trấn Bắc Thành. Ảnh: Cảnh sát toàn cầu.
Tả Quận công Lê Văn Duyệt (1764–1832) là công thần trụ cột của nhà Nguyễn. Ông đã theo tòng chúa Nguyễn Phúc Ánh từ năm 17 tuổi, cùng với chúa Nguyễn Phúc Ánh và các tướng lĩnh khác lấy thành Bình Định, chiếm thành Phú Xuân, thu đất Bắc Hà về cho nhà Nguyễn, giữ chức Tổng trấn Gia Định Thành 2 lần: từ 1812 đến 1815 (triều vua Gia Long) và từ 1820 đến 1832 (triều vua Minh Mạng). Vì thế mà Lê Văn Duyệt được liệt vào hàng ngũ khai quốc công thần của vương triều Nguyễn. Thế nhưng cuộc đời ông đã gặp một chuyện hy hữu liên quan đến người con nuôi là Lê Văn Khôi để rồi trở thành một vụ án lớn mà lịch sử thường gọi là vụ án Lê Văn Duyệt.
Từ khi con nuôi ông là Lê Văn Khôi nổi loạn chiếm thành Phiên An (tức thành Gia Định) vào năm 1833, vua Minh Mạng thường ban trách Lê Văn Duyệt. Năm 1835, dù Lê Văn Duyệt đã chết nhưng sau khi triều đình dẹp xong cuộc nổi dậy Lê Văn Khôi, Phan Bá Đạt dâng sớ kể tội Duyệt xin vua đưa người thân Lê Văn Duyệt về Hình bộ xét tội. Minh Mạng giao cho đình thần nghị xử. Vài hôm sau có nhóm nội các là Hà Quyền, Nguyễn Tri Phương và Hoàng Quýnh nghị tội Lê Văn Duyệt, có bảy tội phải chém, hai tội phải thắt cổ.
Sách “Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ”, quyển 162 năm Minh Mạng thứ 16 (1835) chép về tội án của Lê Văn Duyệt như sau: Duyệt vì lời nói và việc làm bội nghịch, có 7 tội đáng chém: 1- Sai người riêng của mình sang Diến Điện kết ngoại giao ngầm. 2- Xin đưa thuyền Anh Cát Lợi đến kinh thành để tỏ mình có quyền. 3- Xin giết Thị vệ Trần Văn Tình để khóa miệng người khác. 4- Dâng sớ chống lại mệnh vua. 5- Kết bè đảng. 6- Giấu riêng những giấy đóng sẵn ấn Ngự bảo. 7- Gọi mộ tiên nhân là “lăng”.
Vua dụ rằng: “Thế đủ thấy lẽ trời sáng tỏ công khai, đạo công tồn tại ở ta thực không thể bưng bít. Kẻ quyền gian gây vạ cả thiên hạ đều giận. Vả, Lê Văn Duyệt đếm tội cũng không kể hết, nói đến đau lòng, dù bổ áo quan mà phanh thây cũng không oan. Song nghĩ, hắn chết đã lâu, lại đã truy đoạt quan tước, nay nắm xương khô cũng không được để yên. Vậy sai Đốc phủ Gia Định lập tức phá tan mồ mả thành đất phẳng và dựng cái bia đá ở trên khắc 8 chữ: “Quyền yêm Lê Văn Duyệt phục pháp xứ” (Chỗ quan lộng quyền Lê Văn Duyệt chịu tội chết) để nêu rõ tội danh sau khi chết mà làm sáng tỏ phép nước về sau này và để làm gương răn cho những kẻ quyền gian muôn đời, người nhà hắn thì trị nghiêm…”.
Mộ Lê Văn Duyệt ở Gia Định bị cuốc bằng. Các ngôi mộ cha mẹ ông bị đục bỏ tước hiệu khắc trên bia. Vụ án Lê Văn Duyệt khép lại để lại nhiều ẩn khuất.
Theo Cảnh sát toàn cầu
 

Geen opmerkingen:

Een reactie posten